Yasheng
Huang (Hoàng Á Sinh)
Phạm Vũ Lửa Hạ
dịch -
lên đông xuống đoài
23/10/2013
Đầu năm nay, nhà kinh tế học Yasheng Huang [Hoàng Á Sinh]
(xem bài
diễn thuyết TED Talk năm 2011 của ông) tranh luận với Eric X. Li [Lý Thế
Mặc] trên tạp chí Foreign Affairs về một vấn đề tương tự bài diễn thuyết TED
Talk. TED Blog yêu cầu giáo sư Hoàng mở rộng lập luận của ông trong cuộc
đối thoại tiếp tục diễn ra với Li.
Thử hình dung lẫn lộn hai phát ngôn sau đây của một bác
sĩ chuyên về ung thư: 1) “Anh có thể chết vì ung thư” và 2) “Tôi muốn anh chết
vì ung thư.” Khó mà nhận ra sự khác biệt căn bản giữa hai phát ngôn này. Phát
ngôn thứ nhất là một lời tiên đoán – phát ngôn này nói rằng một việc có thể xảy
ra với một số điều kiện nhất định (trong trường hợp này là chết nếu bị ung
thư). Phát ngôn thứ hai là một sở nguyện, một ao ước, hay một ý muốn về một thế
giới theo sở thích cụ thể của một người.
Ai lại có thể phạm một sai lầm căn bản khi nhầm lẫn hai
loại phát ngôn này? Nhiều người lắm, trong đó có Eric X. Li, trong bài
diễn thuyết TED Talk hôm nay. Đại luận thuyết của Marx đã ăn sâu vào đầu Li
– và đầu tôi thời niên thiếu và thời thanh niên trong thập niên 1960 và 1970 –
là một phát ngôn chuẩn tắc. Khi Marx nảy ra những tư tưởng về sự
tiến hóa của các xã hội loài người, trên thế giới chưa có một quốc gia nào
giống chút đỉnh như chế độ cộng sản mà ông cổ xúy. Chế độ cộng sản theo hình
dung của Marx không có quyền tư hữu hay bất cứ kiểu quyền sở hữu nào. Tiền cũng
không có mặt trong chế độ đó. Phiên bản chủ nghĩa cộng sản của Marx chưa bao
giờ, và rất có thể sẽ chẳng bao giờ, trở thành hiện thực. Marx “tiên đoán” dựa
trên suy diễn; và những người kế thừa ông tiên đoán bằng cách áp đặt ước muốn
của họ, được thực hiện bằng quyền lực và bạo lực.
Ngược lại, cái luận thuyết dường như được mớm cho Li khi
ông là một “anh chàng hippie Berkeley” thì dựa trên kinh nghiệm thực tế của các
vấn đề con người. Chúng ta đã có hàng trăm năm kinh nghiệm với dân chủ và hàng
trăm quốc gia / năm có các quá trình chuyển tiếp sang dân chủ và cai trị bằng
dân chủ. Phát ngôn cho rằng các quốc gia chuyển sang dân chủ khi họ giàu lên là
một phát ngôn thực chứng– đó là một tiên đoán dựa trên
dữ liệu. Trong thập niên 1960, khoảng 25 phần trăm các nước trên thế giới có
chế độ dân chủ; tỉ lệ hiện nay là 63 phần trăm. Có rất nhiều trường hợp các chế
độ độc tài chuyển sang chế độ dân chủ hơn là ngược lại. Những nước còn lại trên
thế giới đã thể hiện rõ ràng ý muốn có chế độ dân chủ. Như Minxin Pei (Bùi
Mẫn Hân) đã cho biết, trong 25 nước có GDP bình quân đầu người cao hơn
Trung Quốc mà chưa tự do hay tự do một phần, 21 nước sống nhờ tài nguyên thiên
nhiên. Nhưng đó là những ngoại lệ giúp chứng minh quy tắc – các quốc gia chuyển
sang dân chủ khi họ giàu hơn. Ngày nay không có quốc gia nào được xếp vào nhóm
giàu nhất có chế độ toàn trị độc đảng. (Singapore là một trường hợp chưa rõ
ràng, còn nhiều tranh cãi.) Dù Li có thích hay không, các quốc gia đó dường như
đều có đích đến như nhau.
Các nền dân chủ có tham nhũng hay không? Li nghĩ vậy. Ông
trích dẫn Chỉ số của Minh bạch Quốc tế (TI) để chứng minh quan
điểm của mình. Số liệu TI cho thấy Trung Quốc có thứ hạng cao hơn nhiều chế độ
dân chủ. Cũng có lý.
Tôi luôn nghĩ rằng có hơi mỉa mai khi dùng số liệu về
tính minh bạch để biện hộ cho một chế độ chính trị xây trên nền tảng mờ ám.
Ngoài chuyện mỉa mai, nên nhớ rằng bản thân chỉ số TI là sản phẩm của chế độ
chính trị mà Li quá coi thường – chế độ dân chủ (nói cho đúng là dân chủ kiểu
Đức). Điều này nhấn mạnh một điểm căn bản – chúng ta biết rất nhiều về tham
nhũng ở các chế độ dân chủ hơn chúng ta biết về tham nhũng ở các nước toàn trị
vì các chế độ dân chủ, theo định nghĩa, có tính minh bạch cao hơn và họ có
nhiều dữ liệu hơn về tính minh bạch. Tuy tôi tin những so sánh về tham nhũng
giữa các nước dân chủ, việc so sánh một cách máy móc tham nhũng ở Trung Quốc
với tham nhũng ở các chế độ dân chủ, như Li đã làm rất nhiều lần, là phạm sai
lầm căn bản. Phương pháp của ông nhầm lẫn hai hiệu ứng – mức độ minh bạch của
một quốc gia và mức độ tham nhũng của một quốc gia. Tôi không muốn nói là các
chế độ dân chủ nhất thiết phải trong sạch hơn Trung Quốc; tôi chỉ muốn nói rằng
cách Li dùng dữ liệu của TI không phải căn cứ để rút ra kết luận theo một trong
hai hướng. Cách đúng đắn để rút ra kết luận về vấn đề này là nhận định rằng với
cùng một mức độ minh bạch (và cùng mức độ về nhiều thứ khác, trong đó có thu
nhập), Trung Quốc có – hay không có – tham nhũng nhiều hơn các chế độ dân chủ.
Chỉ cần một ví dụ đơn giản là đủ minh họa ý này. Năm
2010, hai doanh nhân Ấn Độ lập một trang mạng gọi là I Paid a Bribe (Tôi
hối lộ). Trang mạng này kêu gọi người ta đăng nặc danh những trường hợp công
dân Ấn Độ phải bỏ tiền ra để hối lộ. Đến tháng 8/2012, trang mạng này đã ghi
nhận hơn 20.000 vụ tham nhũng. Một số doanh nhân Trung Quốc cố gắng bắt chước:
Họ lập trang I Made a Bribe (Tôi hối lộ) và 522phone.com. Nhưng hai
trang mạng này nhanh chóng bị chính quyền Trung Quốc đóng. Kết luận đúng ở đây
không phải, theo như kiểu lập luận của Li, là Trung Quốc trong sạch hơn Ấn Độ
vì Trung Quốc không có bài đăng trên mạng nào về các vụ tham nhũng trong khi Ấn
Độ có khoảng 20.000 vụ được đăng lên.
Dù tôi rất tôn trọng công lao của Minh bạch Quốc tế, dữ
liệu của tổ chức này rất kém trong việc xử lý điểm khác biệt căn bản về mức cảm
nhận tham nhũng (perception of corruption) và mức độ tham nhũng thực sự xảy ra
(incidence of corruption). Các chế độ dân chủ có tính minh bạch cao hơn – về
những cái tốt và cái xấu của chúng – hơn các chế độ toàn trị. Chúng ta biết
nhiều hơn về nạn tham nhũng ở Ấn Độ một phần vì chế độ Ấn Độ minh bạch hơn, và
có một giới bình luận nhiều chuyện không ngại phê phán và chỉ trích chính phủ
(và trong một vài trường hợp, gắn máy quay phim trong phòng khách sạn để ghi
cảnh đưa tiền đút lót cho các chính khách). Ngoài ra, tham nhũng ở cấp thấp dễ
quan sát hơn tham nhũng ở cấp cao nhất trong hệ thống tôn ti chính trị. Chỉ số
TI phát hiện trò tham nhũng của một cảnh sát viên tên Barun ở Chennai dễ hơn là
phát hiện tội tham nhũng của một ủy viên Bộ Chính trị tên Bạc Hy Lai ở Trùng
Khánh. Những yếu tố này, chứ không phải bản thân nạn tham nhũng, có thể giải
thích phần lớn những khác biệt về thứ hạng TI giữa Trung Quốc và Ấn Độ.
Vẫn dùng số liệu của TI, Li thích chỉ ra rằng những nước
như Indonesia, Argentina và Philippines vừa là chế độ dân chủ vừa khét tiếng về
tham nhũng. Ông thường bỏ sót các dữ kiện quan trọng khi đề cập đến vấn đề này.
Phải, các quốc gia này là những nền dân chủ, vào năm 2013, nhưng những nước này
đã được cai trị bởi các nhà độc tài quân sự nhẫn tâm trong mấy chục năm trước
khi chuyển sang dân chủ. Chính chế độ chuyên quyền của các quốc gia này đã sinh
ra và dung dưỡng nạn tham nhũng. (Còn nhớ 3.000 đôi giày của bà Marcos?) Tham
nhũng giống như ung thư, đã thành di căn và ăn sâu. Tuy ta có lý do hoàn toàn
chính đáng để phê phán các nền dân chủ mới vì không kịp thời diệt tận gốc nạn
tham nhũng, nhưng nhầm lẫn các khó khăn của việc chữa trị nạn tham nhũng ăn sâu
với nguyên nhân sâu xa của nó thì cũng hệt như nói rằng một bệnh nhân ung thư
bị mắc bệnh ung thư sau khi nhập viện để làm hóa trị.
Nhóm những kẻ tham nhũng trắng trợn nhất thế giới chỉ
toàn những kẻ chuyên quyền. Theo một báo cáo của TI, tính đến năm 2004, ba lãnh
tụ cầm quyền bòn rút quốc dân nhiều nhất là Suharto, Marcos và Mobutu. Ba nhà
độc tài này đã cướp bóc tổng cộng 50 tỉ Mỹ kim từ người dân bần cùng ở nước họ.
Đương nhiên các chế độ dân chủ không miễn dịch với nạn tham nhũng, nhưng tôi
nghĩ họ phải cố gắng cật lực hơn nữa mới mong theo kịp những nhà độc tài này.
Li hết sức tin tưởng ở chế độ Trung Quốc. Trước hết ông
lập luận rằng chế độ này được đa số dân chúng Trung Quốc ủng hộ. Ông trích dẫn
một cuộc khảo sát của báo Financial Times nói rằng 93 phần trăm thanh niên Trung Quốc lạc quan về tương
lai của họ. Tôi đã xem những mức đánh giá tín nhiệm cao này do Li và nhiều
người khác dùng làm bằng chứng cho thấy chế độ Trung Quốc lành mạnh và vững
vàng, nhưng tôi không hiểu tại sao Li lại dừng ở mức 93%. Sao không đi tới
cùng, 100% luôn? Ở một nước không có tự do ngôn luận, yêu cầu người dân trực
tiếp đánh giá thành tích của các vị lãnh đạo thì cũng giống như yêu cầu người
dân làm bài thi chỉ có một lựa chọn trả lời duy nhất. Số liệu trưng cầu dân ý
dành cho Erich Honecker và Kim Jong-un hẳn phải khiến các vị lãnh đạo Trung
Quốc xấu hổ.
(Tôi cũng xin chú thích một chút để khuyến cáo về cách
nên và không nên sử dụng số liệu khảo sát ở Trung Quốc. Tôi đã làm nhiều nghiên
cứu khảo sát ở Trung Quốc, và tôi luôn thấy ngượng vì khó lý giải được các kết
quả khảo sát. Ngoài các áp lực chính trị thường hướng các câu trả lời theo một
chiều nhất định, một trở ngại khác là người trả lời khảo sát ở Trung Quốc đôi
khi xem làm khảo sát giống như làm bài thi. Bài thi ở Trung Quốc có câu trả lời
chuẩn, và đôi khi người trả lời khảo sát ở Trung Quốc điền vào mẫu khảo sát
bằng cách cố gắng đoán xem câu trả lời “chuẩn” là gì, chứ không phải bày tỏ ý
kiến của chính họ. Tôi thường khuyến cáo không nên sử dụng một cách ngây thơ số
liệu khảo sát ở Trung Quốc.)
Li cũng ca ngợi khả năng thích ứng của chế độ chính trị
Trung Quốc. Tôi xin trích:
“Giờ đây, phần lớn giới chính trị học cho rằng hệ thống
độc đảng vốn dĩ không có năng tự sửa sai. Hệ thống đó không trường tồn vì không
thể thích ứng. Quý vị thử xem thực tế thế nào nhé. Trong 64 năm điều hành quốc
gia lớn nhất thế giới, các chính sách của Đảng đã có phạm vi rộng hơn bất ở
nước nào khác trong ký ức cận đại, từ tập thể hóa đất đai triệt để đến chủ
trương Đại Nhảy vọt, rồi tư hữu hóa đất nông trại, rồi Cách mạng Văn hóa, rồi
cải cách thị trường của Đặng Tiểu Bình, rồi đến người kế nhiệm Giang Trạch Dân
thực hiện một bước tiến chính trị lớn là mở cửa cho phép doanh nhân tư nhân vào
Đảng, điều không tưởng trong thời kỳ Mao cầm quyền. Như vậy, Đảng tự sửa sai
theo cách khá đáng kể.”
Giờ thử hình dung ta kể câu chuyện sau đây để tung hô
“khả năng thích ứng” của Nga chẳng hạn: Nước Nga hay dân tộc Nga đều có khả
năng thích ứng rất cao. “Các chính sách” của Nga đã có phạm vi “rộng hơn bất ở
nước nào khác trong ký ức cận đại”, từ trại tù gulag đến phong trào khủng bố đỏ
của Stalin, rồi tập thể hóa, rồi kế hoạch hóa tập trung, rồi glasnost và perestroika,
rồi tư hữu hóa, rồi chủ nghĩa tư bản bè phái, rồi chế độ dân chủ phi tự do dưới
thời Putin, điều không tưởng trong thời kỳ Lenin cầm quyền. Như vậy, nước Nga
“tự sửa sai theo cách khá đáng kể.”
Tôi xin nói rõ và dứt khoát – cách Li lý giải về khả năng
thích ứng của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) giống y hệt cách tôi nói về Nga.
Điểm khác biệt duy nhất là Li nói đến một tổ chức chính trị – ĐCSTQ – còn tôi
nói về một nước có chủ quyền.
Thính giả TED vỗ tay tán thưởng bài diễn thuyết của Li –
nhiều lần là đằng khác. Nếu Li đã so sánh ví von về Nga, chẳng biết thính giả
có còn tán thưởng nồng nhiệt nữa hay không. Lý do rất đơn giản: Thính giả TED
hiểu tường tận tình hình xáo trộn, bạo lực và con số người chết cao ngất trời
trong thời cai trị của Liên Xô. Trong cuốn sách của ông có nhan đề The Better Angels of our Nature (tạm
dịch: Những thiên thần tốt đẹp hơn của bản chất con người chúng ta),[i] Steven Pinker trích dẫn kết quả nghiên cứu của các học
giả khác cho thấy chế độ Liên Xô đã giết 62 triệu người dân của chính mình.
Thiết nghĩ cái từ “sửa sai” có phần nói nhẹ đi mức độ biến đổi to lớn từ chế độ
sát nhân, diệt chủng của Stalin sang nước Nga ngày nay tuy còn nhiều vấn đề và
khó khăn nhưng dù sao vẫn có dân chủ.
Tôi không biết một anh chàng hippie Berkeley học gì ở
trường, nhưng ở Cambridge, Massachusetts, nơi tôi đã học và nay theo nghiệp làm
giáo sư, tôi đã học – và hiện nay dạy – hàng ngày rằng ngôn từ thực sự có ý
nghĩa. Đối với tôi, tự sửa sai có ít nhất hai hàm ý. Thứ nhất, tự sửa sai là
việc sửa sai do chính bản thân thực hiện. Đúng là các chính sách của Mao bị
những người kế tục “sửa sai” hay thậm chí đảo ngược, như Li đã đề cập, nhưng
nói đây là “sự tự sửa sai” nghĩa là sao? Những chính sách vô cùng tai hại của
Mao vẫn còn trong những ngày xế bóng của ông ngay cả khi Mao Chủ tịch nằm liệt
giường trong trạng thái thực vật, và người kế vị ông – lên nắm quyền thông qua
một thay đổi gần như là đảo chính – chỉ dám sửa đổi các chính sách của Mao sau
khi đã biết chắc Mao không sống nổi nữa. Nếu đây là một ví dụ của việc tự sửa
sai, vậy đúng ra cái gì không phải là một hành động tự sửa sai? Gần như mỗi ví
dụ thay đổi chính sách mà Li nêu ra trong bài diễn thuyết của mình đều được
thực hiện bởi người kế vị người đã khởi xướng cái chính sách bị sửa đổi. (Trong
nhiều trường hợp, thậm chí không phải do người kế vị liền sau đó.) Đây là một
định nghĩa kỳ cục về việc tự sửa sai. Cái này có gồm kiểu tự sửa sai khi những
bài toán làm sai mà tôi chưa sửa thuở nhỏ nay đang được con tôi sửa?
Nghĩa thứ hai của tự sửa sai liên quan đến hoàn cảnh diễn
ra việc chỉnh sửa, chứ không chỉ là danh tính của người thực hiện chỉnh sửa.
Một đứa trẻ 10 tuổi có thể tự nguyện sửa lỗi chính tả hay phép toán làm sai của
mình, hoặc có thể đành phải sửa sau khi bị cô giáo quất mạnh mấy phát vào tay.
Trong cả hai tình huống, danh tính của người chỉnh sửa là một – đứa học trò 10
tuổi – nhưng hoàn cảnh diễn ra việc chỉnh sửa lại khác hẳn nhau. Ta thường sẽ
xếp tình huống thứ nhất vào loại “tự sửa sai”, còn tình huống thứ hai vào loại
ép buộc, cưỡng bách, hay như trong trường hợp này, bạo lực. Nói cách khác, tự
sửa sai hàm ý sự tự nguyện của người thực hiện chỉnh sửa, chứ không phải bị ép
buộc hay cưỡng bách, không phải vì không còn cách nào hơn là phải chỉnh sửa.
Yếu tố chọn lựa là một thành phần thiết yếu của định nghĩa về tự sửa sai.
Tôi xin cung cấp thêm vài chi tiết bị bỏ sót cho những ai
vỗ tay tán thưởng khi Li gọi giai đoạn 64 năm của chế độ độc đảng ở Trung Quốc
là giai đoạn của những trường hợp tự sửa sai nối tiếp nhau. Từ năm 1949 đến
2012, ĐCSTQ đã có sáu lãnh tụ tối cao. Trong sáu người này, hai vị bị phế truất
một cách đột ngột và không kèn không trống (và một trong hai vị này bị hạ bệ mà
không được xét xử đúng quy trình, thậm chí theo các thủ tục của chính ĐCSTQ).
Một vị thứ ba mất hết quyền lực và bị quản thúc tại gia trong 15 năm cho đến
khi chết. Vậy là 3 trong 6 vị không nắm quyền cho trọn nhiệm kỳ dự trù của họ.
Hai trong số những người được Mao chọn kế vị chết trong khi tại chức, một người
thiệt mạng trong một vụ nổ máy bay khi ông tìm cách trốn sang Liên Xô, còn
người kia bị tra tấn đến chết và bị chôn với tên giả. À, tôi đã nhắc đến con số
ước tính 30 triệu người đã chết do chủ trương Đại Nhảy vọt tai hại của Mao, và
có lẽ là hàng triệu người đã chết do bạo lực của Cách mạng Văn hóa chưa nhỉ? Vả
lại, bạn có biết Mao không những vẫn tiếp tục mà còn đẩy nhanh các chính sách
Đại Nhảy vọt sau khi những bằng chứng về mức độ [tác hại] của nạn đói [thời kỳ 1958-1962][ii] đã rõ như ban ngày?
Li gọi những thay đổi chính sách này sau những biến động
đau đớn này là “những hành động tự sửa sai”. Cách lý giải của ông là một thực
thể gọi là ĐCSTQ, chứ không phải ai khác, thực hiện những thay đổi chính sách
này. Trước hết, sở dĩ như vậy có phải là do chẳng có ai khác được phép có cơ
hội thực hiện những thay đổi chính sách này? Thứ hai, lối suy nghĩ cứ chú trọng
đến ai thực hiện thay đổi chính sách chứ không phải hoàn cảnh diễn ra thay đổi
chính sách quả là không ổn. Ta thử mở rộng logic của Li thêm một chút nữa. Liệu
chúng ta có phải định nghĩa lại Phong trào Độc lập Mỹ là một hành động tự sửa
sai của người Anh? Hay có lẽ gọi việc nhượng quyền cai trị của đế quốc Anh cho
Ấn Độ là một hành động tự sửa sai khác của người Anh? Liệu chúng ta có phải mô
tả lại sự đầu hàng của người Nhật để kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai là
hành động tự sửa sai của người Nhật? Đúng là có hai quả bom nguyên tử thả xuống
Hiroshima và Nagasaki và bao chuyện nữa, nhưng chẳng phải các đại diện của Nhật
hoàng Hirohito đã ký Văn kiện Nhật Đầu hàng trên chiến hạm USS Missouri hay
sao?
Đã là búa thì nhìn gì cũng nghĩ là đinh. Li nhìn thấy các
căn bệnh của các chế độ dân chủ ở khắp nơi – khủng hoảng tài chính ở Châu Âu và
Mỹ, nền chính trị tiền bạc và nạn tham nhũng. Tôi đồng ý ngay là nền chính trị
tiền bạc ở Mỹ là một vấn đề rất lớn và quả thật nó đang khiến cho chế độ như
một cỗ máy hỏng nặng, không còn vận hành trơn tru. Nhưng ta nên hiểu thật rõ
bằng cách nào và lý do tại sao nền chính trị tiền bạc là một cỗ máy hỏng hóc.
Nó hỏng hóc chính là vì về cơ bản nó đối nghịch với dân chủ. Nền chính trị tiền
bạc là hình thái lệch lạc của dân chủ. Nó phá hoại và làm mất giá trị một trụ
cột chuẩn mực của dân chủ – một người một phiếu. Để nhất quán về logic, lẽ ra
Li nên tung hô nền chính trị tiền bạc vì nó đưa Mỹ đi sang hướng của nền chính
trị kiểu chuyên quyền mà ông quá say mê.
Điều này có thể là một tiết lộ gây sốc cho Li, nhưng các
nền dân chủ Mỹ và Châu Âu không sáng chế ra khủng hoảng tài chính. Nhiều chế độ
chuyên quyền đã trải qua các cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trầm trọng.
Ví dụ như Indonesia năm 1997 và nhiều chế độ quân phiệt ở Châu Mỹ La tinh trong
thập niên 1970 và 1980. Những chế độ chuyên quyền duy nhất không bị khủng hoảng
tài chính rõ rệt là các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, như Romania và Đông
Đức. Nhưng sở dĩ như vậy hoàn toàn là do họ không đáp ứng điều kiện tối thiểu
để có khủng hoảng tài chính – là phải có một hệ thống tài chính. Những hậu quả
của khiếm khuyết này thì ai cũng biết rồi – thay vì những trồi sụt lớn tuần
hoàn theo chu kỳ, những nước này bị đình trệ kinh tế lâu dài. Một nhà đầu tư
vốn mạo hiểm chẳng phát đạt nổi trong chế độ đó.
Li nói ông đã nghiên cứu khả năng đạt thành tích của các
chế độ dân chủ. Ít nhất là trong bài diễn thuyết này, bằng chứng cho thấy ông
đã nghiên cứu chưa được thuyết phục cho lắm. Không có bằng chứng nào cho thấy
các quốc gia phải trả giá kinh tế vì có tính dân chủ. (Cũng nên lưu ý rằng cũng
không có bằng chứng toàn cầu đáng thuyết phục cho thấy các chế độ dân chủ nhất
thiết phải đạt thành tích tăng trưởng kinh tế tốt hơn các chế độ chuyên quyền.
Có nơi có, có nơi không. Kết luận tùy từng trường hợp.) Nhưng về các lĩnh vực
dịch vụ công, bằng chứng cho thấy các chế độ dân chủ nhỉnh hơn. Hai học giả
David Lake và Matthew Baum chứng minh rằng các chế độ dân chủ ưu việt các quốc
gia chuyên quyền về cung cấp dịch vụ công, chẳng hạn như y tế và giáo dục.
Không chỉ các nền dân chủ lâu đời có thành tựu tốt hơn; mà cả các nước chuyển
sang dân chủ cũng có cải thiện tức khắc về cung cấp các dịch vụ công này, và
các nước quay trở lại với chế độ chuyên quyền thường bị sa sút.
Li đổ lỗi tình trạng tăng trưởng thấp ở Châu Âu và ở Mỹ
cho dân chủ. Tôi hiểu tại sao ông có quan điểm này, vì đây là sai lầm phổ biến
của những người quan sát hời hợt – Trung Quốc tăng trưởng với tỉ lệ 8 hay 9
phần trăm, còn Mỹ tăng trưởng với tỉ lệ 1 hoặc 2 phần trăm. Ông đang nhầm lẫn
một hiệu ứng toán học của việc tăng trưởng thấp do cơ số lớn với một hiệu ứng
chính trị của việc dân chủ kìm hãm tăng trưởng. Vì các quốc gia dân chủ thường
giàu hơn và có GDP bình quân đầu người cao hơn nhiều, nên họ khó mà có tỉ lệ
tăng trưởng bằng với các nước nghèo – và chuyên quyền – có GDP bình quân đầu
người thấp hơn nhiều. Tôi xin đưa ra một so sánh ví von. Một cậu bé 15 tuổi có
nhiều khả năng tự đi xem phim hay đi chơi với bạn bè hơn một cậu bé 10 tuổi vì
cậu ta lớn tuổi hơn và trưởng thành hơn. Cũng có thể là cậu ta không lớn nhanh
bằng cậu bé 10 tuổi vì cậu ta đã gần hơn với đỉnh của chiều cao con người. Quả
là ngớ ngẩn nếu nhận xét, theo logic của Li, rằng cậu bé 15 tuổi lớn chậm hơn
vì cậu tự đi xem phim.
Li nói rất rõ rằng ông ghét dân chủ, hơn là về các lý do
khiến ông ghét dân chủ. Li bác bỏ dân chủ với lý do văn hóa. Trong bài diễn
thuyết, ông khẳng định dân chủ là một khái niệm xa lạ đối với văn hóa Trung
Hoa. Quan điểm này suýt nữa nghe buồn cười nếu không có những hàm ý gián tiếp.
Như tôi vẫn hiểu xưa nay, vốn mạo hiểm là một khái niệm nhập ngoại nhưng dường
như điều đó không cản trở Li theo nghiệp này và giàu lên nhờ nó. (Mà hình như
“Eric” cũng là gốc gác nước ngoài phải không nhỉ? Tôi có thể sai về điểm này.)
Ngược lại, Li có nhất nhất tôn trọng từng nguyên tắc của văn hóa và truyền
thống Trung Hoa? Liệu Li có phản đối việc bãi bỏ tập quán bó chân của phụ nữ
Trung Quốc?
Có một thực tế đơn giản là người Trung Quốc đã chấp nhận
nhiều khái niệm và tập quán nước ngoài. (Xin nhắc một chút: đối với người Trung
Quốc, chủ nghĩa Marx cũng Tây phương không kém Adam Smith.) Sẽ hoàn toàn chính
đáng nếu ta tranh luận về những tư tưởng và tập quán nước ngoài nào Trung Quốc
nên chấp nhận, áp dụng hay phỏng theo, nhưng cuộc tranh luận này là về những tư
tưởng mà Trung Quốc nên áp dụng, chứ không phải về việc liệu Trung Quốc có nên
áp dụng bất cứ tư tưởng và tập quán nước ngoài nào hay không.
Nếu vấn đề là về những tư tưởng nào hay những tập quán
nào nên áp dụng hay bác bỏ, thì khác với Li, tôi không cảm thấy đủ tự tin để
biết chính xác những tư tưởng và tập quán nước ngoài nào mà 1,3 tỉ dân Trung
Quốc muốn theo hay muốn bác bỏ. Về mặt logic, một lập luận mang tính văn hóa để
phản bác dân chủ không khiến người Trung Quốc không có được dân chủ, mà dẫn đến
một phương hướng hành động để người dân Trung Quốc tự quyết định về các ưu điểm
hay nhược điểm của dân chủ. Hơn nữa, nếu chính người Trung Quốc tự nguyện bác
bỏ dân chủ, thì việc gì phải tốn kém quá nhiều nguồn lực để chống và cấm đoán
dân chủ? Không có cách nào tốt hơn để tiêu xài số tiền này hay sao?
Cho đến nay cuộc tranh luận này chưa diễn ra ở Trung
Quốc, vì muốn có cuộc tranh luận này thì trước tiên phải có chút ít dân
chủ cái đã. Nhưng nó đã diễn ra ở những môi trường Trung Hoa khác, và kết quả
của những cuộc tranh luận đó là giữa văn hóa Trung Hoa và dân chủ về căn bản
không xung khắc nhau. Hong Kong, dù không có chế độ dân chủ bầu cử, có tự do
báo chí và chế độ pháp trị, và chẳng có bằng chứng nào cho thấy nơi này rơi vào
cảnh hỗn loạn hay vô chính phủ. Đài Loan ngày nay có một nền dân chủ đầy sức
sống, và nhiều người Đại lục sang thăm Đài Loan thường ngạc nhiên khi thấy xã
hội Đài Loan không chỉ có dân chủ mà còn tôn trọng truyền thống Trung Hoa hơn
nhiều so với Đại lục. (Xưa nay tôi luôn cảm thấy những người tin rằng dân chủ
và văn hóa Trung Hoa xung khắc với nhau là những người thầm ủng hộ độc lập cho
Đài Loan. Họ không xem người Đài Loan là Trung Hoa.)
Quả thật bản thân Li đã chấp nhận một số cải cách chính
trị thường được xem là “Tây phương”. Các tổ chức phi chính phủ thì được, và
thậm chí đôi chút tự do báo chí cũng được. Ông cũng ủng hộ đôi chút dân chủ
trong nội bộ Đảng. Đó đều là những bước đúng đắn để đạt đến chế độ Trung Quốc
có tính dân chủ hơn chế độ của Mao, và tôi ủng hộ cả hai tay. Chúng tôi khác
biệt ở chỗ tôi cho rằng quyền tự do bỏ phiếu và cạnh tranh đa đảng là những
bước mở rộng tự nhiên và hợp lý của những cải cách ban đầu này, trong khi Li
vạch một ranh giới rõ rệt giữa các cải cách chính trị đã diễn ra và những cải
cách chính trị tiềm năng mà một số người trong chúng ta đã cổ xúy. Dù gắng hết
sức, tôi vẫn không thấy có gì khác biệt trên nguyên tắc giữa những cải cách một
phần này và những cải cách hoàn chỉnh hơn có bao gồm dân chủ.
Li có một cách kỳ lạ để phản đối dân chủ: Ông phản đối
nhiều cơ chế vận hành của dân chủ. Đặc biệt, ông có ác cảm với việc bỏ phiếu.
Nhưng vấn đề là bỏ phiếu chỉ là cách để thực thi dân chủ, và ngay cả Li cũng
ủng hộ có đôi chút dân chủ. Ví dụ, ông ủng hộ dân chủ trong
nội bộ Đảng. Được, tôi cũng vậy; nhưng làm sao ta thực thi dân chủ trong nội bộ
Đảng nếu không có bỏ phiếu? Như vậy hơi giống như ca ngợi môn thể thao quần vợt
nhưng lại lên án việc dùng vợt để chơi môn này.
Li chưa đưa ra được một lập luận mạch lạc và hợp lý cho
các quan điểm của mình về dân chủ. Tôi ngờ rằng, dù tôi không có bằng chứng
trực tiếp, có một phương án đơn giản – ủng hộ các cải cách mà ĐCSTQ ủng hộ và
phản đối các cải cách mà ĐCSTQ phản đối. Làm bộ làm tịch như vậy thì cũng ổn,
nhưng đó không phải là một lập luận có nguyên tắc về bất cứ điều gì.
Nói vậy, nhưng tôi vẫn tin rằng có một cuộc tranh luận
quyết liệt về dân chủ là điều hoàn toàn lành mạnh và thực sự cần thiết – nhưng
cuộc tranh luận đó phải dựa trên số liệu, dữ kiện, logic là lý luận. Theo tiêu
chí này, bài diễn thuyết của Li chưa khởi xướng cuộc tranh luận đó.
Tuy nhiên, về mặt này, chế độ dân chủ và chế độ chuyên
quyền không đối xứng nhau. Trong một chế độ dân chủ, ta có thể tranh luận và
phê phán cả dân chủ lẫn chuyên quyền, như Li đã làm khi ông chê George W. Bush
(tôi rất khoái chỗ này) và như tôi làm ở đây. Nhưng những người trong một chế
độ chuyên quyền chỉ có thể phê phán dân chủ mà thôi. (Có tin kể rằng khi được
thông báo có những người biểu tình la hét “Đả đảo Reagan” trước Nhà Trắng mà
chính quyền Mỹ chẳng làm được gì với họ, Brezhnev nói với Reagan, “Có những
người la hét ‘Đả đảo Reagan’ trên Quảng trường Đỏ và tôi sẽ chẳng làm gì với họ
cả.”) Tôi chẳng có ác cảm gì với những người phê phán giới cầm quyền và tỏ ra
nghi ngờ về dân chủ. Thực ra, khả năng làm được điều đó trong một nền dân chủ
chính là sức mạnh của dân chủ, và một nguyên nhân quan trọng của tiến bộ nhân
loại. Copernicus là Copernicus vì ông lật đổ, chứ không phải vì ông tái tạo
thiên văn học Ptolemy. Nhưng với cùng tiêu chí đó, tôi quả thật có ác cảm với
những người không thấy ưu điểm của việc cung cấp quyền tự do mà họ đang có cho
những người hiện chưa có quyền tự do đó.
Giống như Li, tôi không thích giọng điệu cứu tinh mà một
số người dùng để ủng hộ dân chủ. Tôi ủng hộ dân chủ vì những lý do thực dụng.
Lợi ích quan trọng nhất của dân chủ là nó có khả năng chế ngự bạo lực. Trong
cuốn The
Better Angels of Our Nature, tác giả Pinker cung cấp những số liệu
thống kê đáng kinh ngạc: Trong thế kỷ 20, các chế độ toàn trị gây ra 138 triệu
cái chết, trong đó có 110 triệu ở các nước cộng sản. Các chế độ chuyên quyền
làm chết thêm 28 triệu người nữa. Các chế độ dân chủ làm chết 2 triệu người,
chủ yếu ở các thuộc địa của họ cũng như những vụ phong tỏa thực phẩm và đánh
bom dân sự trong chiến tranh. Như Pinker đã đề cập, các chế độ dân chủ thậm chí
gặp khó khăn trong việc xử tử những kẻ giết người hàng loạt. Theo lập luận của
Pinker, các chế độ dân chủ có “một mớ bòng bong các giới hạn về thể chế, nên
một vị lãnh tụ không thể chỉ việc hứng chí huy động quân đội hay dân quân dàn
trải khắp nước rồi bắt đầu sát hại hàng loạt dân thường.”
Ngược lại với những điều dường như Li được chỉ bảo khi
ông là một anh chàng hippie Berkeley, ý đồ của dân chủ không phải là dân chủ
dẫn đến một cõi Niết bàn, mà là dân chủ có thể giúp ngăn chặn một địa ngục trần
gian. Dân chủ còn nhiều, nhiều vấn đề. Chức năng bảo hiểm này của dân chủ – về
giảm thiểu các thảm họa – thường bị lãng quên hoặc bị xem là đương nhiên, nhưng
đây là lý do quan trọng nhất khiến dân chủ ưu việt hơn tất cả mọi chế độ chính
trị khác từng được loài người phát minh cho đến nay. Biết đâu một ngày nào đó
sẽ có một chế độ tốt hơn dân chủ, nhưng chế độ chính trị của Trung Quốc, theo
cách diễn đạt của Li, không phải là một trong những chế độ đó.
Yasheng Huang (Hoàng Á Sinh) là Giáo sư Kinh tế Chính trị và Quản trị Quốc tế tại Trường Quản trị
Kinh doanh Sloan thuộc Viện Công nghệMassachusetts (MIT) và là nhà sáng lập cả
Phòng Nghiên cứu Trung Quốc lẫn Phòng Nghiên cứu Ấn Độ ở trường Sloan của MIT.
Các bài viết của ông đã đăng trên The Guardian, Foreign Policy, Forbes, và gần đây nhất là trên Foreign Affairs,
nơi ông tranh luận với Eric X. Li về một chủ đề tương tự. Năm 2011, giáo sư Huang nói
chuyện ở diễn đàn TEDGlobal về dân chủ và tăng trưởng ở Trung
Quốc và Ấn Độ.
Nguồn: Yasheng
Huang, Why democracy still wins: A critique of Eric X. Li’s “A tale of
two political systems”, TED Blog, 1/7/2013
Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa
Hạ & pro&contra
[i] Xem bài phỏng vấn tác giả giới thiệu sách ở
đây. (N.D.)
[ii] Xem thêm về Nạn đói lớn ở đây. (N.D.)
No comments:
Post a Comment