03-09-2013
Nguyễn Công Hoan trong hồi ký Đời viết văn của
tôi (1971) có nhiều đoạn tự thú về sự làm bừa làm bậy đã xẩy ra trong đời
mình. Đại khái ông kể là lúc ra học tiểu học ở Hà Nội cần giấy khai sinh, nhưng
ngại về làng bên Bắc Ninh làm tận gốc, liền nhờ ông chủ nhà trọ làm hộ. Ông này
bảo hai người bạn làm chứng, rồi kiếm cành cau với vài hào bạc đưa lý trưởng
Hàng Trống. Vài ngày sau, ông Kép Tư Bền trong văn chương tương lai có ngay tấm
giấy khai sinh và nghiễm nhiên thành người sinh ở Hà Nội.
Câu chuyện được kể chỉ cốt để phô ra một tình trạng
gian dối phổ biến trong sinh hoạt đương thời. Như một thứ thỏa thuận ngầm, mọi
người chia sẻ một cách sống thực giả tùy tiện . Không ai buồn quan tâm
tới sự chính xác của các con số, không muốn và không có nhu cầu hiểu biết thực
thụ về chính mình cũng như hoàn cảnh quanh mình. Một thứ khinh bạc bất cần đời
bao trùm cả xã hội.
Từ đây, không khó khăn gì để nhận ra mầm mống của
nhiều sự lạc hậu khác như cách nghĩ chín bỏ làm mười, bất chấp chuẩn mực, không
coi cái gì là thiêng liêng, bịa sai bị tố không chịu nhận, xem thường lẽ phải
và pháp luật.
Ngày nay chúng ta còn bắt gặp nó trong những tin tức
đưa ra hàng ngày trên báo chí. Nhiều làng làm giả hồ sơ thần tích để xin cấp
bằng di sản văn hóa. Nhiều chi tiết ở các vụ án "có dấu hiệu bị làm
lệch". Hết thể thao khai man tuổi đấu thủ lại đến bóng đá trọng tài bắt
thiên vị. Trên các trang mạng thường xuyên có các tin bài dành để tố cáo tiến
sĩ rởm, giáo sư rởm.
Đấy là nói trên những sự việc trong đời sống hàng
ngày. Nói chi đến những chuyện tầy đình -- như ba mươi năm chiến tranh, đã bao
người Việt bị chết, trong nạn suy thoái kinh tế hiện nay có bao nhiêu công nhân
thất nghiệp, -- các con số đưa ra khi thấp khi cao và chỉ phụ thuộc vào ý muốn
của người có quyền.
Sự cố ý làm sai nhiều khi đã biến thành gian manh
càn rỡ, bất chấp quỷ thần cũng như dư luận xã hội.
Sự thiếu chính xác trong suy nghĩ đến đây tìm được
biến tướng mới, là tô vẽ lịch sử, viết lại lịch sử cho vừa mắt vừa tai, miễn là
đề cao được mình, do đó có lợi.
Ta hãy trở lại với cội nguồn của thói quen
này.
Trước khi đề ra các chính sách xã hội ở Đông Dương,
người Pháp thường huy động nhiều nhà khoa học đi điều tra nghiên cứu điền dã và
tìm hiểu ngược mãi lên tận nếp sống trì trệ đã hình thành nhiều đời trong xã
hội Việt.
Trong số này phải kể tới Pierre Gourou
(1900—1999).
Tình trạng tư duy không có cái gì chính xác của
người Việt đồng bằng sông Hồng từng được ông miêu tả tường tận trong cuốn Người
nông dân châu thổ Bắc Kỳ (viết năm 1936 và bản dịch ra tiếng Việt in ở Hà
Nội 2003)
Theo cách miêu tả của Gourou, ở các làng xã, “chỉ
cần đưa một ít tiền cho chức dịch là có thể nhận được một bản khai sinh hoàn
toàn theo ý thích, trong đó ngày tháng năm sinh được ghi phù hợp với nguyện
vọng của người xin“.
Sự phổ biến của các hiện tượng tương tự buộc người
ta phải kết luận rằng đây là một biểu hiện của trình độ tư duy và một quan niệm
sống chi phối xã hội suốt từ trên xuống dưới.
Nên biết rằng đến thời cận đại, ngay các vua chúa
cũng không bao giờ biết cả nước có bao nhiêu dân, quan chức các cấp không cần
biết một làng mà họ thu thuế có bao nhiêu xuất đinh, còn các xã thì bao giờ
cũng cố giấu bớt số người phải nộp thuế để trốn thuế được chừng nào hay chừng
ấy. Lúc đầu thì người ta không thể làm, sau thì không muốn làm. Thói quen sống
trong bóng tối đã đóng vai một nhân tố cản trở sự trưởng thành của xã hội.
Một vài hiện tượng khác được Pierre Gourou ghi nhận
cũng khá đắt giá.
Ông bảo đến một làng khi cần hỏi về lai lịch của
làng, người ta chỉ nhận được những câu trả lời rất mơ hồ; nếu như muốn có một
sự chính xác thì câu sau thường lại mâu thuẫn với câu trước.
Gần như không làng nào có ý niệm chắc chắn về sự
thành lập của làng mình, đi đâu cũng chỉ thấy người ta thề sống thề chết là
làng mình có từ cổ xưa, đâu như từ thời Hùng Vương, tức là đã có từ hơn bốn
ngàn năm trước.
Gourou chỉ hết ngạc nhiên khi biết rằng một dòng họ
có vài ba người thăng quan tiến chức thì thường thuê ngay một nhà nho có tên
tuổi viết lại gia phả nhà mình. Mà nhà nho ấy thì nghĩ rằng ông ta có nghĩa vụ
thêm thắt vào cuốn gia phả ấy nhiều chi tiết cho nó đẹp thêm, và không ai thấy
phải thắc mắc về hành động đó cả.
Sự thiếu hiểu biết và nói chung là thiếu ý niệm
chính xác về thời gian của cả cộng đồng như tạo ra một lớp sương mù huyền hoặc.
Càng về sau những người chép sử càng sử dụng độ lùi của năm tháng để vùi lấp
tất cả trong sự mù mờ và không cho phép ai đi tìm sự thật.
Cũng về vấn đề thời gian hai tác giả người Pháp khác
là Pierre Huard và Maurice Durand trong Hiểu biết về Việt Nam (1954) lưu
ý xã hội Việt xưa chưa biết tới đồng hồ, và khái niệm về thời gian “chỉ được
kinh qua chứ không được đo“.
Sự lẫn lộn giữa lịch sử và huyền thoại trở thành
đương nhiên.
Theo Pierre Huard và Maurice Durand, đây là dấu hiệu
của sự tồn tại dai dẳng của kiểu tư duy tiền Descartes thường thấy ở phương
Đông.
Trong lúc chờ tìm hiểu thêm về tiền Descartes,
tôi tạm lấy một câu chuyện trong Trạng Quỳnh để minh họa cho khái niệm này.
Theo bản Trạng Quỳnh bán ở sạp báo trước cửa chợ
Đồng Xuân thời gian trước 1954 thì có lần Trạng cho kéo đến trước mặt sứ Tầu
một cây gỗ, rổi đề vào đó ba chữ Hồ bất thực và bảo hãy giải nghĩa cây
đó là cây gì.
-- Xin chịu, kính nhờ Trạng giảng hộ.
-- Hồ bất thực là cáo chẳng ăn. Cáo chẳng ăn
thì cáo đói. Cáo đói thì cáo gầy. Cáo gầy là cây gạo.
Ngày nay sự lẫn lộn giữa huyền thoại và lịch sử còn
được tiếp tục, chẳng hạn với trường hợp ngọn đuốc sống Lê Văn Tám.
Tư duy trung cổ chi phối người Việt suốt những năm
chiến tranh. Sang thời hậu chiến, trong khi tuyên bố mình đi vào hiện đại hóa
thì trên nhiều phương diện – trước tiên là trong tư duy -- có sự trở lại của
các yếu tố tiền hiện đại.
Tức tinh thần chính của đời sống thì lại y
như trước khi người Pháp tổ chức xã hội VN theo mẫu hình của họ thế kỷ XIX.
No comments:
Post a Comment