PGS TS
Hoàng Dũng
08/11/2013
Đại
học Việt Nam từng trải qua nhiều đợt cải cách để mong chấm dứt tình trạng đào
tạo “học sinh cấp 4”, chất lượng đầu ra không cung ứng nổi cho thị trường lao động
đòi hỏi cao. Nhưng trong bảng xếp hạng đại học thế giới của Times Higher
Education – một trong những ấn phẩm xếp hạng khách quan và uy tín nhất toàn cầu
– đến nay vẫn không có một trường đại học nào của quốc gia 90 triệu dân này lọt
vào danh sách 400 đại học ưu tú nhất.
Là
người hàng ngày trực tiếp giảng dạy trên giảng đường đại học, PGS TS Hoàng Dũng
nói:
Bất chấp chúng ta có những nhà khoa học tầm cỡ thế
giới, học sinh chúng ta đoạt nhiều giải thưởng trong các kỳ thi quốc tế, giáo
dục Việt Nam vẫn bị đánh giá thấp – nghịch lý ấy từ lâu không còn làm ai ngạc
nhiên.
Giáo dục nói chung và đại học nói riêng ở Việt Nam
đã trải qua nhiều đợt, người thì nói nhẹ nhàng “cải cách”, mạnh hơn một chút
thì “chấn hưng”, nhưng cũng có người quyết liệt nói “cách mạng”. Nay thì, theo
đúng từ ngữ của nghị quyết vừa mới thông qua, là “đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo”! “Căn bản, toàn diện” là cách mạng chứ gì nữa! Nhưng có lẽ
lựa chọn cách nói như thế là người ta đã bắt đầu biết sợ những diễn đạt quá “hoành
tráng”.
Tất cả cho thấy xã hội và các cấp có trách nhiệm đã
thấy giáo dục đang khủng hoảng; và để giải quyết khủng hoảng ấy phải có phương
thuốc “trị căn”, chứ không dừng lại ở “trị chứng”.
Để
cải tổ đại học, theo ông phải bắt đầu từ đâu: gốc hay ngọn, hay cả gốc lẫn
ngọn?
PGS
TS Hoàng Dũng : Nếu bài toán giáo dục chỉ cần giải quyết ngọn mà
xong, thì không thể nhận định giáo dục Việt Nam, trong đó có đại học, đang
khủng hoảng. Nhưng chỉ chăm chăm lo phần gốc, mà không chú ý thích đáng phần
ngọn, thì trong một thời gian khá dài, bề ngoài vẫn chưa thấy thay đổi gì
nhiều, vì “thuốc” chưa đủ thời gian để ngấm.
Nhà quản lý bỏ mặc những giải pháp chiến lược, để
tập trung vào những vấn đề bề mặt (như phong trào “Nói không với tiêu cực trong
thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”) thì trước mắt có thể tạo một ấn
tượng tốt đẹp nào đó, nhưng nhất định sẽ thất bại. Ngược lại, nếu bức tranh
giáo dục không được cải thiện trông thấy, thì xã hội không thể chờ đợi, gây áp
lực đối với nhà quản lý. Giáo dục tác động đến toàn xã hội, đến 100% dân số, vì
thế đây là áp lực hết sức lớn. Ở tầm quốc gia, giáo dục là một vấn đề chính
trị. Và không một nhà chính trị khôn ngoan nào lại liều lĩnh đến mức không
cần cân nhắc đến điều đó. Giải pháp về giáo dục phải là một giải pháp tổng
thể, cân bằng giữa “gốc” và “ngọn”.
Người thầy, đầu vào của sinh viên, cơ sở vật chất…
đều là vấn đề có thực của giáo dục Việt Nam. Nhưng khó lòng cho đó là những vấn
đề quan trọng số một. Vì chất lượng và số lượng của người thầy, của tân sinh
viên, của cơ sở vật chất không phải tự nhiên mà có. Nó là sản phẩm của một cơ
chế nhất định.
Tự chủ đại học là một trong những cơ chế như thế.
Xin nêu một trường hợp đáng ngẫm nghĩ: khi giáo sư Thí Xuân Phong (Shih Choon
Fong) được chọn làm hiệu trưởng Đại học Quốc gia Singapore (NUS) năm 2000, ông
đã cho tiến hành những cải cách mạnh mẽ. Tất nhiên, ông bị phản đối gay gắt,
đến mức bị Chủ tịch Uỷ ban Giáo dục của Quốc hội lúc ấy cáo buộc ông đã đảo lộn
các chuẩn mực tuyển dụng ở trường đại học. Mặc, giáo sư Thí Xuân Phong vẫn cứ
làm theo ý ông. Kết quả đến năm 2004, NUS đã có một cuộc thăng hạng ngoạn mục:
vươn lên đứng thứ 18 trong các trường đại học tốt nhất thế giới, theo xếp hạng
của Times. Giả sử giáo sư Thí Xuân Phong làm hiệu trưởng một trường Việt
Nam trong khuôn khổ cơ chế hiện nay, tôi tin giáo sư sẽ bị cách chức trước khi
thấy kết quả công việc của mình.
Theo
ông, tự do học thuật có vai trò và giá trị thế nào trong cách tân giáo dục nước
nhà vào thời điểm hiện tại? Có rào cản nào không về ngân sách - thể chế trong
việc thực hiện không gian tự do học thuật và đảm bảo chất lượng đào tạo đại học?
PGS
TS Hoàng Dũng : Tự chủ đại
học không chỉ là tự chủ về mặt hành chính mà quan trọng không kém, thậm chí có
thể nói là quan trọng hơn, là tự do học thuật. Ở ta, tự chủ về mặt hành chính tuy khó nhưng còn dễ hơn là chuyện tự do
học thuật. Người ta không quen. Đã xảy ra chuyện một cơ quan quyền lực biên
soạn giáo trình đại học, buộc tất cả các trường phải dùng làm tài liệu chuẩn.
Đã xảy ra chuyện một cơ quan hành chính ra lệnh kiểm điểm những giáo sư đánh giá
cao một luận văn thạc sĩ văn học, vì cho luận văn đó “có quan điểm sai trái”.
Không ai lú lẫn đến mức khẳng định tất cả hoạt động
học thuật nói chung và ở đại học nói riêng đều đúng đắn. Nhưng vấn đề là cần
phải giải quyết ở góc độ học thuật và bằng học thuật. Để bất cứ quan điểm ngoài
học thuật nào xen vào, dù dưới bất cứ danh nghĩa nào, “chính đáng” hay “cao cả”
đến đâu, cũng làm phương hại đến học thuật. Năm 1956, trong bài “Muốn phát
triển học thuật”, Đào Duy Anh đã than: “Trong địa hạt khoa học tự nhiên,
sự xâm phạm của những cán bộ chính trị vào địa hạt chuyên môn như thế cố nhiên
là rất trở ngại cho công tác chuyên môn, nhất là công tác nghiên cứu khoa học.
Trong địa hạt khoa học xã hội thì mối tệ cũng không kém”. Chắc ông không
tưởng tượng được rằng gần 60 năm sau, “mối tệ” ấy vẫn còn!
Đại học là trí tuệ của đất nước, là nơi sinh dưỡng
hiền tài. Mà như một câu nổi tiếng của Thân Nhân Trung khắc trên tấm bia tiến
sĩ đầu tiên của Văn Miếu Quốc Tử Giám: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia,
nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước
yếu mà thấp hèn”. Khoá cho thật chặt để tránh gió độc, thì cũng bịt lối vào của
gió lành. Hiền tài nào sống được trong môi trường thiếu dưỡng khí đó!
Còn chuyện tiền bạc? Khó lòng cải cách giáo dục mà
không có đủ tiền hay chính xác hơn, không quyết tâm dành tiền cho giáo dục. Có
tốn nhiều tiền không? Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn đã tính toán là để nâng cấp và
xây dựng mới khoảng 200 bộ môn ở các trường đại học đủ trang thiết bị hiện đại
và hàng năm mời 200 chuyên gia nước ngoài đến làm việc trong vòng 10 năm thì
tốn chừng 125 triệu USD/năm. Để so sánh, xin nhắc kinh phí làm đường cao tốc
Bến Lức - Long Thành là 28 triệu USD/km.
Thật ra, nguồn tài chính cho giáo dục không thể chỉ
trông cậy vào ngân sách nhà nước. Nhưng một khi đại học trở thành một trong
những thiết chế không thể thiếu của nền kinh tế, thì xã hội sẵn lòng chi tiền.
Sự sẵn lòng ấy về căn bản không phải xuất phát từ lòng tốt, mà do đồng tiền bỏ
ra thu được lãi. Ở Mỹ, 70-80% ngân sách của các đại học đến từ tài trợ của các
công ty, của hợp đồng nghiên cứu hay triển khai khoa học… Xã hội đặt hàng và
đại học đáp ứng. Và điều đó làm ra tiền. Ở ta, khái niệm “xã hội hoá” giáo dục
hầu như bó hẹp trong chuyện bắt phụ huynh học sinh phải xuỳ tiền ra!
Cho nên, cách tân giáo dục là chuyện vượt tầm của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nó là chuyện thể chế. Nó là chuyện quyết tâm
chính trị của cơ quan cao nhất.
Trong khi chờ đợi giáo dục Việt Nam cất cánh, những
người có tiền hay có thế lực hoặc may mắn, giải quyết theo cách mà báo chí gọi
là “tỵ nạn giáo dục”. Nhưng đa số người dân Việt thì đành phải chịu một nền
giáo dục như nó có.
Đề
án đổi mới toàn diện giáo dục lần này đặt vấn đề “trước đây nặng về dạy chữ,
nhẹ dạy người”… Vậy mục tiêu của đại học là đào tạo ra những con người như thế
nào?
PGS
TS Hoàng Dũng : Đánh giá rằng “trước đây nặng về dạy chữ” là không
đúng. Vì nếu thế, không thể lý giải được tại sao đã “nặng về dạy chữ” mà chất
lượng sinh viên nhìn chung vẫn thấp. Còn “nhẹ về dạy người”? Nếu căn cứ vào lời
lẽ và cơ chế, thì giáo dục Việt Nam không hề xem nhẹ vấn đề này. Trái lại, còn
quá nặng. Không khó khăn để trích dẫn những câu chữ trong các văn bản chính
thức nhấn mạnh đến việc “dạy người”. Nhưng dạy thành công hay không, là chuyện
khác. Chính xác hơn, nhà trường ta nhẹ về dạy người lẫn dạy chữ!
Một nền giáo dục khai phóng, là mở ra những chân
trời rộng lớn, ở đó con người tự do, tự chủ. Đó là mục đích của một nền giáo
dục đích thực, bất cứ thời nào và nơi nào. Đất nước có thể “rũ bùn đứng dậy
sáng loà”, “sánh vai với cường quốc năm châu” được không, nếu thiếu điều đó?
Nhưng hiện nay và ở ta con đường đi đến nền giáo dục khai phóng còn xa ngái!
Riêng
đại học sư phạm – trường có vị trí hàng đầu trong câu chuyện cách tân giáo dục
– vẫn đứng trước thách thức “chuột chạy cùng sào…”, theo ông phải cải tổ như
thế nào?
PGS
TS Hoàng Dũng : Truyền thống Việt Nam đề cao “tôn sư trọng đạo”.
Nhưng người thầy nay đã “mất giá” theo nghĩa đen. Một cuộc điều tra gần đây cho
thấy thu nhập bình quân từ lương và phụ cấp của giáo viên từ 3 đến 3,5 triệu
đồng/tháng; sau 25 năm giảng dạy mới có mức lương 4,1-4,7 triệu đồng/tháng; và
đến 50% số giáo viên lương thấp hơn mức lương bình quân. Trong hoàn cảnh đó,
nhấn mạnh đến “thiên chức cao quý” của nghề giáo chỉ là một sự mỉa mai, làm
tăng vị cay đắng cho nghề sư phạm. Chưa từng thấy một quốc gia nào có nền giáo
dục phát triển, mà lương nhà giáo lại thấp (lương trung bình một năm của giáo
viên ở Singapore là 45.755 đô la, ở Hàn Quốc, Mỹ, Đức và Nhật Bản đều trên
40.000 đô la).
Trong sự xuống cấp chung của đại học, sự xuống cấp
của đại học sư phạm phải gây cho những người có trách nhiệm biết nghĩ xa và sâu
một sự lo lắng đặc biệt. Vì điều đó rút cục sẽ tác động tệ hại đến giáo dục nói
chung.
Một quan chức lớn có nói với tôi rằng tăng lương cho
giáo viên không dễ. Vì giáo viên có số lượng đông đảo (theo Tổng cục Thống kê,
số giáo viên phổ thông năm học 2010-2011 là 830.900 người). Vì các ngành khác
“tỵ nạnh”. Nhưng chính vì thế mà như đã nói ở trên, giáo dục cần đến
quyết tâm chính trị của cơ quan cao nhất.
Xin nói thêm: Đã không còn hiếm việc phải chạy chọt,
có khi mất hàng trăm triệu, mới có một chân giáo viên. Lương thì thấp, phải dạy
không công bao nhiêu năm mới bù được? Nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp không
thể kiếm việc làm đúng chuyên môn, đã tâm sự với tôi đầy chua xót. Hơn 30 năm
giảng dạy ở trường đại học sư phạm, tôi chưa từng thấy tình hình nặng nề như
thế. Tăng lương cho nhà giáo là cần, nhưng đã đủ chưa?
Tác
gia Mỹ W.A. Ward từng nói: “Người thầy trung bình chỉ biết nói, người thầy giỏi
biết giải thích, người thầy xuất sắc biết minh hoạ, người thầy vĩ đại biết
truyền cảm hứng”, nghĩa là sao thưa ông?
PGS
TS Hoàng Dũng : Trong một cuộc hội thảo về văn hoá, giá o sư Hoàng
Tuỵ nhận xét rằng người Việt Nam học phổ thông thì không đến nỗi nào, nhưng lên
đại học thì kém hơn, và ở bậc trên đại học thì thua xa so với các nước tiên
tiến. Giáo sư cho rằng đó là do người Việt thiếu óc tưởng tượng. Rất có thể.
Cảm hứng chỉ được nuôi dưỡng khi nảy mầm trên những
mảnh đất mới mẻ. Thầy giáo truyền được cảm hứng là nhờ biết gieo hạt tưởng
tượng trong tâm trí người học, cung cấp cho họ năng lượng cần thiết để vượt qua
những khổ nhọc trên con đường khám phá. Chân trời của tưởng tượng vốn không có
biên độ. Ở đấy con người thoát ra những lẽ thường và hoàn toàn tự do.
Nhưng như thế thì ta lại quay về chuyện “tự do học
thuật”!
Cho nên, có một cách giải thích khác với ý kiến của
giáo sư Hoàng Tuỵ. Cũng là người Việt Nam, tại sao ở nước ngoài nhiều người
Việt học hành, làm việc chẳng thua ai? Tưởng tượng, như thế, còn là do môi
trường. Làm sao cho nhà trường Việt Nam trở thành một nơi chốn khuyến khích
người học tha hồ tưởng tượng mà chẳng sợ ai chê trách, thậm chí đe doạ? Những
thứ “văn mẫu”, “tư tưởng mẫu”, “giải pháp mẫu”, “con đường mẫu”… không thể là
vòng kim cô trói buộc đầu óc của con người. Khai phóng là ở đó, chứ đâu nữa!
Minh
Nguyễn thực hiện
|
(*) Trả lời phỏng
vấn báo Người đô thị (số 08 bộ mới, ra ngày 7.11.2013). Do khuôn khổ có
hạn, một số câu bị cắt (đánh dấu màu đỏ).
Người trả lời phỏng vấn gửi trực tiếp cho BVN.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 05:37
No comments:
Post a Comment