Dương Phiêu
Posted by diendanxahoidansu on 12/11/2013
Khi bước vào cơ chế thị trường
Việt Nam buộc phải chấp nhận quy luật tất yếu của thị trường
trong đó có quy luật giá trị và quy luật cung cầu, thừa nhận giá trị của
đất đai, thừa nhận việc cung cầu nó với tư cách là loại hàng hóa đặc biệt. Sự
thừa nhận tất yếu này mới giải quyết được các nội dung kinh tế căn bản của cơ
chế thị trường, được ghi vào Luật đất đai 2003. Song ra đời trong một “cơ
chế thị trường chưa sáng tỏ” về mặt lý luận nên thiết kế các công cụ quản
lý nó bộc lộ ra nhiều yếu kém, là nguyên nhân của nhiều nguyên nhân gây bức xúc
xã hội, bất công trong thu nhập, tạo ra hình ảnh méo mó về chính sách đất đai…
Bài viết này trong khi Quốc hội
đang bàn thảo sửa đổi Luật đất đai năm 2003 góp phần nêu lên tiếng nói để nhìn
thẳng, nhìn thực thực chất về vấn đề khá nhức nối lâu nay: Tham nhũng từ đất
đai thời gian qua do đâu và bằng cách nào? Để chúng ta tiên liệu những giải
pháp hợp lý hơn khi ban hành luật.
Tham nhũng từ đất đai là gì?
Muốn thống nhất được nội dung
này cần đi từ khái niệm tham nhũng nói chung; Hiện nay có hai cách tiếp cận
khác nhau định nghĩa về tham nhũng theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, cụ thể:
+ Nghĩa rộng cho rằng: Tham nhũng là hành vi của bất kỳ ai có chức
vụ, quyền hạn hoặc người được giao nhiệm vụ quyền hạn mà lợi dụng chức vụ
quyền hạn đó để trục lợi hay nói cách khác Tham nhũng là lợi dụng quyền
hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của (Từ điển tiếng Việt). Liên Hiệp Quốc
định nghĩa trong công ước phòng chống tham nhũng năm 1969: Tham nhũng là sự
lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng.
+ Nghĩa hẹp cho rằng: Tham nhũng là hành vi của những người có
chức vụ quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để vụ lợi.(Luật Phòng chống
tham nhũng của Việt Nam 2005). Theo khái niệm này thì chức vụ quyền hạn
được hiểu là chức vụ quyền hạn ở các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội
có sử dụng ngân sách nhà nước, tài sản, vốn của nhà nước. Chức vụ quyền hạn
phải là chức vụ quyền hạn hợp pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm.
Như vậy hiểu theo pháp luật
Việt Nam: Tham nhũng từ đất đai là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn
đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để vụ lợi thông qua việc thi hành các chính
sách pháp luật đất đai.
Nếu theo lý thuyết này thì hành
vi tham nhũng có đủ 12 loại hành vi nói chung của tham nhũng mà luật tham nhũng
nêu (xem Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 và Luật sửa đổi 2007).
Tham nhũng thông qua cơ chế thu hồi đất thực hiện dự án:
Luật đất đai 2003 cho phép cơ
quan nhà nước (cấp tỉnh và huyện) được thu hồi quyền sử dụng đất của dân
để thực hiện các dự án phục vụ quốc phòng an ninh, lợi ích công cộng và cả các
dự án kinh tế (thực chất một phần cho doanh nghiệp phi nhà nước khác); khi
Doanh nghiệp được giao đất làm dự án đặc biệt là dự án kinh doanh nhà để bán,
bán đất và bán nền nhà…doanh nghiệp phải thực hiện 04 khoản chi phí cụ thể: (1)
Chi trả các loại lệ phí: quy hoạch, thẩm định, chi phí chung, lệ phí giấy
phép…(2) Chi phí mờ để được giao nhận dự án bao gồm các
khoản chi: chi bồi dưỡng, chi quà biếu, chi ngoại giao… (3)
Chi phí cho việc thực hiện quy hoạch, thực hiện dự án: đầu tư cơ sở hạ
tầng, điện, nước, đường, mương, cây xanh….(4) Chi phí cho việc
thu hồi đất: gồm bồi thường đất, tài sản trên đất cho người bị thu hồi đất
và hỗ trợ nếu có để thu hồi được đất làm dự án. Bốn khoản chi phí trên đây là
cố định của bất kỳ dự án nào. Tuy nhiên ở mỗi dự án, mỗi địa phương khác nhau
việc chi trả từng mục khác nhau theo tỷ lệ nhất định được pháp luật quy định ở
mục 1,3,4, được ngầm định ở mục 2.
Công thức chung là vậy, thông
qua công thức chung này chủ đầu tư có được thông số chung về dự án để tính ra
lợi nhuận. Song bất kỳ nhà đầu tư nào đều mong muốn lợi nhuận càng tăng và chi
phí càng giảm. Nhìn vào 4 mục chi trên chúng ta thấy: mục (1) là chi phí do nhà
nước quy định không thể giảm; mục (2) là cơ chế thị trường quy định theo xu thế
chung khi mà cung ít, cầu nhiều đối với dự án thì cũng không thể giảm; mục (3)
nhà đầu tư có thể giảm được, nhưng không nhiều vì giảm nhiều sẽ ảnh hưởng đến
chất lượng công trình; vậy thì chỉ có thể giảm tại mục (4) vì đây là mục pháp
luật quy định chung, khi áp dụng phải cá thể hóa thành từng trường hợp cụ thể;
từng chủ thể nhận bồi thường riêng rẽ không biết nhau, hiểu biết pháp luật khác
nhau và mỗi chủ thể có hoàn cảnh riêng nên có thể giảm tối đa.
Thực hiện giảm tối đa cho mục
(4) được thông qua các hình thức cụ thể như sau:
a, Tính giảm bồi thường tài sản
và hỗ trợ đến mức thấp nhất: Trong Luật Đất đai năm 2003 đã phát sinh nghịch
lý rất rõ dàng mà ít người lên tiếng cụ thể: Luật quy định Nhà nước có quyền
thu hồi lại “Quyền sử dụng đất của dân” với tư cách là nhà nước là chủ
sở hữu – đây là việc phải chấp nhận; song tài sản của người dân trên đất
thì không thể thông qua quyền hành chính làm phát sinh được mà phải thực hiện
theo luật dân sự. Có nghĩa là phải thỏa thuận, bồi thường ngang giá. Nhưng
chính pháp luật đất đai lại quy định cho cơ quan nhà nước quyền ấn định mức giá
cụ thể về các loại tài sản (sát đúng giá, hay sai giá, áp đặt giá…đều do nhà
nước quyết định) người dân khi bị thu hồi phải thực hiện. Cơ chế này đã dẫn đến
nhiều nơi UBND tỉnh ban hành giá thấp hơn nhiều so với thị trường, hoặc chậm
thay đổi khi giá thị trường đã thay đổi tăng gấp vài lần…nhưng vẫn được ấn định
áp giá cho dân.
Quy trình cá thể hóa việc bồi
thường cho từng hộ cũng được cơ quan chuyên trách dự án cắt bỏ các chính sách
mà họ được hưởng nhờ vận dụng vào một hệ thống văn bản đồ sộ mà người dân không
biết văn bản nào là đúng cho trường hợp của mình; thậm chí không cần văn bản
quy phạm pháp luật mà chỉ dựa trên một văn bản có tính kết luận (thông báo kết
luận buổi họp) làm cơ sở pháp lý. Khi tính toán bồi thường các cơ quan có thẩm
quyền buộc người dân phải thực hiện trách nhiệm chứng minh hồ sơ đất trong khi
để thực hiện quyền này người dân đã nộp các tài liệu đó cho các cơ quan nhà
nước từ lâu rồi, nay không còn tài liệu minh chứng. Từ đó người làm công tác
bồi thường thậm chí tạm tính gọi là “Phương án bồi thường” chưa cần được
phê duyệt đã gọi dân lên nhận tiền, nếu êm xuôi thì hợp thức hóa bằng
quyết định phê duyệt, còn cụ thể phê duyệt thế nào, bao nhiêu là chuyện khác.
Nếu dân thắc mắc thì lập lại phương án, yêu cầu dân chứng minh quá trình sử
dụng đất, nếu có chênh tăng diện tích so với giấy tờ thì tính lại diện tích
tăng để thu tiền giao đất trừ vào tiền bồi thường…Có vụ việc người dân đã từng
bị mất đến 92% số tiền của mình đáng lẽ được hưởng.
b, Chậm chi trả tiền bồi thường
cho dân để kéo dài việc giải quyết khiếu nại: Trong trường hợp cơ quan nhà nước ban hành
quyết định mức giá bồi thường cho từng hộ dân, nhưng lại không có tiền chi trả
vì chủ đầu tư không có tiền sau đó người dân thắc mắc nhiều lần hàng năm, vài
năm mới chi trả nhưng chỉ trả theo giá đã duyệt, trong khi đó giá thì trường
thay đổi nhiều lần.
Trường hợp nếu họ không nhất
trí (chưa nhận tiền) sẽ khiếu nại; Luật Khiếu nại đã quy định rõ thời hạn giải
quyết nhưng các cơ quan không thực hiện đúng thẩm quyền, quy trình và thời hạn,
để dây dưa nhiều năm (có trường hợp 7-8 năm) quá nhiều lần thời hạn luật định.
Khi có kết quả cuối cùng người dân mới nhận được tiền thì cũng chỉ nhận được
mức giá đã phê duyệt trước đây.
c, Ban hành chính sách pháp
luật riêng ở địa phương: Luật Đất đai, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND
và Luật Tổ chức HĐND và UBND mỗi cấp đều quy định thẩm quyền sâu cho UBND cấp
tỉnh; trong đó giao cả cho các cơ quan này quyền quyết định chính sách. Lấy một
ví dụ cụ thể để chứng minh điều này: Có UBND tỉnh phía bắc đã đưa ra một khái
niệm riêng về đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư như sau: “Đất nông
nghiệp xen kẽ trong khu dân cư là thửa đất nằm trong khu dân cư có ít nhất hai
mặt tiếp giáp với đất ở”Trong khi đó thông tư 116/2004/TT-BTC ngày
7/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn nội dung này chỉ nêu: Đất nông nghiệp
xen kẽ trong khu dân cư phải là thửa đất nằm trong khu dân cư. Định nghĩa
mới của tỉnh nọ đã gây ra hậu quả tai hại là tước đi quyền lợi chính đáng của
hàng nghìn hộ dân với hàng trăm tỷ đồng mà lẽ ra họ được hưởng. Cũng qua định
nghĩa này thấy được trình độ của người làm luật địa phương đến mức độ nào: vì
đất chỉ có mặt quay lên trời còn mặt kia quay xuống lòng đất không hiểu có mặt
nào giáp đất ở?
Tham nhũng qua hình thành cơ chế phê duyệt dự án giao đất
Phần trên đã nêu con đường hình
thành tham nhũng đất thông qua cơ chế thu hồi đất thực hiện dự án, phần này nêu
ra con đường hình thành tham nhũng qua cơ chế phê duyệt dự án giao đất: Hầu hết
các dự án do chủ đầu tư tự đầu tư để làm nhà ở, phục vụ mục đích kinh doanh của
chủ đầu tư…là vốn của nhà đầu tư. Điều này cũng đồng nghĩa cách hiểu của một số
quan chức của cơ quan có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt dựa án – họ quan niệm
đây không là tiền ngân sách mà là tiền của chủ đầu tư. Do vậy các bước thẩm
định được làm thoáng hơn: ví dụ khi trình dự án san ủi mặt bằng là đồng ruộng,
có xen kẽ ao chuôm để làm mặt bằng khu dân cư, chủ đầu tư phải tính toàn khối
lượng vét bùn ao, bùn ruộng để hoàn thổ, lu lèn tạo cốt nền chuẩn …họ trình một
khối lượng là 1 vạn m3, nhưng khi thực hiện không mấy doanh nghiệp bóc
đất đá hoàn thổ mà lu lèn lại….Như vậy khối lượng trênh tăng ở đây ai hưởng?
Trong trường hợp này doanh
nghiệp vẫn đương nhiên quyết toán toàn bộ số lượng trênh tăng đó vào dự án và
được trừ đi phần gọi là đầu tư để miễn chính sách thuế, chia lợi nhuận…
Tham nhũng qua việc quy định giá đất để bán, quy định giá
nhà để bán:
Luật Đất đai năm 2003 và văn
bản hướng dẫn thi hành cho phép UBND tỉnh được quyền quy định giá đất ở để giao
đất đất ở có thu tiền, kể cả dự án làm nhà ở nhưng chưa làm xong cơ hạ tầng;
điều này dẫn đến tình trạng ngay khi nhà đầu tư mới lấy xong đất của dân, chưa
làm gì ngoài việc phá bò ruộng để thông thửa đã tro biển quy hoạch phân lô,
UBND tỉnh đã quyết định giá đất từng lô dân cư, nhà nước có một quy trình về
làm giá tại các nghị định, song tiêu chí lại chưa rõ dàng. Đã có tình trạng chủ
đầu tư báo cáo cơ quan giá địa phương: “dự án này toàn các anh lãnh đạo nhận
mua, mà các anh ấy thu nhập thấp lắm lương ngân sách chứ phải như doanh nghiệp
đâu, đề nghị cơ quan giá định giá thấp để tạo điều kiện cho các anh ấy có chỗ
ở”. Đồng thời có “chút quà biếu gọi là”; cơ quan giá khi biết thông tin
trên đã thống nhất giá chỉ bằng ½ giá đất giao dịch của chính thửa đất đó. Sau
khi nhận quyết định còn tươi con dấu từ UBND tỉnh nọ doanh nghiệp đã bán 5/10
lô một anh quan chức tỉnh nọ đứng tên (vợ hoặc con) đã thu đủ tiền theo giá của
tỉnh; số 05 lô còn lại được chuyển không cho lãnh đạo đã đăng ký nhận mua mà
không phải đóng một đồng tiền nào.
Kết luận:
Đất đai là tài sản đặc biệt,
nhưng trước khi là tài sản đặc biệt phải là tài sản cụ thể, điều đó cũng có
nghĩa là phải tuân theo quy định chung của sở hữu đích thực. Sở hữu đích thực
về đất đai theo chúng tôi phải quy định cho người dân. Vì bất cứ hướng
dẫn, giải thích nào liên quan đến người dân mà không dựa trên sở hữu được các
nguyên lý của nhân loại nêu ra về sở hữu đều không thể có lối thoát đúng đắn và
có nguy cơ hạn chế quyền lợi chính đáng của người khác.
No comments:
Post a Comment