Jean-Pierre
Han
Dịch giả: Dương Tường
06/11/2013
Đôi lời của Phạm Toàn
“Để
đừng quên”. Quên làm sao được? Quên làm sao cho được!
Những gì ta đã trải, ta đã làm, ta đã yêu thương và
thất vọng, làm sao ta quên cho được? Tôi còn đồ chừng rằng, ngay bọn ăn cắp của
công (bây giờ gọi bằng bọn quan tham hoặc bọn tham nhũng) thì chúng cũng không
bao giờ quên tội ác của chúng. Nhưng cái không quên trong sợ hãi nơm nớp của
chúng hoàn toàn khác với cái không thể nào quên thanh thản của nhà văn. Bùi
Ngọc Tấn không quên những nỗi đau mà anh trải qua, nhưng anh không hằn thù. Lấy
gì làm bằng? Lấy cái giọng văn còn biết cười còn biết đùa cợt còn biết nheo mắt
làm cái mốc đo sự cao cả của con người – của nhà văn – của Bùi Ngọc Tấn.
Bọn ăn cắp, bọn phá biểu tình chống Tàu, bọn bắt nạt
Phương Uyên và Nguyên Kha, bọn vu cáo Hải Điếu Cày và Lê Quốc Quân, bọn thu gom
dân khiếu kiện giữa đêm lạnh, bọn ép cung, bọn xử án theo những bản án bỏ túi,
bọn ôm chân thằng Lý Cường (con hoang của thằng Bá Kiến dân gọi bằng Bá Cường
Bắc Kiến) hè nhau đi hạ cờ tang ngay khi đám tang tướng Giáp còn đang tiến hành…
bọn đó mới sợ ký ức.
Còn đây, chúng ta, những người phanh ngực đi trong
gió, chúng ta đi cùng ký ức Bùi Ngọc Tấn trong
Chuyện kể năm 2000 được bạn Tuấn dịch cực kỳ hào hoa thành Chuyện kể cho những thế kỷ
mai sau và chúng ta không quên – dĩ nhiên, không quên không cùng nghĩa
với hằn thù và báo thù. Cũng như Bùi Ngọc Tấn, chúng ta chỉ cần khai sáng thôi.
Dân tộc này vẫn còn cần được khai sáng.
Phạm
Toàn
----------------------------------------
Những nhà văn Việt Nam của thế hệ mới, những Nguyễn
Việt Hà, Thuận hay Phong Điệp (để chỉ kể ngần nấy người) dù đã muốn coi nhẹ quá
khứ của đất nước mình – cái đất nước mang trên mình vết sắt nung đỏ của những
tàn khốc chiến tranh và những hậu quả của chúng – để có thể kể về thời hiện
tại, cũng chẳng thay đổi gì được, quá khứ vẫn trở về và không ngừng trỗi dậy
trở lại theo đà các xuất bản phẩm. Tình hình ấy càng mập mờ đối với độc giả
Pháp vì các nhà xuất bản, như chúng ta biết, không nhất thiết ấn hành các bản
dịch theo đúng thứ tự chúng ra mắt trong ngôn ngữ gốc. Vậy nên một trật tự niên
đại văn học khác được thiết lập, có thể sinh chuyện.
Thành thử giờ đây, ra đời một cuốn sách – và dĩ
nhiên, ta chỉ có thể lấy đó làm mừng – Chuyện kể cho những thế kỷ mai sau[1], một cú bất ngờ hoành tráng
của nhà văn tám mươi tuổi Bùi Ngọc Tấn, nổi tiếng và được công nhận ở Việt Nam
hiện nay và cả ở bên ngoài – ông đã được tặng nhiều giải thưởng chính thức,
nhưng không phải vì thế mà ông không bị rắc rối với các nhà cầm quyền nước ông
trong một thời gian dài, rắc rối đây chỉ là một uyển ngữ. Chuyện kể năm 2000
được viết vào cuối thế kỉ vừa qua, từ những năm 1990. Bản thảo chạy vòng
các nhà xuất bản cho đến khi một trong số đó, NXB Thanh Niên, đánh liều ấn hành
vào năm 2000, sau khi đã xin được giấy phép. Kết quả đến nhanh chóng: cuốn sách
bị tiêu huỷ theo nghĩa đen, nhưng Giám đốc nhà xuất bản không bị làm khốn đốn.
Đọc cuốn tiểu thuyết này – tác giả nói rõ rành đây
là một cuốn tiểu thuyết – người ta dễ dàng hiểu tại sao cái câu “chuyện kể năm
2000” này (đầu đề tiếng Việt của cuốn sách) là chuyện kể rất tỉ mỉ của một anh
chàng Nguyễn Văn Tuấn nào đó, trong sách được gọi là “hắn”, có thể coi là bản
sao của tác giả, nhà báo và nhà văn trẻ, cũng như ông hồi đó, “cây bút
(đã) nổi tiếng trong số các nhà văn trẻ cả nước”, một sự nghiệp
sáng sủa mở ra trước mặt hắn cho đến khi hắn bị bắt, đưa đi trại cải tạo
vì cớ một trong số bản thảo của hắn đã phê phán chế độ. Điều mà hắn
không ngừng phủ nhận – hắn không chịu nhận một lỗi mà hắn không
bao giờ phạm – dù phải chịu án tù kéo dài thêm; hắn bị chuyển từ trại
này sang trại khác trong 5 năm, từ 1968 đến 1972. Chuyện kể năm 2000 (bản
tiếng Pháp) giờ đây ra mắt hai năm sau Biển và chim bói cá
, một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời khác của Bùi Ngọc Tấn, mà chúng
tôi đã hết sức ca ngợi cũng ở đây (LF, 90, tháng 2 năm 2012). Vậy là có sự đảo
ngược các sự việc được kể và cũng có một sự triển hoá trong kỹ thuật tiểu
thuyết của tác giả, do đó có thể bị che khuất. Nhưng, như cái công thức được
thừa nhận nói, độc giả sẽ khôi phục trật tự niên đại của các sự kiện.
Điều đó không mảy may làm mất đi sức mạnh của Chuyện
kể năm 2000 (bản tiếng Pháp), vả chăng, cách dịch mới của nhan đề (Chuyện
kể cho những thế kỷ mai sau) đã là một khởi đầu bình luận về tác động của
cuốn sách và về tầm quan trọng mà người ta muốn tiên đoán cho nó, hay chí ít,
người ta muốn nó đạt được. Đó là đặt cuốn sách lên một bình diện tinh thần, hay
thậm chí, mẫu mực tinh thần. Điều mà tác giả (qua trung gian bản sao của mình,
người kể truyện) cố sức phủ nhận suốt những trang sách. Thậm chí sự phủ nhận
quyết liệt ấy làm nên toàn bộ giá trị của cuốn sách, toàn bộ tính nhân văn của
tác phẩm. Nó cũng mang lại cho tác phẩm tính tổng thể của nó. Bởi vì câu chuyện
về những năm “cải tạo” khủng khiếp ấy được kể, dĩ nhiên là với rất nhiều chi
tiết, nhưng bằng một giọng đều đều, hoàn toàn không gây chút hiệu quả kịch tính
nào và tránh cả đến vi lương nhỏ nhất của hận thù. Vả chăng, người kể truyện
nói rõ rằng hắn không nhằm lên án hệ tư tưởng cộng sản. Bản thân hắn,
hồi trẻ măng, đã gia nhập quân đội giải phóng, chiến đấu chống Pháp và đến giờ,
vẫn trung thành với lý tưởng của mình. Hắn xuất thân từ một gia đình
những người hoạt động danh gia, “một gia đình chiến sĩ cách mạng từ trước khi
cách mạng nổ ra và đã được tặng bằng ‘có công với Tổ quốc’ ”, điều khiến cho
việc hắn bị kết tội, do hiệu quả tương phản, càng kinh khủng. Dĩ nhiên,
nhân cuốn sách-lời-chứng này, người ta không khỏi gợi đến Quần đảo Goulag
của Soljénitsyne. Nhưng ngoài việc câu chuyện này là một tiểu thuyết, chứ không
phải là một “khảo luận điều tra văn học”, vì cuốn sách của tác giả người Nga
“không có nhân vật, cũng không có những sự kiện hư cấu”, nên Bùi Ngọc Tấn ưng
đặt mình dưới lá cờ của Dostoïevski hơn, lá cờ Nhật ký ngôi nhà những người
chết, như ông đã nhắc lại nhiều lần. Vả lại, câu chuyện về những năm tù
thật sự chỉ chiếm có một nửa tác phẩm (tức là không đầy 400 trang), toàn bộ
phần hai kể lại sự cố gắng trở lại một cuộc sống bình thường mà không thể được.
“Hắn sống trong hiện tại mà luôn luôn nghĩ về quá khứ, về những ngày
trước khi bị bắt, về những ngày ở tù, đầu óc hắn lang thang từ hình ảnh
này sang hình ảnh khác”. Từ hiện tại cũ của cái “lò luyện những tâm hồn” là
những năm tù, người ta chuyển qua những cố gắng không ngừng trở lại quá khứ, và
qua những khó khăn để sống cái hiện tại mới và, tệ hơn nữa, hình dung “những
thế kỷ mai sau”. “Cái la bàn của tâm trí hắn, bất kể hắn nghĩ gì,
cuối cùng, bao giờ cũng xoay trở về nhà tù”.
Thận trọng tránh mọi lâm li, Bùi Ngọc Tấn viết ở tầm
cao con người, từ ngòi bút của ông, hiện lên cả một thế giới đầy những con
người (ắt phải mất không dưới bốn trang gênêric để kể hết tên của họ), được
khắc hoạ một cách không thể quên, trong khi ở chính giữa câu chuyện tối đen
này, đột hiện lên những trang đẹp lạ lùng. Sống và rung động. Và người ta không
thể quên những nhìn nhận và mô tả, rất nhiều, riêng biệt về người vợ của người
kể truyện, những mô tả đầy âu yếm và tình yêu. Nói gì đây về một cuốn tiểu
thuyết kinh hoàng, bắt đầu, bất chấp tất cả, bằng những câu như sau: “Có
những điều hắn tưởng không bao giờ quên được. Ấy thế rồi hắn đã quên”. Vậy
thì: toàn bộ những trang này, toàn bộ tác phẩm này, là để đừng quên, hay đơn
giản là để mở những cánh cửa ra “những thế kỷ mai sau”.
J.P.H.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN
Nguồn
bản gốc: Phụ lục L’Humanité 10/10/2013
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 00:25
No comments:
Post a Comment