Trương Nhân
Tuấn
Tác giả gửi đến Dân Luận
Thứ
Năm, 12/09/2013
Lập trường của Việt Nam về chủ quyền của
Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được trình bày rõ rệt qua
bài viết “Vietnams Position on the Sovereignty over the
Paracels & the Spratlys: Its Maritime Claims" của TS
Nguyễn Hồng Thao. Không biết đây có thực sự là quan điểm chính thức của Việt
Nam, như tựa đề muốn nói, hay chỉ là ý kiến riêng của tác giả. Điều quan tâm là
một số lập luận được sử dụng trong bài có thể không thuyết phục.
1/ Thử xét lập luận: "Người
ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có chủ quyền".
Lập luận này thường được dẫn đi dẫn lại ở
các bài viết của các học giả Việt Nam i. Ý kiến này nguyên của học
giả Monique Chemillier-Gendreau, trong tập tài liệu "La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys".
Nguyên văn lẽ ra phải viết đầy đủ như sau:
"Dans ce contexte, les déclarations ou pris de
position éventuelles des autorités du Nord-Vietnam sont sans conséquences sur
le titre de souveraineté. Il ne s’agit pas du gouvernement territorialement
compétent à l’égard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on n’a pas
d’autorité ii".
Tạm dịch: trong bối cảnh đó, những tuyên bố hay lập
trường nào đó của nhà cầm quyền miền Bắc thì không ảnh hưởng lên danh nghĩa chủ
quyền. Nhà nước này không phải là nhà nước có thẩm quyền về lãnh thổ đối với
các quần đảo. Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có thẩm quyền.
Các học giả Việt Nam "vắn tắt" bớt, do việc người sau trích dẫn người trước,
không kiểm chứng lại nguồn. TS. Nguyễn Hồng Thao viết:
"It had no right to give up the territory that it
did not have iii” - "Người ta không thể từ bỏ lãnh thổ mà người
ta không có thẩm quyền"
Người đầu tiên sử dụng lý lẽ này có lẽ là ông Từ Đặng Minh Thu, qua bài viết ở đây.
Tác giả này dịch đoạn văn trên như sau:
“Trong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc lập
trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với
chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người
ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được…”
Tác giả dịch "Dans ce contexte – bối cảnh này" thành ra "trong những điều kiện này",
theo tôi là không phù hợp. Vấn đề cần tìm hiểu: bối cảnh đó là bối cảnh nào?
Trang 122, tác giả Monique
Chemillier-Gendreau nhắc đến ông L. Thomas Bradford, trong "The Spratly Island Imbroglio: a tangled web of conflict”; Ông
này cho rằng, qua công hàm Phạm Văn Đồng, “Vietnam
réaffirmé sa reconnaissance de la prétention chinois sur les archipels" -
"Việc Nam tái xác nhận sự công nhận của họ về chủ quyền của Trung Quốc ở
các quần đảo".
Một số lập luận của bà Monique
Chemillier-Gendreau nhằm mục đính phủ nhận ý kiến của Thomas Bradford (cho rằng
Việt Nam bị Estoppel). Không thể diễn giải Công hàm 1958 như là "tái xác nhận việc công nhận chủ quyền
của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa".
Đó là “bối
cảnh” của câu văn.
Các học giả Việt Nam, chỉ dựa vào câu "Người ta không thể từ bỏ lãnh thổ mà
người ta không có thẩm quyền", từ đó kết luận công hàm Phạm Văn Đồng
là không có giá trị ràng buộc. Điều này hiển nhiên thiếu thận trọng. Bởi vì, nó
có thể đúng trong bối cảnh này (estoppel) nhưng chưa chắc đúng trong các bối
cảnh khác (thí dụ: acquiescement).
Có hai điều cần xem xét:
1/ Vào thời điểm 1958, VNDCCH có là một “quốc gia” như các học giả Việt Nam đã
nói hay không? Nếu có, quốc gia này có “thẩm
quyền quốc gia - compétence étatique” ở Hoàng Sa và Trường Sa hay không?
2/ Sau 1976, Việt Nam thống nhất đất nước,
dĩ nhiên nhà nước CSVN có thẩm quyền trên toàn lãnh thổ đất nước. Câu hỏi đặt
ra: Việt Nam có bị ràng buộc bởi công hàm 1958 hay không?
Điều thứ nhất sẽ khảo sát ở dưới. Điều thứ
hai, cũng là sự lo ngại của bà Monique Chemillier-Gendreau. Ý kiến của bà học
giả không chỉ vỏn vẹn trong câu văn dẫn trên. Vài dòng trước đó bà viết:
"Néanmoins, son silence devant l’affirmation de
souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme un acquiescement,
et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration relative aux zones de
combat et les articles du Nhan Dan iv. iv"
Tạm dịch: "dầu vậy, sự im lặng (của nhà nước
VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể được
hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố liên
quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân."
Phải hiểu thể nào về "acquiescement – sự đồng thuận" theo luật Quốc Tế? Điều
này cũng sẽ nói sau đây.
2/ Về ý nghĩa pháp lý "acquiescement – sự đồng
thuận" của các "tuyên bố đơn phương".
Điều cần nói rõ, Tuyên bố ngày 4 tháng 9
năm 1958 của Trung Quốc về lãnh hải quốc gia, là Tuyên bố đơn phương có hình
thức "décision - quyết định"
(hơn là hình thức "notification").
Theo tập quán quốc tế hiện nay, khi quốc
gia ra tuyên bố về bề rộng lãnh hải của nước mình, thường thông báo đến các
quốc gia khác "lập trường"
của nước mình qua hình thức "notification
- thông báo". Các nước khác, nếu công nhận lập trường này, sẽ gởi công
hàm trả lời mang hình thức "reconnaissance
vii– công nhận". Trường hợp không đồng ý thì gởi công hàm "phản đối – protestation viii".
Bất kể tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của
Trung Quốc mang hình thức "Désision v
– quyết định" (mang tính ép buộc cho phía nhận quyết định) hay "Notification vi – thông
báo", công hàm của ông Phạm Văn Đồng là một Tuyên bố đơn phương, công
khai, mang hình thức "công
nhận" tuyên bố của Trung Quốc. (Ở đây là công nhận tuyên bố chủ quyền
lãnh thổ cũng như việc mở rộng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc).
Vấn đề là, Việt Nam hôm nay có thể nói
ngược lại, là chỉ công nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc ở mọi vùng lãnh
thổ của Trung Quốc, mà không tôn trọng ở Hoàng Sa và Trường Sa, với lý do Hoàng
Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam hay không?
Như bà Monique Chemillier-Gendreau có ghi
nhận, VNDCCH đã tôn trọng quyết định của Trung Quốc qua nhiều hình thức khác
nhau, trong một thời gian dài, trong đó có việc nhìn nhận vùng biển và vùng
trời của Trung Quốc tại Hoàng Sa, qua bài báo trên nhật báo Nhân Dân. Mặt khác,
nhà cầm quyền miền Bắc cũng nhiều lần cho in bản đồ
trong đó ghi chú Nam Sa và Tây Sa thuộc Trung Quốc (chứ không phải
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam).
Các động thái trên là hình thức "comportement actif ix -
thái độ chủ động", dấu hiệu của "acquiescement".
Ngoài ra, nhà cầm quyền miền Bắc đã giữ
thái độ im lặng khi Trung Quốc xâm lăng Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974. Đây là
hình thức "comportement passif – thái độ thụ động", một dấu hiệu khác
của "acquiescement".
Khoản 1 của Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên
bố Đơn phương của Quốc gia được Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ x
thông qua có nội dung:
"Des déclarations formulées publiquement et
manifestant la volonté de s’engager peuvent avoir pour effet de créer des
obligations juridiques. Lorsque les conditions pour qu’il en soit ainsi sont
réunies, le caractère obligatoire de telles déclarations repose sur la bonne
foi; les États intéressés peuvent donc en tenir compte et tabler sur elles; ils
sont fondés à exiger que de telles obligations soient respectées."
Tạm dịch: "Những tuyên bố phát biểu một cách
công khai và bày tỏ ý muốn tôn trọng (những gì đã tuyên bố) có thể có tác dụng
tạo ra các nghĩa vụ pháp lý. Khi các điều kiện được hội đủ, tính cách ràng buộc
của các tuyên bố này được dựa vào sự thành tín. Quốc gia liên hệ có thể xem xét
và dựa vào tuyên bố này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó phải được tôn
trọng".
Công hàm 1958 hội đủ hai yếu tố "công khai" và "ý chí tôn trọng". Vì vậy nó
có thể tạo ra một nghĩa vụ pháp lý.
Nhà nước CHXHCNVN hiện nay - nhà nước kế
thừa VNDCCH - khó có thể cho rằng "công
hàm 1958 công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc ở mọi nơi, ngoại trừ Hoàng
Sa và Trường Sa".
Sai lầm là vì, năm 1958, thay vì đưa ra
tuyên bố "phản đối –
protestation", theo đúng như thủ tục của luật quốc tế, nhằm bảo lưu
chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, VNDCCH lại viết công hàm "công nhận – reconnaissance"
nội dung tuyên bố của Trung Quốc.
Theo tập quán quốc tế, các quan Tòa thường
rất thận trọng khi kết án một quốc gia trên nguyên tắc "acquiescement", nếu chỉ đơn thuần dựa trên một vài "dấu hiệu" nào đó. Trường hợp
Việt Nam, nếu so sánh với các bản án mẫu, với thái độ thụ động của CSVN trước
việc xâm lăng của Trung Quốc ở Hoàng Sa năm 1974, cách hành sử của nhà nước
CSVN qua việc nhìn nhận và tôn trọng vùng biển, vùng trời của Trung Quốc tại
Hoàng Sa và Trường Sa, các việc in ấn các bản đồ, cùng với các các tuyên bố của
các viên chức nhà nước… tất cả tạo nên thành tố "acquiescement – nhìn nhận" chủ quyền của Trung Quốc tại
Hoàng Sa và Trường Sa.
TS Nguyễn Hồng Thao dẫn vụ án xử Tân Tây
Lan và Úc cùng kiện Pháp năm 1974 lên CIJ về việc Pháp "Thử bom nguyên tử trong khí quyển":
“If States make statements by which their freedom of
action is to be limited, a restrictive interpretation is called for”.
Tạm dịch: Nếu một quốc gia có tuyên bố mà (nội dung
của tuyên bố) có thể hạn chế hành động của quốc gia này trong tương lai, việc
giải thích cần hạn chế.
Hàm ý cho rằng việc diễn giải công hàm 1958
cũng cần sự hạn chế.
Trường hợp vụ án, các viên chức có thẩm
quyền của Pháp đã ra các tuyên bố, theo đó nước Pháp sẽ không thử bom nguyên tử
trong khí quyển nữa. Tân Tây Lan và Úc vịn vào các tuyên bố này kiện lên CIJ,
yêu cầu Pháp không được thử (khi thấy Pháp lăm le muốn thử nữa).
Ta thấy rõ ràng tuyên bố của các viên chức
Pháp có hệ quả hạn chế tự do của nước Pháp trong tương lai. Nhưng kết quả phân
xử cho thấy, phía Tân Tây Lan và Úc thắng kiện. Pháp không được quyền thử bom
nguyên tử trong bầu khí quyển (nhưng sau đó thì thử dưới lòng đất!).
Tuyên bố của ông Đồng hạn chế hành động nào
của Việt Nam trong tương lai? Không có điều nào cả!
Vấn đề tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa giữa
Việt Nam và TQ bắt đầu từ năm 1909. Còn tranh chấp Trường Sa thì sau Thế chiến
II. Nhà cầm quyền VNDCCH không thể vịn lý do “không biết” để mà tuyên bố “công
nhận” đòi hỏi của Trung Quốc.
TS Nguyễn Hồng Thao ghi lại nội dung của
điều 7 xi của bản Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn phương của
Quốc gia được Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ. Người viết đã từng tham khảo
và tạm dịch (từ tiếng Pháp) như sau:
Một tuyên bố đơn phương chỉ có khả năng ràng buộc quốc
gia (đã phát biểu) khi nội dung (của bản tuyên bố) có một mục đích rõ ràng và
cụ thể. Trong trường hợp có nghi ngờ về mức độ cam kết của tuyên bố, thì văn
bản phải được giải thích một cách hạn chế.
Trở lại vụ án “Thử bom nguyên tử” 1974 giữa Tân Tây Lan và Pháp trước CIJ, Tòa
cũng nhấn mạnh:
Một tuyên bố đơn phương chỉ có thể tạo nghĩa vụ pháp lý
đối với quốc gia tuyên bố khi mà nó có mục tiêu rõ rệt và cụ thể. xii
Các tuyên bố của các lãnh đạo Pháp đã có
mục tiêu rõ rệt và cụ thể. Vì vậy nó tạo nghĩa vụ pháp lý, buộc nước Pháp phải
giữ lời.
Tương tự, tuyên bố của Phạm Văn Đồng cũng
rất rõ rệt và cụ thể: nhìn nhận và tán thành tuyên bố về lãnh thổ cũng như việc
mở rộng 12 hải lý lãnh hải của Trung Quốc. Vì vậy nó sẽ tạo nghĩa vụ pháp lý,
buộc Việt Nam phải giữ lời. Có nghĩa là Việt Nam phải tôn trọng lãnh hải 12 hải
lý của Trung Quốc ở mọi nơi có liệt kê trong bản tuyên bố của Trung Quốc. Tức
kể cả ở Hoàng Sa và Trường Sa.
TS Nguyễn Hồng Thao cũng dẫn vụ án giữa Mã
Lai và Singapour về chủ quyền các đảo Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks và
South Ledge, CIJ xiii, ngày 23-5-2008 nhằm biện hộ cho công hàm
1958:
The declaration by PM Pham Van Dong did not have a
constitutive character for giving up territory. In the case concerning
sovereignty over Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks, and South Ledge
(Malaysia/Singapore) regarding the Singapore argument that the Johor Authority
recognized Singapore sovereignty over those islands, the Court took a position
not to consider the Johor reply as having a constitutive character in the sense
that it had a conclusive legal effect on Johor. The text of PM Pham Van Dong
does not have any constitutive character regarding South Vietnamese territory.
Consequently, it had no conclusive legal effect on the fate of the Paracels and
Spratlys.
Tạm dịch: Tuyên bố của Phạm Văn Đồng không có giá
trị thiết định cho việc từ bỏ lãnh thổ. Trong vấn đề tranh chấp chủ quyền tại
các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks et South Ledge (Malaisie/Singapour),
liên quan đến lý lẽ của phía Singapour, (nước này) cho rằng lãnh đạo của Johor
đã nhìn nhận chủ quyền của Singapour tại các đảo. Lập trường của Tòa thì không
xem lá thư của Johor có giá trị thiết định trong chiều hướng (lá thư này) có
hiệu quả pháp lý đối với Johor. Văn thư của ông Đồng không có giá trị thiết
định đối với những vấn đề lãnh thổ của miền Nam. Do đó, không có một hiệu quả
pháp lý nào trên vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa.
TS Nguyễn Hồng Thao, cũng như nhóm Quĩ Nghiên
cứu biển Đông, dẫn thí dụ về quan điểm của Tòa đối với
lá thư của Bộ trưởng Ngoại giao Johor trong vụ án dẫn trên nhưng việc trích dẫn
này không phù hợp, nếu không nói là thiếu thành thật.
Trong vụ án CIJ xử vụ tranh chấp giữa Mã
Lai và Singapour về chủ quyền các đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle
Rocks và South Ledge, việc giải thích hiệu lực công hàm 1953 của Johor chiếm
một thời lượng lớn, từ đoạn 192 đến đoạn 230 trong biên bản ghi chép phiên xử.
Đoạn trích dẫn của TS Nguyễn Hồng Thao về
hiệu quả lá thư của Johor là đoạn 227, nguyên văn như sau:
227. Pour ce qui est du premier argument, la Cour ne
considère pas la réponse du Johor comme revêtant un caractère constitutif au
sens où elle aurait eu pour celui-ci un effet juridique décisif. Il s’agit
plutôt d’une réponse à une demande de renseignements. Ainsi qu’il apparaîtra
plus loin, cet argument est, compte tenu des circonstances, étroitement lié au
troisième.
Tạm dịch: về lý lẽ thứ nhất, Tòa không cho rằng lá
thư trả lời của Johor bao gồm một giá trị thiết định trong chiều hướng nó đem
lại cho lý lẽ này một hiệu quả pháp lý quyết định. Đúng ra đây là câu trả lời
cho một câu hỏi tham khảo. Cũng như nó sẽ trở lại ở phần sau, lý lẽ này, với
hoàn cảnh như vậy, có liên hệ chặt chẽ với (lý lẽ) thứ ba.
TS Nguyễn Hồng Thao đã trích dẫn không đầy
đủ, sau đó diễn giải ý nghĩa xa rời bối cảnh.
Ở đây Tòa không hề cho rằng lá thư của nhà
nước Johor không có hiệu lực pháp lý, mà chỉ cho rằng nó không có một hiệu quả
pháp lý quyết định cho lý lẽ thứ nhất. Vấn đề là lý lẽ thứ nhất đó là gì?
Tòa cũng cho rằng lý lẽ này quan hệ chặt
chẽ với (cái) thứ ba. (Cái) thứ ba đó là cái gì?
Muốn biết lý lẽ thứ nhất và "cái" thứ ba là gì, ta phải
xem đoạn 226:
226. Pour conclure son examen de la correspondance de
1953, la Cour relèvera trois aspects connexes de l’argumentation développée par
les conseils de Singapour à partir de celle-ci. Premièrement, Singapour a
présenté la réponse du Johor comme une "déclaration de non-revendication
expresse" ou "officielle" du titre sur Pedra Branca/Pulau Batu
Puteh; deuxièmement, elle a invoqué la notion d’estoppel; troisièmement, elle a
fait valoir que la réponse du Johor équivalait à un engagement unilatéral
obligatoire.
Tạm dịch: Để kết luận việc khảo sát của Tòa về lá
thư 1953, Tòa đưa ra ba phương diện liên hệ đến lý lẽ được khai triển bởi các
Ủy viên Singapour ở lá thư này. Thứ nhất, Singapour đã trình bày thư trả lời
của Johor như là một "tuyên bố minh thị từ bỏ chủ quyền", hay
"chính thức", về danh nghĩa ở đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh; thứ
hai, viện dẫn khái niệm Estoppel; thứ ba, lập luận rằng thư trả lời của Johor
tương đương với một cam kết đơn phương bắt buộc.
Như vậy, đoạn trích dẫn của TS Nguyễn Hồng
Thao chỉ liên quan đến khía cạnh thứ nhất: Singapour đã trình bày thư trả lời
của Johor như là một "tuyên bố minh
thị từ bỏ chủ quyền", hay "chính
thức", về danh nghĩa ở đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. Tức là, theo
Tòa, lá thư không có giá trị thiết định để việc "tuyên bố minh thị từ bỏ chủ quyền" có hiệu quả pháp lý
quyết định.
Điều này không có nghĩa, lá thư không có
giá trị pháp lý nào khác. Tòa còn có ý kiến riêng của tòa, có điều các học giả
Việt Nam "quên" không nhắc
mà thôi.
Tòa cho rằng lá thư này là một câu trả lời
của Johor cho câu hỏi của Singapour. Câu hỏi của Singapour đại khái là: Đảo
Pedra Branca/Pulau Batu Puteh có thuộc chủ quyền của Johor không?
Bộ trưởng Ngoại giao lâm thời Johor trả
lời: Đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh không thuộc sở hữu của Johor.
Đoạn 275, ý kiến của Tòa về lá thư:
"Il s’agit de la déclaration, faite dans des termes
clairs en 1953 par le secrétaire d’Etat par intérim de l’Etat du Johor, selon
laquelle le Johor ne revendiquait pas la propriété de Pedra Branca/Pulau Batu Puteh.
Cette déclaration revêt une importance capitale".
Tạm dịch: Về tuyên bố 1953 của Ngoại trưởng lâm
thời Johor, thể hiện bằng những lời lẽ cụ thể, theo đó Johor không tranh dành
chủ quyền đảo Pedra Branca/Pulau Batu Puteh. Tuyên bố này mang một tầm quan
trọng quyết định.
Cuối cùng Tòa phán đảo Pedra Branca/Pulau
Batu thuộc về Singapour, mặc dầu hồ sơ phía Mã Lai đã lập rất công phu, bao gồm
nhiều văn kiện lịch sử quan trọng, chứng minh được rằng Mã Lai có chủ quyền
lịch sử tại đảo tranh chấp.
Mã Lai bị mất chủ quyền lịch sử ở đảo này
vì nhiều lý do, ngoài lý do "effectivité",
Singapour đã hành sử các quyền chủ quyền một cách hòa bình và liên tục tại đảo
này, còn có lá thư của Johor là một yếu tố quyết định "importance capitale".
Trở lại tuyên bố 1958 của ông Đồng, thật
vậy, nội dung lá thư không hề nói đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng lá
thư này có thể diễn giải tương tự như trường hợp lá thư của Johor, đó là "ý kiến" của VNDCCH về một
quyết định của Trung Quốc.
Ngoài ra Công hàm 1958 có tính cách pháp lý
ràng buộc của một tuyên bố "công
nhận xiv", trong khi lá thư Johor chỉ là một "câu trả lời cho một câu hỏi tham khảo
- une réponse à une demande de renseignements".
3/ Vấn đề "thẩm quyền lãnh thổ":
Trở lại câu: "Người ta không thể từ bỏ lãnh thổ mà người ta không có thẩm
quyền" mà các học giả Việt Nam dẫn tới dẫn lui trong các bài viết. Như
đã viết ở trên, điều cần phải làm cho minh bạch là vào thời điểm 1958, VNDCCH
có là một “quốc gia” như các học giả
Việt Nam đã nói hay không? Nếu có, quốc gia này có “thẩm quyền quốc gia - compétence étatique” ở Hoàng Sa và Trường Sa
hay không?
Câu trả lời là vào khoảng 1958, VNDCCH
không hề là một "quốc gia",
theo định nghĩa của Quốc tế Công pháp, đơn giản vì VNDCCH không phải là "đối tượng" của Quốc tế Công
pháp.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, VNDCCH và VNCH
chỉ là "quốc gia từng phần – Etat
partiel" trong một "quốc
gia tổng thể - Etat global xv".
Trong thời kỳ 1954-1975, Việt Nam là một
đất nước bị phân chia (état divisé – divided country). Trường hợp Ấn Độ và Pakistan,
hoặc Pakistan và Bangladesh, cũng là các nước bị phân chia nhưng tình trạng
pháp lý của các quốc gia xvi này hoàn toàn khác với Việt Nam.
Theo định nghĩa xvii, quốc gia
bị phân chia (état divisé) là quốc gia, lúc trước khi bị phân chia đã là một "quốc gia – Etat", được cộng
đồng quốc tế nhìn nhận, và lập trường chính trị chung của các bên (sau khi bị
phân chia) là mong muốn thống nhất lại đất nước trong tương lai. Đường ranh
phân chia chỉ có giá trị tạm thời, không được nhìn nhận là đường biên giới.
Cộng đồng quốc tế đã nhìn nhận Việt Nam là
một quốc gia, thành hình từ rất lâu, đã tuyên bố độc lập từ thế kỷ thứ X. Sau
hiệp định Genève 1954, Việt Nam bị phân chia bằng vĩ tuyến 17 thành hai vùng
lãnh thổ. Đường phân chia này chỉ có giá trị tạm thời (nhằm về tập kết quân
sự). Cũng theo qui định của Hiệp định này, việc thống nhất Việt Nam sẽ thể hiện
bằng một cuộc bầu cử, trễ nhất là năm 1956. Việc bầu cử, do nhiều lý do, đã
không diễn ra. Hai miền, từ những năm của thập niên 60, trên thực tế đã hành sử
như là "quốc gia". Nhưng
lập trường chính trị của hai bên vẫn là ý muốn thống nhất lại đất nước. Cả hai
miền đều quyết định không gia nhập Liên Hiệp Quốc xviii.
Như vậy Việt Nam là một quốc gia bị phân
chia (état divisé – divided country), tương tự trường hợp của Đại Hàn và Đức, ý
muốn của họ là trong tương lai thống nhất lại đất nước xix.
Trường hợp Ấn Độ và Pakistan, sau khi được
Anh trả độc lập, đã quyết định phân chia đất nước thành hai vùng lãnh thổ và
việc phân chia có tính cách vĩnh viễn. Hai vùng lãnh thổ trở thành hai quốc
gia: Ấn Độ và Pakistan, với một đường biên giới được xác định và cả hai đều gia
nhập vào Liên Hiệp quốc. Trường hợp Bangladesh ly khai khỏi Pakistan để trở
thành một quốc gia độc lập, được quốc tế nhìn nhận. Các trường hợp phân chia
này hoàn toàn khác với tình trạng của quốc gia Việt Nam.
Về thái độ của các nước trên thế giới, có
thể phân chia thành 2 nhóm khác nhau, có quan niệm đối chọi nhau về tư cách
pháp nhân của "quốc gia Việt
Nam" trong giai đoạn 1954-1975.
Nhóm 1: công nhận nhà nước VNCH là chính
thống, đại diện cho quốc gia Việt Nam (từ Nam Quan đến Cà Mau). Các nước tiêu
biểu của nhóm này bao gồm các nước tư bản, thuộc khối tự do như Mỹ, Pháp, Anh…
khoảng 56 quốc gia. Nhà nước VNCH cũng được nhìn nhận là đại diện chính thức
của Quốc gia Việt Nam tại các định chế quốc tế thuộc LHQ.
Nhóm 2: công nhận nhà nước VNDCCH là chính
thống, đại diện cho Quốc gia Việt Nam (từ Lạng Sơn đến Cà Mau). Các nước tiêu
biểu của nhóm này bao gồm các nước thuộc khối cộng sản, như Liên Xô, Trung
Quốc…
Ngoại lệ Ấn Độ, không công nhận bên nào là
đại diện chính thống của quốc gia Việt Nam xx.
Như thế, lập trường áp đảo là chỉ có 1 quốc
gia Việt Nam, hoặc do nhà nước VNDCCH đại diện, hoặc do VNCH đại diện.
Điều cần nói, Hoa Kỳ cũng đã từng nhìn nhận
Việt Nam là một quốc gia "tạm thời
bị phân chia, giống như trường hợp của Đại Hàn và Đức". Việc này trình
bày trong "Biên bản ghi nhớ"
của bộ Ngoại giao ngày 4-3-1966. Hoa Kỳ cũng nhìn nhận và tôn trọng độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam theo tinh thần Hiệp định Paris
1973. Tức nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia duy nhứt.
Điều đáng ghi nhận khác, liên tục nhiều
năm, cho đến năm 1960, nhà cầm quyền miền Bắc vẫn còn lên tiếng, vào tháng 7,
yêu cầu miền Nam tuân thủ hiệp định Genève, trưng cầu dân ý thống nhất đất
nước.
Như thế thì lý lẽ nào để cho rằng, vào thời
điểm 1958, VNDCCH và VNCH là hai quốc gia?
VNCH và VNDCCH là hai nhà nước thù nghịch
nhau vì lý do ý thức hệ (tương tự Đại Hàn và Đức) nhưng cùng thuộc về một nước
Việt Nam duy nhất. Vì cùng chủ trương một nước Việt Nam duy nhất, hai nhà nước,
chính thống hay không chính thống, đều có tư cách và trách nhiệm như nhau về
các vấn đề chủ quyền lãnh thổ.
Nhóm Quĩ Nghiên cứu Biển Đông, qua bài viết
ở đây, có dẫn tên một số học giả như
James Crawford, Robert Jennings, Nguyễn Quốc Định, Jules Basdevant, Paul
Reuter, Louis Henkin, Grigory Tunkin, cho rằng VNCH và VNDCCH là "hai quốc gia" riêng biệt.
Điều đáng tiếc là không thấy nhóm nghiên cứu này nói rõ hơn là các học giả đó
viết trong sách nào? trang mấy? Riêng tác giả James Crawford, thì trong cuốn
The Creation the States in International Law mà tôi có tham khảo, từ trang 472
đến trang 477 cho rằng Việt Nam là một quốc gia bị phân chia.
Nhưng cũng đặt thử giả thuyết, năm 1958
VNDCCH và VNCH là hai "quốc
gia", cho đẹp lòng các học giả Việt Nam. Hệ quả sẽ ra sao về các vấn
đề lịch sử và pháp lý?
Khi đã là "Quốc gia", VNDCCH sẽ phải là đối tượng của Quốc tế Công
pháp. Các hành vi, các tuyên bố của VNDCCH trước quốc tế, từ 1954 đến 1975, sẽ
là một vấn đề thuộc phạm vi "quốc
tế". Công hàm 1958 vì vậy trở thành một vấn đề thuộc công pháp quốc
tế. Dĩ nhiên nước VNDCCH sẽ là nước thứ ba, không liên can gì đến việc tranh
chấp Hoàng Sa và Trường Sa giữa Trung Quốc và nước VNCH.
Còn chiến tranh Việt Nam, tức cuộc nội
chiến nồi da xáo thịt, tên "xung
kích XHCN" sừng sỏ đánh tên đại diện "tiền đồn thế giới tự do" VNCH, qua sự ủy nhiệm của các "quan thầy quốc tế". Là hai
quốc gia, quan điểm của miền Bắc, cuộc chiến tranh "Giải phóng, Thống nhất đất nước", sẽ phải đổi lại là
chiến tranh "chinh phục, mở rộng bờ
cõi". Quan điểm của VNCH, chiến tranh chống kẻ xâm lăng, dân tộc "Nam kỳ" "mất nước",
bị dân tộc Bắc Kỳ đô hộ. Quan điểm quốc tế, cuộc chiến tranh này vi phạm các
nguyên tắc của Hiến chương LHQ, các nước có bổn phận can thiệp để bảo vệ VNCH
(như trường hợp Koweit bị Irak xâm lăng qua cuộc chiến Vùng Vịnh lần 1). Lúc đó
sự can thiệp (nếu có) của Hoa Kỳ sẽ chính đáng, (chứ không bị thế giới lên án
như chiến tranh Việt Nam).
Đặt giả thuyết này để thấy rằng quan điểm
hai nhà nước VNDCCH và VNCH là hai "quốc
gia" là một điều rất sai, sai lầm về mặt lịch sử và tai hại về mặt
pháp lý.
Vì vậy, cố gắng biện luận rằng VNDCCH và
VNCH là hai quốc gia (với những bằng chứng ngụy tạo), sau đó dẫn lời (một cách
không đầy đủ) của bà Monique Chemillier-Gendreau: “người ta không thể cho cái mà người ta không có thẩm quyền”… đều
chỉ là ngụy biện. Các học giả này không ai chứng minh rằng VHDCCH và VNCH là
hai quốc gia độc lập, có chủ quyền, lãnh thổ được phân định, theo như tiêu
chuẩn của Quốc tế công pháp. (Và đây là điều thật may mắn cho tiền đồ của dân
tộc Việt Nam!)
Thái độ ngụy biện, hay việc thiếu thành
thật trong việc trích dẫn, không hề giúp Việt Nam giành lại Hoàng Sa và Trường
Sa, mà ngược lại, nó chỉ cho người ta thấy sự yếu kém của học giả Việt Nam và
càng củng cố thêm cho lý lẽ của phía Trung Quốc.
4/ Vấn đề kế thừa:
TS Nguyễn Hồng Thao, cũng như nhiều học giả
Việt Nam, khi trích dẫn câu "người
ta không thể từ bỏ cái mà người ta không có chủ quyền", mặc nhiên thừa
nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc chủ quyền của "quốc gia" VNDCCH.
Như vậy, sau 1976, từ bao giờ Hoàng Sa và
Trường Sa của "quốc gia" VNCH trở lại thuộc chủ quyền của CHXHCNVH?
Trở lại bằng cách nào? Kế thừa từ Cộng hòa Miền nam Việt Nam hay kế thừa VNCH?
Kế thừa ở đây là kế thừa "Quốc gia –
Etat" (vì đã nhìn nhận VNDCCH và VNCH là hai quốc gia) chứ không phải
kế thừa chính quyền (Gouvernement). Thủ tục kế thừa đã thể hiện ra sao?
Không thấy ai đưa ra lời giải thích rành
mạch.
Nhóm Quĩ nghiên cứu Biển Đông, trong bài
viết ở đây, đề nghị nhà nước CSVN hôm nay "nhìn nhận" VNCH "từng là một quốc gia" (sic!).
Vấn đề "nhìn
nhận" một vùng lãnh thổ có phải là một quốc gia hay không là tùy thuộc
theo nhiều tiêu chuẩn pháp lý do LHQ đặt ra, chứ không tùy thuộc vào sự việc
được sự nhìn nhận của nước khác. Mặt khác, người ta không thể "nhìn nhận" tư cách pháp nhân
cho một thực thể nào đó đã không còn hiện hữu.
Vấn đề là làm thế nào "kế thừa" VNCH chứ không phải "nhìn nhận" VNCH đã từng như là một quốc gia!
Như thế lập luận "có hai quốc gia Việt Nam trong khoảng 1956-1975" là điều
nguy hiểm cho Việt Nam tương lai. Nó không hề hóa giải được hệ quả công hàm
1958 của ông Phạm Văn Đồng mà nó chỉ có khả năng xóa bỏ mọi chứng cớ pháp lý
quan hệ giữa Việt Nam hôm nay (CHXHCNVN) và các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cũng nói về lý lẽ của phía Trung Quốc, trả
lời khi Việt Nam đòi đưa Hoàng Sa vào bàn thuơng thuyết: khi nào VN chứng minh
được miền Nam (tức VNCH) không thuộc nước Việt Nam thì họ sẽ ngồi xuống đàm
phán với Việt Nam về quần đảo Hoàng Sa.
Phía Việt Nam "ngọng"! Vì danh không chánh thì ngôn không thuận!
Đối với Trường Sa, quan niệm của Trung
Quốc, VNDCCH đã chiếm trái phép các đảo Trường Sa của Trung Quốc.
Các học giả Việt Nam, người đi sau "copy"
người đi trước, không ai thấy có nhu cầu xem xét lại, rập khuôn vào cùng một
lập luận, cùng mắc phải một sai lầm, "đóng đinh" Việt Nam cứng
đơ trên cây "thánh giá", bất khả tranh biện với Trung Quốc.
Vấn đề "kế thừa" và "liên
tục" quốc gia của Việt Nam đã được nhiều tác giả đề cập, cụ thể qua
tập "tate Succession and Membership in International Organisations –
Legal Theories versus Political Pragmatism" xxii của tác
giả Conrad G. Buhler (trang 69-113) hoặc Luận án của bà Mme Joële Nguyên
Duy-Tân, tóm lược qua bài "La représentation du VietNam dans les
institutions spécialisées".xxiii
Các tập tài liệu này đã đưa ra những tài liệu pháp lý,
cho thấy CHXHCNVN là một quốc gia mới. Nhà nước CHXHCNVN là nhà nước tiếp nối
của VNDCCH xxiv. Nhà nước này từ chối kế thừa bất kỳ danh nghĩa nào
thuộc về VNCH.
Những nhà lãnh đạo CSVN làm như thế là đúng với cái "logic"
của họ.
Bà Joële Nguyên Duy-Tân có đặt vấn đề:
"La R.D.V.N. avait toujours nié théoriquement
l'existence d'un Etat au Sud, en particulier celui de la R.V.N. La R.S.V.N. peut-elle
succéder à une entité inexistante pour elle?
Tạm dịch: VNDCCH luôn
cương quyết phủ nhận sự hiện hữu của một quốc gia ở miền Nam, tức VNCH.
CHXHCNVN có thể kế thừa một thực thể mà họ đã quan niệm là không hiện hữu?
Tài liệu thuộc Bộ Ngoại giao Pháp, ngày 9-9-1978, cho
thấy CHXHCNVN từ chối kế thừa di sản của thực dân Pháp (chuyển sang VNCH):
A la suite de la disparition de la République du Sud VN,
le nouveau gouvernement de VN n’a pas fait la déclaration indiquant qu’il
entendait succéder aux traités des 16 Septembre 1954 et 16 Aout 1955, conclus
entre la République française et l’ancien gouvernement Sud Vietnam. Il en
résulte, conformément au principes du droit international actuel en matière de
question du succestion d’Etat, que ces traités n’engagent plus le gouvernement
actuel de VN et qu’il sont devenus caduc. xxv
Tạm dịch: Tiếp theo sự
biến mất của Cộng hòa miền Nam, chính phủ VN mới đã không ra tuyên bố cho biết
họ kế thừa các hiệp ước 16-9-1954 và 16-8-1955, ký kết giữa Cộng hòa Pháp và
chính phủ miền Nam VN cũ. Vì vậy, chiếu theo các nguyên tắc của luật quốc tế hiện
thời về vấn đề kế thừa quốc gia, các hiệp ước này không còn ràng buộc chính phủ
Việt Nam hiện thời và chúng trở thành vô giá trị.
Một loạt các hành động khác, như CHXHCNVN ký kết vào hiệp
ước "Không phổ biến vũ khí nguyên tử" với tư cách một quốc gia
mới, từ chối kế thừa VNCH. xxvi
Hoa Kỳ cũng xác nhận VNCH là một quốc gia bị gián đoạn xxvii:
The Republic of Viet Nam, both of a state and government,
had ceased to exist in law or fact and the United States had not recognized any
government as the sovereigh authority in the territory formerly known as South
Viet nam
Tạm dịch: Việt Nam cộng
hòa, quốc gia và chính quyền, đã ngừng hiện hữu trên phương diện pháp lý và
thực tế. Hoa Kỳ không công nhận bất kỳ nhà nước nào trên vùng lãnh thổ trước
kia mang tên Nam Việt Nam.
TS Nguyễn Hồng Thao lập luận CHXHCNVN kế thừa Hoàng Sa và
Trường Sa từ CHMNVH. Vậy thì nhà nước CHMNVN đã thụ đắc danh nghĩa chủ quyền
tại Hoàng Sa và Trường Sa khi nào? Từ nhà Nguyễn, chính quyền thực dân Pháp hay
VNCH?
Tuyên bố của bộ Ngoại giao Pháp 9-9-1978 dẫn trên cho
thấy lập luận của TS Nguyễn Hồng Thao về kế thừa HS và TS là không có cơ sở.
Như vậy, lập luận VNDCCH và VNCH là "hai quốc
gia" đã đưa Việt Nam vào bế tắc.
Trong khi lập luận "hiệp định Genève 1954 phân
chia Việt Nam thành hai quốc gia" nguyên thủy là lập trường của Hoa
Kỳ.
Hoa Kỳ là một "tác nhân" trong cuộc
chiến Việt Nam. Vì lo ngại xảy ra một "chiến tranh Cao Ly thứ 2"
với Trung Cộng, đồng thời bảo đảm việc can thiệp vào Việt Nam phải phù hợp với
các nguyên tắc về chiến tranh theo qui định của quốc tế "jus ad
bellum" xxviii và "jus in bello", Hoa Kỳ
muốn biến miền Nam thành một "tiền đồn chống cộng" vững chắc.
Do đó nước này có ý muốn thành lập ở miền Nam một "quốc gia"
đúng nghĩa.
Nội dung bức thư xxix của Eisenhower gởi ông
Diệm này 1-10-1954: chúng tôi sẽ giúp cho VNCH xây dựng thành một "quốc
gia" phú cường, có khả năng chống lại mọi loạn lạc bên trong cũng như
những gây hấn bên ngoài.
Tháng 12 năm 1961, trả lời thư ông Diệm, TT Kennedy hứa
hẹn xxx: "Chúng tôi sẵn sàng giúp chính quyền VNCH để bảo vệ
người dân trong nước, để giữ vững nền độc lập của đất nước".
Hoa Kỳ muốn xây dựng miền Nam VNCH trở thành một "quốc
gia" hùng mạnh, có tính chính thống, duy nhất đại diện quốc gia Việt
Nam. Cuộc chiến Việt Nam sẽ cuộc chiến "xâm lược", vì miền Bắc
vi phạm hiệp định Genève, xâm lược miền Nam. Từ đó Hoa Kỳ mới có lý do vịn vào
để đổ quân vào Việt Nam, tương tự như chiến tranh Cao Ly. Nhưng VNCH không trở
thành một quốc gia "chính thống" và "hùng mạnh",
vì song song đó, các nước XHCN cũng giúp VNDCCH trở thành một quốc gia "chính
thống" và "hùng mạnh" khác. Cuộc chiến mà Hoa Kỳ lo
ngại (trường hợp Bắc Hàn xua quân đánh Nam Hàn) đã không xảy ra, vì lãnh đạo
CSVN đã áp dụng phương sách của Mao Trạch Đông, dùng "du kích
chiến", nuôi dưỡng con bài MTGPMN đồng thời mở mặt trận chính trị
tuyên truyền, bôi nhọ việc can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam và kích động những
trí thức ở miền Nam trở thành "phản chiến".
Cuộc chiến "hao mòn" này đã làm cho Hoa
Kỳ hụt hơi, như chiến tranh Afghanistan hiện nay, trong khi dư luận trong và
ngoài nước chống lại cuộc chiến. Cuối thập niên 60 Hoa Kỳ thay đổi quan niệm về
Việt Nam, đồng thời công nhận hai thực thể chính trị khác, cũng "đại
diện cho Việt Nam", là VNDCCH và CHMNCH. Lập trường của Hoa Kỳ thay
đổi, kéo chính phủ VNCH xuống ngang hàng với MTGPMN, chuẩn bị tư thế "đồng
minh tháo chạy". Những hứa hẹn của Eisenhower, Kennedy (và Nixon sau
này) trở thành vô ý nghĩa. Tình trạng pháp lý của quốc gia Việt Nam do đó lại
càng rắc rối hơn.
Vấn đề kế thừa của Việt Nam, đáng lẽ chỉ là "kế
thừa chính quyền - succession gouvernement" lại trở thành "kế
thừa quốc gia – succession d’état".
Kế thừa chính quyền thuộc phạm vi "nội bộ"
của quốc gia, "trong nhà đóng cửa dạy nhau" trong khi kế thừa
quốc gia thuộc phạm vi quốc tế. Chuyện nội bộ có thể thay đổi hay sửa chữa
nhưng chuyện thuộc phạm vi quốc tế thì sẽ rất khó khăn. Vấn đề là việc hòa giải
quốc gia phải được thể hiện nghiêm túc.
Các học giả Việt Nam cùng quyết định "vung đao tự
thiến". Mất nước do đó trước hết là do mình.
5/ Giải pháp nào?
Nội dung Nguyên tắc hướng dẫn của LHQ về "Acquiescement
– sự đồng thuận" đã ghi ở trên: "Những tuyên bố phát biểu một
cách công khai và bày tỏ ý muốn tôn trọng (những gì đã tuyên bố) có thể có tác
dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lý... Khi các điều kiện được hội đủ, Quốc gia
liên hệ có thể xem xét và dựa vào tuyên bố này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa
vụ đó phải được tôn trọng".
Các điều kiện đã hội đủ: CHXHCNVN là nhà nước tiếp nối
nhà nước VNDCCH, có đầy đủ thẩm quyền quốc gia về lãnh thổ, trên phương diện
thực tế cũng như trên phương diện pháp lý. Trung Quốc có thể bất cứ lúc nào,
dựa vào tuyên bố 1958, đòi hỏi Việt Nam tôn trọng.
Đứng trước đòi hỏi này, Việt Nam ở vào thế yếu về cả hai
mặt: pháp lý và tương quan lực lượng. Trong khi quan niệm của Trung Quốc ngày
càng cứng rắn: những gì thuộc chủ quyền lãnh thổ quốc gia đều thuộc là “lợi
ích cốt lõi” của Trung Quốc.
Các giải pháp có thể xảy ra như sau:
1- Trung Quốc có thể sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề
chủ quyền. Việt Nam sẽ đứng vào thế yếu vì vừa không đủ sức bảo vệ cũng như
không có đồng minh tin cậy giúp đỡ.
2- Việt Nam cố gắng giải quyết vấn đề thông qua thuơng
lượng, phù hợp với “luật quốc tế” về việc không thực hiện được các tuyên
bố đơn phương xxxi (công hàm 1958). Nhưng việc thuơng lượng cho thấy
Việt Nam khó đạt được giải pháp mà người dân dễ dàng chấp thuận. Việt Nam cố
gắng tập trung vào việc “hải phận 12 hải lý” ở các đảo, cho rằng các đảo
HS và TS là các đảo nhỏ. Trong khi Trung Quốc đi hai bước: đường chữ U và hiệu
quả Kinh tế độc quyền ZEE (200 hải lý) của các đảo. Nếu Việt Nam bác được đường
chữ U thì cũng khó bác bỏ vùng ZEE các đảo, bởi vì chính Việt Nam cũng đã từng
chủ trương như vậy. Sai lầm lớn của Việt Nam là anh có tư cách nào cấm người ta
khi anh cũng chủ trương y như vậy? Cho dầu Việt Nam có từ bỏ tuyên bố năm 1977
về ZEE cho các đảo, cũng không thể ngăn cản được Trung Quốc. Đòi hỏi này không
hề vi phạm Luật quốc tế về Biển 1982.
3- Mong muốn của Việt Nam hiện nay là giữ nguyên trạng.
Để đạt được điều này Việt Nam nhượng bộ cho Trung Quốc quyền lợi chiến lược ở
các lãnh vực kinh tế, văn hóa, quân sự v.v… với hy vọng Trung Quốc sẽ ký kết
hiệp ước “COC” với ASEAN. Nhưng việc nhượng bộ chiến lược, thể hiện qua
một loạt hiệp ước vừa ký kết, sẽ đẩy Việt Nam đi nhanh vào vòng lệ thuộc Trung
Quốc. Chưa nói đến các hiệp ước vừa ký kết phải được xếp vào loại “bất bình
đẳng”. Bất kỳ kiệp ước nào ký kết giữa hai quốc gia cũng đều ảnh hưởng đến
sự độc lập (la souveraineté) của quốc gia. Các hiệp ước vừa ký, cho thấy Việt
Nam không khác Trung Quốc trong thời kỳ bị liệt cường phân xé, hậu bán thế kỷ
19, phải ký các hiệp ước nhượng bộ cho nước ngoài những điều khoản không chấp
nhận được.
4- Vấn đề “hòa giải dân tộc” để kế thừa danh nghĩa
VNCH tại Hoàng Sa và Trường Sa cho thấy sẽ không có có hội thực hiện. Các vụ
bắt bớ sinh viên Phương Uyên, Nguyên Kha vì tội “rải truyền đơn cờ vàng ba
sọc âm mưu chống chế độ…” cho thấy nhà nước CSVN vẫn bất dung mọi dấu hiệu
thuộc về chế độ VNCH. Hiện nay, Việt Nam cố thực hiện nghị quyết 36, “hồi
chánh” các viên chức VNCH cũ, cho vào dự hội thảo, cho lên truyền hình… để
tuyên truyền chủ trương của nhà nước CSVN. Lãnh đạo CSVN muốn dùng các “học
giả” Việt Nam hốt những thang thuốc có hiệu quả ru ngủ, đánh lạc hướng mọi
sự thật cần phải biết về Hoàng Sa và Trường Sa.
Sắp tới, xương máu người dân Việt Nam có thể sẽ phải đổ
xuống để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại biển Đông. Nguyên nhân là do lãnh
đạo CSVN không giữ lời hứa của họ với Trung Quốc. Dĩ nhiên có những giải pháp
hòa bình khác, thay vì chiến tranh, 1954-1975, cuộc chiến biên giới 1979, cuộc
chiến Kampuchia… Lãnh đạo CSVN luôn lựa chọn các giải pháp tồi tệ nhất. Lãnh
đạo CSVN sẽ tiếp tục đưa nhân dân Việt Nam “lên giàn lửa thiêu”, kích
động tinh thần dân tộc trong tầng lớp dân chúng, đẩy mũi dùi chống đối về phía
một địch thủ khác, để bảo vệ chế độ.
Từ xưa đến nay sĩ phu Việt Nam luôn phò chính thống. Vì
lẽ sống của họ phụ thuộc vào quyền lực của người lãnh đạo. Điều này có thể
thông cảm, do trường hợp giảm khinh. Nhưng sĩ phu Việt Nam hải ngoại không thể
vì chút quyền lợi nhỏ nhoi mà bán rẻ lương tâm của mình. Không bảo toàn được
lãnh thổ, máu xương người dân đổ xuống, trách nhiệm là do người lãnh đạo. Nhưng
phần trách nhiệm về lịch sử, về đạo đức và lương tri, là do sĩ phu nhận lãnh,
mà nhóm người hải ngoại lãnh phần nhiều.
5- Việc đưa vấn đề tranh chấp ra một trọng tài quốc tế
phân giải sẽ không có hy vọng xảy ra, khi mà CSVN còn nắm quyền lãnh đạo. Việt
Nam hiện nay còn không dám lên tiếng công khai ủng hộ Phi trong vụ kiện Trung
Quốc, huống chi lên tiếng thách thức Trung Quốc giải quyết tranh chấp bằng các
phương tiện của công lý quốc tế. Trong khi sĩ phu vẫn còn đang dắt díu, người
sau nắm chéo áo người trước, lầm lũi đi theo “tấm chỉ đường của trí tuệ”,
mà không biết sẽ đưa về đâu?
Việt Nam có nhiều hy vọng thắng kiện, nếu và chỉ nếu,
chính quyền Việt Nam (hiện tại hay trong tương lai) kế thừa danh nghĩa của
VNCH. Mà việc kế thừa chỉ có thể thực hiện bằng phương pháp “hòa giải quốc
gia”.
Việc “hòa giải quốc gia”, trên bình diện chính
trị, chỉ có thể thực hiện nếu tương quan lực lượng hai bên “ngang cơ” với nhau.
Nhưng khi việc “hòa giải quốc gia” là một phạm trù thuộc đạo đức, tương
quan lực lượng là tương quan giữa “cái đúng, cái sai”, giữa “đạo lý
và phi đạo lý”… Như vậy, lực lượng vô minh vẫn áp đảo trong xã hội.
Những tuyên bố về Hoàng Sa và Trường Sa, như Luật biển
2012 của Việt Nam, tuyên bố của Nguyễn Tấn Dũng… đều không có giá trị pháp lý
trên phương diện quốc tế công pháp. Việc không dùng tiếng “ngụy” chỉ người
VNCH cũ, như có học giả vừa nói,
không hề là dấu hiệu của việc “hòa giải”, hay thể hiện hành vi kế thừa
VNCH.
6- Việc nhóm Quĩ Nghiên cứu Biển Đông cố gắng chứng minh
VNCH và VNDCCH là hai quốc gia đem lại hệ quả khẳng định tính chính đáng cho
các ý kiến “tái lập lại” hay “phục hồi” nước VNCH đã hiện hữu
trước đây. Đây cũng là một “giải pháp” trong nhiều giải pháp để lấy lại
danh nghĩa chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa. Có điều giả phải trả quá đắt: đất
nước phải phân chia lần nữa.
Truơng Nhân Tuấn
_____________________________________________________
i Ngoài TS Nguyễn Hồng
Thao và hầu hết cảc nhà nghiên cứu trong nước, còn có các ông Thái Văn Cầu, Tạ
Văn Tài cùng một số nhân vật khác ở nước ngoài.
ii Monique
Chemillier-Gendreau – La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys –
NXB Harmattan 1996, page 123.
iii Nguyễn Hồng Thao, bài
đã dẫn link.
iv Monique
Chemillier-Gendreau, sdd, tr 123.
v Nguyen Quoc Dinh,
Patrick Daillier, Mathias Forteau, Alain Pellet - Doit International Public,
L.G.D.J, 8e Edition, đoạn 242, tr 405
vi Doit International
Public , sdd, đoạn 242, tr 405.
vii Doit International
Public , sdd, đoạn 237, tr 396.
viii Doit International
Public , sdd, đoạn 237, tr 396-397.
ix Jean Barale, L’
acquiescement dans la jurisprudence internationale, In: Annuaire français
de droit international, volume 11, 1965. pp. 389-427.
x Texte adopté par la
Commission du droit international à sa cinquante-huitième session, en 2006, et
soumis à l’Assemblée générale dans le cadre de son rapport sur les travaux de
ladite session (A/61/10). Le rapport, qui contient également des commentaires
sur le projet d’articles, sera reproduit dans l’Annuaire de la Commission du
droit international, 2006, vol. II(2).
xi Texte adopté par la
Commission du droit international… tài liệu đã dẫn.
xii Essais nucléaires
(Australie c. France; Nouvelle-Zélande c. France), C.I.J. Recueil 1974, p. 267,
par. 43, p. 269, par. 51 et p. 472, par. 46, p. 474, par. 53
xiii Souveraineté sur
Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks et South Ledge
(Malaisie/Singapour), arrêt, C.I.J. Recueil 2008, p. 12. ISSN 0074-4441 ; ISBN
978-92-1-071046-6
xiv Doit International
Public , sdd, ghi chú 5. Đoạn 239, tr 400.
xv Gilbert Caty, Les
Statut Juridique des Etats Divisés, Ed. A. Pedone 1969.
xvi Quốc gia theo định
nghĩa của Quốc tế Công pháp: Doit International Public , sdd, tr 449-469.
xvii Gilbert Caty, sdd,
tr.15.
xviii Việc gia nhập LHQ
chưa chắc là một yếu tố để chứng minh lãnh thổ đó là một quốc gia nếu ta xét
trường hợp của Ukraine và Bielorussis. Thật vậy, hai xứ này, trong thời kỳ
thuộc Liên bang Xô viết, đã gia nhập LHQ (từ khi LHQ mới thành lập). Hai "quốc
gia" này thực ra chỉ là một phần "lãnh thổ" của URSS
mà thôi.
xix Đây là lập trường của
nhiều học giả trên thế giới. Một số thí dụ: Gilbert Caty, in Les Statut
Juridique des Etats Divisés; James Crawford, in The Creation the States
in International Law, tr 472-477. Conrad G. Buhler, in State Succession
and Membership in International Organisations – Legal Theories versus Political
Pragmatism, tr. 94-103…
xx Conrad G. Buhler,
sdd, tr 77.
xxi State Department,
4-3-1966, "The legality of US participation in the Defense of Vietnam”
dẫn từ Gilbert Caty, Les Statut Juridique des Etats Divisés, sdd, tr 12.
xxii Conrad G. Buhler, State
Succession and Membership in International Organisations – Legal Theories
versus Political Pragmatism , tr 68-113.
xxiii Nguyen Duy Tan Joële.
La représentation du Viet-Nam dans les institutions spécialisées. In: Annuaire
français de droit international, volume 22, 1976. pp. 405-419. doi:
10.3406/afdi.1976.1996 http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/afdi_0066-3085_1976_num_22_1_1996
xxivTuyên bố CHXHCNVN gởi
chính phủ Thụy Sỹ, dẫn từ Conrad G. Buhler, sdd, tr 104: The S.R.V will
continue the participation of the DRV and the RSV in the four “Geneva
convention of 1949” concerning the protection of war civil victims with the
same observations as those set forth by the DRV and the SRV. Ta thấy Việt
Nam đã sử dụng chữ “tiếp tục” thay vì “kế thừa” VNDCCH.
xxvConrad G. Buhler, State
Succession and Membership in International Organisations – Legal Theories
versus Political Pragmatism, tr 107.
xxvi Conrad G. Buhler,
sdd, tr. 87.
xxviiConrad G. Buhler, sdd,
tr 107.
xxviiiĐương nhiên, các
"qui tắc" về chiến tranh này đều do họ đặt ra, dự tính có khi từ
30-40 năm trước, nếu chúng ta tin theo tài liệu của Cf. Major J. B. Kelly,
"Legal Aspects of Military Operations in Counterinsurgency" »,
Military Law Review, juillet 1963
xxixIsoart Paul. Les
conflits du Viêtnam. Positions juridiques des États-Unis. In: Annuaire
français de droit international, volume 12, 1966. pp. 50-88.
xxx Isoart Paul, như
trên.
xxxi Doit International
Public , sdd, đoạn 239, tr 402.
No comments:
Post a Comment