Thứ năm 19 Tháng Chín 2013
Không chỉ đối đầu trên các vấn
đề biên giới, năng lượng và trên lãnh hải, cuộc cạnh tranh Trung - Ấn giờ còn
lan sang cả lĩnh vực tinh thần : Tranh giành ảnh hưởng lên cộng đồng Phật giáo
trong khu vực châu Á và bên ngoài. Chủ đề này được tờ phụ san địa chính trị của
báo Le Monde đề cập đến qua bài phân tích hấp dẫn đề tựa « Trung Quốc và Ấn Độ
đối đầu nhau xung quanh tượng Phật ».
Theo Le Monde, giờ đây « quyền
lực mềm » đang là một mặt trận mới giữa hai cường quốc châu Á, mà Phật giáo
chính là một tiềm lực không một lãnh đạo châu Á nào có thể bỏ qua. Ấn Độ có
Liên đoàn Phật giáo Quốc tế IBC (viết tắt từ International Buddhist
Confederation) mà đại hội vừa diễn ra từ ngày 09/09 cho đến 12/9 vừa qua tại
New Dehli, quy tụ nhiều phái đoàn đến từ 40 quốc gia trên toàn thế giới.
Nhưng cách đây bảy năm (2006),
Trung Quốc đã cho mở Diễn đàn Phật giáo Thế giới WBF (viết tắt từ World
Buddhist Forum) tại Hàng Châu, phía nam Thượng Hải. Một công cụ giúp Bắc Kinh
tìm cách tán tỉnh cộng đồng Phật giáo. Điển hình cách đây khoảng một chục năm,
nhiều chương trình trưng bày « xá lợi » Phật đã được tổ chức tại Trung Quốc hay
Hồng Kông.
Nhìn trên tổng thể, WBF của
Trung Quốc thu được nhiều thành công hơn là IBC Ấn Độ mà nguyên nhân chính nằm
ở vấn đề Tây Tạng. Trung Quốc muốn thông qua WBF để tạo tính chính đáng cho vị
Ban thiền Lạt Ma, người ủng hộ Bắc Kinh và khẳng định Tây Tạng là thuộc về
Trung Quốc. Chỉ có điều, nhân vật do Bắc Kinh đưa lên lại bị cộng đồng Phật
giáo Tây Tạng, và những người ủng hộ Đức Đạt Lai Lạt Ma phản đối dữ dội.
Qua WBF, Trung Quốc muốn phô
trương thanh thế là quốc gia có cộng đồng Phật giáo đông nhất hành tinh. Đổi
lại, Ấn Độ tự hào là nguồn cội của đạo Phật. Tuy nhiên, niềm tự hào của Ấn Độ
lại khiến cho quốc gia lân bang là Nepal cảm thấy phật lòng, vì Đức Phật vốn dĩ
được sinh ra và lớn lên tại Lâm Tỳ Ni (Lumbini), địa danh thuộc một quận biên
giới Nepal.
Tuy nhiên, bài viết công nhận
rằng tại Ấn Độ vẫn còn nhiều vết tích về các chuyến hành hương của Đức Phật và
các đệ tử của Ngài. Và Ấn Độ bắt đầu đổ tiền của vào để phát triển ngành du
lịch hành hương tại nước mình.
Chính trên lãnh vực này diễn ra
trận đấu tay đôi giữa Bắc Kinh và New Dehli. Năm 2011, một tổ chức phi chính
phủ có trụ sở tại Hồng Kông, thân chính quyền Bắc Kinh - Asia Pacific Exchange
and Cooperation Foundation (APECF) - đã đề nghị với chính quyền Nepal cho đầu
tư ba tỷ đô la nhằm phát triển khu vực Lâm Tỳ Ni.
Trong con mắt của chính quyền
New Dehli, tham vọng đầu tư của Bắc Kinh vào Lâm Tỳ Ni, một thánh địa có uy tín
nhất của Phật giáo, nằm cách biên giới Ấn chỉ có vài km, rõ ràng một thách thức
lớn về địa chính trị.
Ấn Độ nghi ngờ là một khi dự án
được hoàn tất, Bắc Kinh sẽ thu phục được ảnh hưởng cộng đồng tu sĩ tại Hy Mã
Lạp Sơn. Đồng thời hậu quả có thể có là khả năng kiểm soát cả khối cộng đồng
người Tây Tạng di tản một khi đức Đạt Lai Lạt Ma qua đời.
Cuối cùng, bài viết trích dẫn
nỗi lo lắng của vị quan chức cao cấp về hưu cho rằng « Thông qua Lâm Tỳ Ni,
Trung Quốc có nguy cơ gầy dựng cột thứ năm ngay trước cửa nhà Ấn Độ ». Giờ
đây, « Lâm Tỳ Ni đã trở thành tâm điểm » của cuộc đấu lớn Trung - Ấn,
theo như nhận xét của một vị chức sắc Phật giáo Nepal.
Chỉ có điều tâm điểm này lại
quá nóng bỏng, Le Monde kết luận.
Giáo hội Công giáo Cuba yêu cầu cải cách chính trị
Hơn bao giờ hết người dân và
Giáo hội Công giáo Cuba mong muốn chính quyền La Habana thúc đẩy nhanh hơn nữa
công cuộc cải cách đất nước, nhất là trên bình diện chính trị. Chủ đề này được
nhật báo Le Monde hôm nay 19/09/2013 phản ảnh lại qua bài viết « Tại Cuba, Giáo
hội công giáo kêu gọi cải cách chính trị ».
Trong thư ngỏ công bố hôm thứ
Hai 16/9, Hội đồng Giám mục Giáo hội Công giáo Cuba đã đưa lên hàng đầu « tính
khẩn cấp » của việc cải cách hệ thống chính trị trong nước. Giáo hội nhắc lại
những tiến bộ gần đây đã được Nhà nước thực hiện : trả tự do các tù nhân chính
trị nhờ vào sự trung gian của Đức Hồng y Jaime Ortega ; trao trả lại đất đai
cho nông dân ; trao quyền tự lập doanh nghiệp, quyền tự do thực hiện ước mơ cá
nhân kể cả việc đi ra nước ngoài. Tuy nhiên, bức thư cũng lưu ý là sự nghèo khổ
và hệ tư tưởng cũ vẫn còn tồn tại dai dẳng.
Các vị giám mục viết rằng «
Cuba mong muốn trở thành một xã hội đa thể chế. Quyền hạn khác nhau phải lan
rộng đến cả trong tư tưởng, tính sáng tạo, sự tìm tòi sự thật ». Bằng cách nhấn
mạnh đến « những lộ trình đối thoại mới » với các kiều dân Cuba tại Hoa Kỳ,
Giáo hội bày tỏ ước nguyện « một xã hội dân sự vững chắc ».
Bức thư của Hội đồng Giám mục
chỉ trích « một nhà nước gia trưởng », nhất thiết phải được thay thế bằng một «
Nhà nước tham vấn » : « Không nên lo sợ sự phát triển của một quyền tự chủ xã
hội vững mạnh và có trách nhiệm ». Bởi vì trên thực tế, quyền hội họp và tự do
ngôn luận vẫn còn bị kiềm hãm bởi những quy định do độc đảng đề ra.
Le Monde cho rằng bức thư trên
phản ảnh sự nóng lòng của người dân Cuba đối với nhịp độ thay đổi hiện nay và
sự thiếu vắng một nền chính trị mở. Bức thư ngỏ này được đăng trên tờ tạp chí
Espacio Laical, một tạp chí độc lập duy nhất được phép ấn bản tại Cuba và được
đại bộ phận dân chúng, nhất là những người ủng hộ cải cách đón nhận nhiệt tình.
Indonesia : Nếu muốn đi học phải còn trinh tiết ?
Chính quyền một thành phố tại
Indonesia đề nghị thực hiện xét nghiệm trinh tiết các nữ sinh. Xét nghiệm này
được xem như chiếc chìa khóa để vào các cổng trường trung học cấp 3, hợp thức
hóa các năm học và thậm chí để nhận bằng cấp. Chủ đề này được nhật báo cộng sản
L’Humanité chú ý đến qua hàng tựa « Tại Indonesia, hãy làm xét nghiệm trinh
tiết trước đã ! »
L’Humanité cho hay, lấy cảm
hứng từ ý tưởng này, Hội đồng Giáo lý Indonsia tại Java còn đi xa hơn đề nghị
đưa vào kiểu xét nghiệm nhục nhã và phân biệt vào cả trong Hiến Pháp. Sự việc
gây bất bình đến mức Bộ trưởng Giáo dục phải lên tiếng đính chính cho là đề
nghị trên không có ý nghĩa gì. Ông phải trấn an dân chúng là nếu chính quyền
bang nào thông qua quy luật trên, ông cũng sẽ có biện pháp can thiệp.
Theo tờ báo, ý tưởng xét nghiệm
trinh tiết nữ sinh thường xuyên xuất hiện trong các cuộc tranh luận công khai.Ý
tưởng này cũng đã được đề cập đến cách đây 13 năm. Dựa vào lập luận là ngày
càng có nhiều phim khiêu dâm được trình chiếu trong xã hội, một số thị trưởng
đã đưa ra ý tưởng này nhưng không bao giò đề cập đến các trường hợp các nữ sinh
bị hãm hiếp, đồng thời chối bỏ việc đưa ra các biện pháp ngăn chặn, một loại
tội phạm đang ngày càng gia tăng tại Indonesia.
Bài viết kết luận, việc trở lại
mạnh mẽ trật tự đạo đức, nhắm vào nữ giới, chứng tỏ một lần nữa các căng thẳng
đang lan rộng trong lòng xã hội Indonesia vốn đang trong giai đoạn chuyển biến.
Đông và Tây Đức : Vết thương vẫn chưa lành
Còn vài ngày nữa là đến ngày
bầu cử Quốc hội Đức, phụ san Địa chính trị của Le Monde và nhật báo Công giáo
La Croix cùng có bài điều tra về tình hình xã hội và kinh tế tại Đức. Cả hai tờ
báo nhận thấy là dù đã hợp nhất lại từ hơn hai thập niên qua, dù sự bất bình
đẳng đã có giảm đi đôi chút nhưng sự khác biệt về cấu trúc và định kiến xã hội
vẫn còn tồn đọng lại.
Đối với Le Monde, « Nước Đức,
sự hợp nhất chưa hoàn tất ». Còn với La Croix « Tại Đông Đức cũ, các vết thương
vẫn chưa lành lặn ». Dù đã hơn hai mươi năm trôi qua, nhưng những định kiến về
Đông và Tây vẫn còn đó. « Giữa người dân phía Đông và phía Tây, cứ như là người
xa lạ », theo như nhận định của tác giả Peer Steinbruck được Le Monde trích
dẫn. Một điều tra cho thấy có đến khoảng 20% người dân phía Tây chưa một lần
đặt chân đến các vùng đất phía Đông. ¾ người dân phía Tây nhìn thấy có « sự
khác biệt về tâm tính » của người dân phía Đông.
Theo cả hai tờ báo, mức sống
của dân phía Đông vẫn còn thấp hơn nhiều so với người đồng hương phía Tây. La
Croix trích một nghiên cứu của Quỹ Bertelsmann tiết lộ cho biết có đến 38,3%
trẻ em dưới 15 tuổi sống trong một gia đình phải hưởng tiền trợ cấp xã hội. Con
số này cao hơn mức trung bình quốc gia là 28,3% và cao hơn các khu vực giàu có
đến hơn 10 lần.
Đã hơn hai mươi năm trôi qua,
nhưng nền kinh tế phía Đông vẫn đang trong tình trạng tái thiết : tư hữu hóa
các doanh nghiệp Nhà nước do lợi nhuận kém, chậm trễ trong công nghệ và tình
trạng thất nghiệp cao. Đó là chưa kể đến tình trạng trường học bị đóng cửa, bác
sĩ thiếu trầm trọng. Theo báo La Croix, tại nhiều vùng phía Đông, do việc làm
rất bấp bênh và lương rất thấp, giới trẻ có tay nghề hay có bằng cấp lần lượt
bỏ đi sang các khu đô thị lớn giàu có phía Tây để tìm kiếm vận may. Kết quả,
dân số tại các khu vực này ngày một già đi. Nhà đầu tư cũng không có do thiếu
công nhân lành nghề.
Chính vì điều này mà cho đến
nay các thành phố Đông Đức cũ vẫn còn lệ thuộc nhiều vào sự trợ giúp từ một số
chính quyền của thành phố giàu có phía Tây. Và đương nhiên là sự đóng góp đó
dẫn đến nhiều cuộc tranh cãi không bao giờ chấm dứt vì cho rằng có sự bất công.
Bởi vì, trẻ con ở một số thành phố giàu có đi học phải đóng học phí trong khi
tại những thành phố phía Đông, nhà trẻ lại được miễn phí hoàn toàn.
Cuối cùng, cả hai tờ báo còn
nhận thấy sự khác biệt vẫn còn hằn sâu trong ý thức hệ của người dân giữa hai
bên. Người phía Tây có tư tưởng tiến bộ khi ủng hộ các trào lưu như dân chủ tự
do hay bảo vệ môi trường. Trái lại tại phía Đông, các đảng chính trị có nguồn
gốc từ Đảng Cộng sản Đông Đức cũ hay các phe cực tả là chiếm ưu thế tại các khu
vực này.
Mỹ coi trọng châu Á hơn châu Âu
Một nghiên cứu do Quỹ German
Marshall (GMF) thực hiện từ ngày 03/7 cho đến ngày 27/7 năm nay, cho thấy người
dân Mỹ xác định châu Á như là đối tác quan trọng hơn là châu Âu. Chủ đề này
được La Croix trích lại qua bài viết đề tựa « Hoa Kỳ nhìn sang châu Á, còn châu
Âu lại nhìn về phía Mỹ ».
Theo kết quả thăm dò, 45% người
dân Hoa Kỳ đánh giá châu Á nhỉnh hơn châu Âu (44%) một chút trên phương diện
quyền lợi quốc gia. Đổi lại, 64% người châu Âu được hỏi lại cùng nhận thấy là
Hoa Kỳ có tầm quan trọng hơn so với châu Á.
Nhìn chung, điều tra của GMF
cho thấy quan hệ Âu-Mỹ vẫn còn khá hữu hảo trong con mắt người châu Âu. Hơn
phân nửa người Pháp vẫn còn đánh giá cao vai tròn « sen đầm » quốc tế của Mỹ,
so với con số 50% người châu Âu ủng hộ tính độc lập của châu lục già đối với
Mỹ. Bên cạnh đó, đa số người châu Âu vẫn tiếp tục nghĩ rằng NATO rất cần thiết
cho an ninh quốc gia.
Có điều nghịch lý là chỉ có 29%
số người châu Âu và Hoa Kỳ được hỏi là ủng hộ tăng cường hợp tác xuyên Đại Tây
Dương trên các hồ sơ an ninh và ngoại giao. Một điểm khác cũng cho thấy có sự
thay đổi trong quan điểm của người Âu-Mỹ là thông thường họ rất ủng hộ nguyên
tắc sử dụng « vũ lực » để « thực thi công lý » thì nay trên hồ sơ Syria, 62%
người Mỹ và 72% người châu Âu phản đối một hành động quân sự vào quốc gia này.
No comments:
Post a Comment