Benjamin Schreer, ASPI
Người dịch: Huỳnh Phan
Posted by adminbasam on November 2nd, 2013
Bình luận gần đây về việc Tổng thống Barack Obama hủy bỏ
vào phút cuối chuyến đi của ông đến cuộc họp APEC tại Bali và Hội nghị Thượng
đỉnh Đông Á tại Brunei phản ánh áp đảo lối suy nghĩ cổ điển ‘tổng bằng không’.
Dư luận chung là tính đáng tin của việc Mỹ ‘xoay trục’ đã bị xói mòn nhiều thêm
nữa, và rằng Trung Quốc đã sử dụng sự vắng mặt của Obama để củng cố vị trí của
mình với các quốc gia ASEAN.
Tuy nhiên, chính trị quốc tế hầu như không theo động lực
nhị phân như vậy. Trên thực tế, vì nhiều lý do, mục tiêu của Bắc Kinh nhằm tăng
cường vị thế của mình trong khu vực Đông Nam Á với cái giá mà Washington phải
chịu rất có nhiều khả năng thất bại. Thứ nhất, các nhà lãnh đạo khu vực đều
hiểu rất rõ rằng chuyến đi Đông Nam Á của Tổng thống bị hủy không đồng nghĩa
với một sự thay đổi trong chiến lược châu Á của Hoa Kỳ. Các cường quốc khu vực
chính như Malaysia và Indonesia thừa nhận việc Obama ở nhà là chuyện bắt buộc.
Thay vào đó, Ngoại trưởng John Kerry đã tham dự cả hai cuộc họp và đã đưa ra
thông điệp chính mà các nước Đông Nam Á muốn nghe: Mỹ hy vọng Trung Quốc và các
nước láng giềng giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trong Biển Đông một cách hòa
bình.
Thứ hai, thông điệp này làm lộ gót chân Asin của Trung
Quốc ở Đông Nam Á: trong khi các nước ASEAN có tranh chấp đang mong muốn đàm
phán, Bắc Kinh lại không sẵn sàng thỏa hiệp về chủ quyền lãnh thổ quá đáng của
nước này ở Biển Đông. Tại Brunei, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường không
những lặp lại rằng Bắc Kinh có ‘các quyền không thể tranh cãi’ bên trong đường
‘chín đoạn’ mà ông còn cảnh báo các nước không trực tiếp có dính dáng, kể cả Úc
và Nhật Bản, phải đứng ngoài các tranh chấp này. Như vậy, Trung Quốc không đạt
được nhiều tiến bộ trong việc thuyết phục các nước Đông Nam Á về thiện ý của
mình. Nói một cách đơn giản, hành vi quyết đoán của họ trong Biển Đông đã gây
ra hao hụt hầu như khó khôi phục về lòng tin giữa Bắc Kinh và các nước ASEAN.
Nó cũng mở ra một con đường cho các đấu thủ bên ngoài như Ấn Độ và Nhật Bản
tăng cường vai trò an ninh ở Đông Nam Á.
Thứ ba, kết quả là một số quốc gia Đông Nam Á tỏ dấu hiệu
về hành vi ‘cân bằng bên trong’ và ‘bên ngoài’ chống lại Trung Quốc. Với hậu
thuẫn chủ yếu của Nga, Việt Nam đang phát triển các thành phần khả năng ‘chống
tiếp cận/ từ chối khu vực’ (anti-access/area-denial – A2/AD) để bù vào việc
tăng cường lực lượng biển trong khu vực của Trung Quốc. Sau nhiều thập kỷ lo
lắng về vấn đề an ninh nội bộ, Philippines đang cố gắng xây dựng một vị thế
‘phòng thủ đáng tin tối thiểu’ chống Trung Quốc. Những nước khác rõ ràng đang
tìm cách che chắn khả năng có căng thẳng nhiều hơn ở Biển Đông. Chẳng hạn, Singapore
mời Mỹ triển khai bốn tàu chiến ven biển. Họ cũng có khả năng chọn máy bay
Joint Strike Fighter làm máy bay chiến đấu kế tiếp của mình, điều này sẽ tăng
cường việc hợp tác quân sự với Mỹ.
Thứ tư, các diễn giải cho rằng sự vắng mặt của Obama là
bằng chứng cho sự thiếu chuyên tâm về tái cân bằng là có vấn đề. Có hai lập
luận chính thường được đưa ra. Một là Washington đang quá bận rộn với Trung
Đông và hai là Hoa Kỳ không còn tiền để tài trợ cho việc chuyển trục về châu Á
– Thái Bình Dương của Lầu Năm Góc. Lập luận đầu không nhận thấy được rằng Mỹ
vẫn còn là một cường quốc toàn cầu với trách nhiệm toàn cầu – đơn giản là vì
phát biểu gần đây của ông Obama trước Đại hội đồng LHQ đề cập quá ít về châu Á
– Thái Bình Dương so với Trung Đông không có nghĩa là Mỹ đột nhiên thiếu quan
tâm đối với châu Á.
Lập luận thứ hai cũng không thuyết phục. Mặc dù có sức ép
lên ngân sách quốc phòng của Mỹ, Lầu Năm Góc vẫn tiếp tục chuyển các hệ thống
quân sự quan trọng tới khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hồi đầu tháng 10, các
quan chức Mỹ đã thông báo rằng Hoa Kỳ sẽ triển khai máy bay dọ thám không người
lái Global Hawk đến Nhật Bản vào đầu năm 2014. Và vào năm 2017 thủy quân lục
chiến sẽ bắt đầu triển khai F – 35B tới Nhật Bản, đánh dấu sự triển khai máy
bay chiến đấu Joint Strike lần đầu bên ngoài nước Mỹ. Ngoài ra, Thủy quân Lục
chiến Mỹ đang xây dựng một căn cứ chỉ huy cao cấp mới trên đảo Palawan ở
Philippines để giám sát Biển Đông. Đường băng trên đảo sẽ được nâng cấp để có
thể phục vụ việc không vận chiến lược của Mỹ (và có khả năng cho máy bay chiến
đấu). Nói cách khác, Philippines là bước mới nhất trong chiến lược của Mỹ để
tăng cường sự hiện diện luân phiên của thủy quân lục chiến trong khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương, làm phức tạp đáng kể kế hoạch hoạt động quân sự của Trung
Quốc.
Cuối cùng, các đồng minh của Mỹ có vẻ sẵn sàng gánh vác
nhiều hơn để hậu thuẫn việc xoay trục của Mỹ. Úc là một ví dụ. Thủ tướng Abbott
vừa công bố quyết định của Chính phủ Úc chia sẻ chi phí tài chính cho sự hiện
diện tăng cường của Thuỷ quân Lục chiến Mỹ ở Bắc Úc. Đồng thời, cách tiếp cận
nồng nhiệt của ông với Thủ tướng Shinzo Abe của Nhật Bản – đồng minh châu Á
quan trọng khác của Mỹ – tại hội nghị thượng đỉnh, bao gồm việc thừa nhận rằng
Tokyo cần phải đóng vai trò an ninh khu vực tích cực hơn, đã làm ông nhận lãnh
nhiều nhận xét gay gắt tại Bắc Kinh.
Tất nhiên, điều này không có nghĩa là Úc, các đồng minh
và đối tác Đông Nam Á của Mỹ hiện nay đang trong tiến trình chống Trung Quốc.
Nhưng họ có một lợi ích cốt lõi trong việc duy trì sự hiện diện của Mỹ trong
khu vực và có nhận thức sâu sắc về thời điểm bước vào vị trí. Trung Quốc còn
quá xa mới tới chỗ làm suy sụp vị thế của Mỹ ở Đông Nam Á.
Benjamin Schreer là một nhà phân tích cấp cao tại Viện
Chính sách Chiến lược Úc (ASPI).
No comments:
Post a Comment