Elzbieta
Matynia
New School for
Social Research, New York City,
August 2009
Bản dịch của Nguyễn
Quang A
Cập nhật lần cuối 09/09/2013
Thực
sự, 1989 đã không chỉ xảy ra trong năm 1989. Trong khi thế kỷ thứ hai mươi đã
không bắt đầu cho đến 1914, và thế kỷ thứ hai mươi mốt đã không bắt đầu cho đến
tháng Chín 2001, thì 1989 đã thực sự bắt đầu ít nhất một chục năm trước. Nhưng
bị thôi miên bởi cảnh lễ hội (carnival) bắt mắt xảy ra trên đỉnh bức tường
Berlin, hầu hết thế giới đã không nhận ra rằng cái đã có vẻ như sự sụp đổ đột
ngột của chế độ cộng sản đã không là một phép màu cũng đã chẳng là thành tựu
của các cường quốc nước ngoài. …đã không nhận ra rằng chính công việc từ từ,
bền bỉ, và đầy sáng tạo của các công dân mở ra không gian công cộng và thiết
lập các định chế và các quá trình dân chủ mới đã là cái dẫn đến sự dỡ bỏ bức
tường đó.
Cũng
đã quyến rũ như những hình ảnh về những người quai búa liên hồi [để phá bức
tường], hay về đám đông yên bình tập hợp về đêm trên Quảng trường Wenceslas,
hình ảnh đó đã che mờ, đã đơn giản hóa, và đã làm cho lạc lối. Như bạn sẽ thấy
trong chốc lát, tôi là người cuối cùng đi đánh giá thấp sức mạnh của các hành
động tượng trưng, nhưng tôi muốn tranh luận rằng chúng thể hiện sức mạnh thực
chỉ nếu chúng có gốc rễ trong những sáng kiến xã hội và có cơ sở vững chắc
trong hiểu biết địa phương … chỉ nếu chúng bày tỏ trí tưởng tượng nội và được
biểu diễn bởi các diễn viên địa phương.
Việc
kéo đổ tượng Saddam Hussein trong năm 2003 với sự giúp đỡ của công binh Quân
đội Hoa Kỳ và những xe bọc thép Mỹ đã không mang lại những kết quả mong muốn,
vì hành động ấy đã không được tưởng tượng ra cũng đã chẳng được khởi xướng bởi
những người địa phương.
Tôi
e rằng các bài học từ sự sụp đổ của chế độ cộng sản đã không được học, và rằng
các cơ hội đã bị bỏ qua để nuôi dưỡng dân chủ thông qua các phương tiện và
phương pháp được thai nghén ở địa phương.
Cái
đã thoát khỏi sự chú ý khi đó đã là một địa điểm hoàn toàn mới cho loại suy
ngẫm về dân chủ và dân chủ hóa mà có vẻ – dưới các điều kiện hôm nay – đã đạt
đến một sự bế tắc. Khái niệm, mà tôi gọi là “dân chủ ngôn hành – performative
democracy,” và chiều kích của dân chủ mà nó thâu tóm, vì chúng đã không được
diễn đạt một cách mạch lạc cũng chẳng thậm chí nhận thức được một cách dễ dàng,
đã bị bỏ qua bởi các nhà khoa học xã hội và như thế cũng bởi các nhà hoạch định
chính sách, một tình huống mà có thể dẫn đến những đường lối chỉ đạo chính sách
không chính xác, và thường đến những quyết định chính sách tai hại.
Trong
những bình luận sau đây, tôi muốn chú tâm vào dân chủ ngôn hành, sự ban hành
dân chủ đầy cảm hứng bản xứ bởi các công dân mà tôi tin có thể giúp chúng ta
hiểu việc xây dựng một chính thể dân chủ vững chãi không chỉ ở Ba Lan. Thế mà,
tôi phải nói thêm, khái niệm mà tôi chợt nghĩ ra khi tôi bắt đầu ngó tới những
sự thực hành khác nhau tại Ba Lan trước và sau 1989.
Tôi
không có thời gian ở đây để mời bạn xem xét lại chiều hơi khó nắm bắt này của
dân chủ với tất cả tính nhân văn của nó, kịch tính của nó, các thời khắc gây
cảm hứng tuyệt vời của nó, tinh thần ngẫu hứng của nó, và các giải pháp đầy
sáng tạo của nó. Tôi phải ngắn gọn ở đây, thế nhưng tôi hy vọng thuyết phục
được bạn rằng đã có một phổ rộng của những sáng kiến ngôn hành – văn hóa, xã
hội, và chính trị – mà đã tạo thuận lợi cho sự biến đổi một môi trường chuyên
quyền thành một môi trường dân chủ. Và tôi hy vọng thuyết phục bạn rằng dân chủ
ngôn hành – một chiều của dân chủ mà đã nổi lên một cách có thể cảm nhận được ở
Ba Lan trong các năm 1980, nhưng cũng đã có thể quan sát được ở Tây ban Nha
trong các năm 1970, và ở Nam Phi trong các năm 1990 – phải có được vị trí chính
đáng của nó trong tư duy của chúng ta về dân chủ hôm nay.
Ba
chế độ “độc đoán khi đó” đã rất khác nhau, cũng như lịch sử tương ứng của chúng
và các chiến lược mà toàn thể công dân đã chống lại chúng. Cái chúng có chung
đã là, các công dân của chúng đã thách thức và đã làm thay đổi một cách hòa
bình các chế độ áp bức, đã tháo dỡ những cấu trúc quyền lực hết sức tập trung,
và đã khởi động các quá trình dân chủ hóa. Bám rễ sâu vào các vị trí xã hội-văn
hóa riêng biệt và đa dạng, dân chủ ngôn hành như thế không phải là một mô hình
lý thuyết, một lý tưởng chính trị, cũng chẳng là một hệ thống cai quản đã được
thử thách, mà là một quá trình được quy định về mặt địa phương của việc ban
hành dân chủ trong các khung cảnh khác nhau về mặt chính trị. Và mặc dù nó có
một dãy các hình thức và được biểu lộ thông qua những cách diễn đạt khác nhau,
khi nó xuất hiện dưới các điều kiện của sự cai trị độc đoán, nó thường phản ánh
ý thức cơ bản của các diễn viên của nó về các lý tưởng dân chủ, và lòng tin của
họ rằng quả thực có những chỗ – “các nước bình thường” – nơi các quyền dân sự
được tôn trọng, và nơi dân chủ thực sự được thi hành và thực hành. Và người ta
không được gạt bỏ sức mạnh của hình ảnh về một nước bình thường cho những người
như vậy.
Giữa
những người đã giúp tôi trong suy nghĩ về dự án này đã là J. L. Austin với các
bài giảng ngôn ngữ học của ông, và hai triết gia về đối thoại và giải phóng
những người đã trải nghiệm những thời kỳ đen tối nhất – Hannah Arendt ở nước
Đức Nazi, và Mikhail Bakhtin ở nước Nga Stalinist. Nhưng nền tảng cho hy vọng
và một chiến lược ngôn hành định hướng dân chủ cho các xã hội Trung Âu đã được
đặt vào các năm 1970 trong ba tiểu luận then chốt được viết bởi các tác giả từ
khu vực này chỉ cách nhau vài năm: Hi vọng và Vô vọng (Hope and Hopelessness),
bời một triết gia Ba Lan sống lưu vong, Leszek Kolakowski; Chủ nghĩa Tiến hóa
Mới (The New Evolutionism), bởi một sử gia trẻ thất nghiệp từ Warsaw, Adam
Michnik; và Quyền lực của người Không có Quyền lực (The Power of the
Powerless), bởi nhà soạn kịch từ Prague mà các vở kịch của ông đã không được
phép diễn ở đó, Vaclav Havel.i
Chương trình của họ cho sự thay đổi đã từ bỏ con đường cách mạng mà đã được yêu
mến bởi các nhà tư tưởng tiến bộ trong hơn một thế kỷ. Con đường phổ quát đó –
sự lật đổ bằng bạo lực cấu trúc quyền lực – tuy tai hại, đã vẫn là một con
đường hấp dẫn ở nhiều nơi trên thế giới, vì nó đã hứa hẹn một sự thay đổi nhanh
chóng, căn bản, một sự tẩy rửa quá khứ, và một sự khởi đầu tươi mới. Điều đó đã
không đúng tại Đông & Trung Âu, trong đó các cuộc cách mạng đã mang lại
kinh nghiệm về các cuộc nội chiến, sự mất mạng sống, mất vốn văn hóa, và – đối
với nhiều người – không chỉ một sự mất quá khứ mà cũng là sự mất tương lai.
Những
sự hiểu thấu của ba “nhà hoạt động ngôn hành – performativist” của chúng ta tất
cả đã có cơ sở vững chắc trong một tiêu chuẩn nội về phạm vi thẩm quyền văn
hóa, được truyền thụ bởi các điều kiện, các vi lịch sử, và những kinh nghiệm
chính trị địa phương. Phơi ra những mâu thuẫn của hệ thống hiện tồn ở mức ngôn
ngữ – với các khế ước và lời hứa không được tôn trọng, những đàm luận công khai
và che đậy – các tác giả bất đồng chính kiến này đã chứng tỏ rằng những mâu
thuẫn đó có thể được khai thác mà không cần nhờ đến bạo lực trong cuộc đấu
tranh của họ với chế độ.
Kolakowski,
Michnik và Havel đã yêu cầu nhân dân đừng kỳ vọng vào những phép màu, những sự
sửa chữa nhanh, sự giúp đỡ từ bên ngoài, hay bất kỳ sự tự-sửa chữa tự động nào
của hệ thống độc đoán. Thay vào đó họ đã giải thích vì sao phải cần những thay
đổi nhỏ, từ tý một. Những thay đổi nhỏ này đã có thể được thúc đẩy – họ lập
luận – theo hai cách: bằng cách tiết lộ – cho công chúng càng đông càng tốt –
những mâu thuẫn, những sự mập mờ, tính vô lý và những sự ngớ ngẩn bên trong bản
thân hệ thống; và bằng cách phát huy các công cụ quyền con người được cung cấp
bởi các thỏa ước quốc tế mà đã được ký rồi vào giữa những năm bảy mươi tại
Helsinki bởi hầu hết các nhà nước Cộng sản. Khi sống với sự thật bị trấn áp –
như Havel đã có thể diễn đạt – tính ngôn hành (performativity) bị trấn áp. Việc
đọc cẩn thận ba nhà tư tưởng tiết lộ rằng các công cụ cho sự thay đổi được níu
chặt trong các hành động nói công khai, bất luận chúng hóa ra là một buổi biểu
diễn nhà hát, một thư ngỏ bởi một nhóm công dân như Hiến chương 77, một bài thơ
được lan truyền bên ngoài sự kiểm duyệt của nhà nước, hay những đòi hỏi được
viết trên giấy bồi và được trưng ra bởi các công nhân đình công tại cổng của
xưởng đóng tàu Gdansk.
Thế
ý tôi muốn nói gì với tính ngôn hành?
Khái
niệm thường được ghép với một tập các bài giảng của J. L. Austin về ngôn ngữ,
trong đó ông thảo luận các câu, không chỉ mô tả thực tế hay nói rõ các sự thực
mà còn có năng lực diễn cái chúng thực sự nói.*
Trong
trường hợp các xã hội sống dưới chế độ độc tài – các điều kiện cho tính ngôn
hành xảy ra đầu tiên khi (ngôn) từ định hướng hành động, đã không được sử dụng
từ lâu vượt quá lĩnh vực tư, khi nó lộ ra từ sự ẩn náu, chen qua những kẽ nứt
ra công khai. Và khi lần đầu tiên được nghe thấy, nó xúi giục sự nổi lên của
một lĩnh vực công không thể chối cãi được.
Đối
với Hannah Arendt điều kiện mấu chốt cho việc tạo thành một lĩnh vực công là
một “không gian của những sự xuất hiện,” tức là, bất kỳ khung cảnh công khai
nào nơi người dân có thể đến với nhau và tương tác thông qua lời nói. Chỗ như
vậy cho các cuộc tụ họp ban đầu của Đoàn kết đã được cung cấp bởi các nhà máy,
các đại học, các nhà thờ, thậm chí các doanh nghiệp nhà nước. Chính ở đó mà
cách nói vô danh, bâng quơ và “tổ chức” đã được thay thế bằng những tiếng nói
cụ thể, cá nhân và riêng biệt. Những tiếng nói như vậy, hay các hành động nói,
là ngược lại với bạo lực, “mà là để hành động mà không có lý lẽ và không có sự
tính đến các hậu quả.”ii
Tiếng
nói như vậy đã là tiếng nói của Nelson Mandela, mới được thả từ nhà tù, người
mà sau vụ ám sát người bạn trẻ hơn của ông, Chris Hani, nhà lãnh đạo
chống-apartheid nổi tiếng, đã nói với hàng ngàn người nổi khùng tại một sân vận
động bóng đá, ngăn chặn bạo lực sắp xảy ra và cứu vớt các cuộc đàm phán về tháo
dỡ chế độ apartheid. “Chúng ta là một dân tộc đang để tang. Nỗi đau và sự tức
giận của chúng ta là thực. Thế nhưng chúng ta không được phép để mình bị khiêu
khích bởi những người tìm cách không cho chúng ta chính quyền tự do mà Chris
Hani đã hy sinh tính mạng vì”.iii
Tiếng
nói như vậy đã là tiếng nói của Adam Michnik, nhà bất đồng chính kiến Ba Lan và
tù nhân chính trị thường xuyên, khi ông đã ngăn chặn một đám đông giận dữ khỏi
việc đốt một đồn cảnh sát trong đó một cặp cảnh sát khét tiếng vì sự tàn bạo
của họ đã bị khóa ở bên trong. Với chỉ tên của ông – không phải khuôn mặt của
ông – được nhiều người biết đến, ông đã nói, chiếm đoạt một từ có nghĩa xấu
quen thuộc của Đảng: “Tôi tên là Adam Michnik, và tôi là ‘một phần tử chống xã
hội chủ nghĩa’.” Đám đông đã trầm tĩnh lại hầu như ngay lập tức. Sự đối đầu với
một chế độ, mà đang tìm kiếm bất kỳ cớ nào để đặt phong trào Đoàn kết ra ngoài
vòng pháp luật, đã lần nữa được loại bỏ. Lời nói ngôn hành, chứa đầy ý thức chú
ý đến trách nhiệm – một loại hy vọng biết bao!
Sự
nổi lên của Đoàn Kết Ba Lan trong năm 1980, nghiệp đoàn lao động toàn quốc đó
mà sự tồn tại hợp pháp của nó đã được thương lượng giữa các công nhân xưởng
đóng tàu Gdansk và chính phủ Cộng sản ở Ba Lan, theo nhiều cách đã là một kiệt
tác của dân chủ ngôn hành. Cái “tôi” tự được khám phá, cất tiếng nói một cách
tự trị, các diễn viên-công dân của phong trào Đoàn kết, đã buộc nhà nước tiến
hành đối thoại với họ.
Khi
người thợ điện có ria mép người đã lãnh đạo cuộc đình công và rồi đã tiến hành
các cuộc đàm phán, Lech Walesa, đã nói với đám đông tụ họp tại cổng xưởng đóng
tàu sau khi ký các thỏa thuận, ông đã nói: “Chúng ta sẽ có nghiệp đoàn độc lập,
tự quản của chúng ta; “Đoàn kết”, tờ báo riêng của chúng ta được xuất bản ở đây
trong thời gian đình công, sẽ trở thành tờ báo của công đoàn chúng ta, và chúng
ta sẽ có khả năng viết bất cứ gì chúng ta muốn mà không có kiểm duyệt; chúng ta
có quyền để đình công …” Bài nói chuyện này, đã được quay phim và một bộ phim
một tháng sau đã được phân phát khắp cả nước, đã trở thành một trong những thời
điểm tượng trưng nhất về dân chủ ngôn hành của thế kỷ thứ 20.iv
Các
thỏa thuận Gdansk đã là một kết quả kỳ lạ cho một cuộc đình công của công nhân,
không giống bất kỳ kết quả trước nào của sự mặc cả tập thể. Những đòi hỏi đã ít
về chính phủ làm các thứ cho người dân, hơn là về xóa bỏ những cản trở sao cho
bản thân người dân có thể tự lo về các thứ, và chính phủ không được ngăn cản họ
làm việc đó. Không gian được mở mới nhắm đến việc giải quyết các vấn đề, xác
định các giải pháp, và thực hiện chúng, đã là lĩnh vực của hành động tích cực
bởi các công dân riêng được giải phóng nhân danh lợi ích công.
Có
lẽ trường hợp ngoạn mục nhất của tính ngôn hành đã là kịch tính lên đến tột độ
của các cuộc đàm phán Bàn Tròn mà đã xảy ra vào mùa xuân 1989 ở Warsaw. Các
cuộc đàm phán bàn tròn, mà đã khởi động sự biến đổi dân chủ của nhà nước một đảng
của Ba Lan, đã bắt đầu vào tháng Hai và kết thúc vào tháng Tư năm 1989, vào lúc
khi hệ thống cộng sản trong khu vực vẫn đã có vẻ – cho dù không còn vững chãi
nữa – là chắc chắn không thể đảo ngược được. Tuy ít ngoạn mục và bắt mắt hơn
các đám đông vui sướng quai búa tại bức tường Berlin nửa năm sau đó rất nhiều,
chính bản thân các cuộc đàm phán này đã thực sự tạo thành sự kết thúc của chế
độ chuyên quyền trong khu vực. Các cuộc đàm phán năm 1993 ở Kempton Park gần
Johannesburg, mà đã mang lại sự kết thúc của chế độ apartheid ở Nam Phi, tuy
kéo dài và kịch tính, cũng đã không tạo ra những hình ảnh gây choáng váng: chắc
chắn đã không thể so sánh được chút nào với những hình ảnh một người, một phiếu
đó được chụp từ trên cao về các hàng người quanh co xếp hàng chờ bỏ phiếu lần
đầu tiên trong đời họ. Công việc thực của việc quai búa liên hồi để ra những
thỏa thuận như vậy đơn giản là không thân thiện-với truyền thông đại chúng.
Ấy
thế mà, dân chủ ngôn hành, rất giống carnival (ngày hội) như được nghiên cứu bởi
Mikhail Bakhtin, là một hiện tượng nhất thời. Carnival là thời gian khi cái phi
chính thức trở thành chính thức, khi các nhà lãnh đạo không ngờ được phát hiện
ra và được chỉ định. Nó là một khoảng thời gian mà nuôi dưỡng năng lực hành
động, và trao cho người dân các năng lực ngôn hành. Carnival tiết lộ sức mạnh
tiềm tàng trong khi sức mạnh đang thịnh hành bị đình chỉ, nhưng carnival không
kéo dài. Trong những trường hợp huy hoàng nhất nó tạo thành một nơi của kinh
nghiệm cả vui lẫn mang tính lật đổ trong quảng trường công cộng mang tính ngày
hội nơi sự sợ hãi và sự đau khổ, như Bakhtin đã có thể nói, được giảm đi. Lời
nói và hành động không phải là các thuộc tính duy nhất của quyền tự do, như
Arendt nói, mà là một nguồn chủ yếu của phẩm giá cá nhân và hy vọng xã hội, vì
chúng góp phần vào ý thức của một chính thể mà trong đó nhân dân và những tiếng
nói khác nhau của họ có ý nghĩa trong cả việc tạo ra và duy trì nó.
Trong
khi dân chủ ngôn hành là khó để hoạt động hóa (operationalize), ta có thể quan
sát các thí dụ về nó trong các tình huống và quá trình cụ thể liên quan đến các
hình thức và các loại lời nói, được hiểu một cách rộng, mà tạo thành hành động
công và gây ra sự thay đổi. Tôi phải nhấn mạnh rằng tôi thấy nó như một sự thực
hành nảy sinh từ một ý thức mạnh mẽ về việc thực sự được sinh ra tự do và bình
đẳng về phẩm giá và các quyền và về hành động hướng tới nhau theo tinh thần anh
em – ý thức đó mà được thâu tóm trong điều đầu tiên của Tuyên ngôn Phổ quát về
các Quyền Con người. Đồng thời, nó là một chiều của sự thực hành dân chủ mà –
tuy được thực hiện qua cách cư xử của những công dân biết điều – không trái với
những xúc cảm, vì nó có thể đầy tinh thần ấm cúng một cách đáng ngạc nhiên, mà
chắc chắn đã là trong trường hợp của những người Ba Lan trong năm 1980.
Với
con mắt của nó để ý đến tính công cộng, đối thoại, và thỏa hiệp, dân chủ ngôn
hành không phải là một lĩnh vực mà trong đó các nhóm thiển cận khai thác sự sợ
hãi có thể cảm thấy thoải mái – hay nói chung những người chủ trương những dàn
xếp hẹp hòi. Bất chấp kịch tính vốn có của nó, dân chủ ngôn hành có thể thực sự
là một chiều vui sướng và khẳng định của người dính đến chính trị, thế nhưng là
một chiều mà tự giới hạn những cảm xúc mạnh mẽ bằng cách nhất thiết định khung
chúng trong những hình thức, loại, và quy ước đã được thỏa thuận.
Mặc
dù không dễ được hoạt động hóa, cũng chẳng dễ thể chế hóa, nó để lại một di sản
quan trọng: hệt như carnival, nó xảy ra, và khi nó xảy ra, nó giải phóng một sự
sáng tạo công dân vững chãi, chuẩn bị các điều kiện cho những cái lưng cong để
thẳng lên – và đây là một thành tựu có giá trị lâu bền. Tôi muốn tranh luận
rằng chiều đặc biệt này của đời sống chính trị có thể xảy ra trong cả khung
cảnh phi-dân chủ và khung cảnh dân chủ. Trong trường hợp trước, nó thường tạo
thành các giai đoạn ban đầu của một dự án dân chủ; trong trường hợp sau, nó
cung cấp những chiến lược để giữ cho dân chủ đầy khí lực, và giúp nó sống sót
một mùa “chay” dân chủ.
Di
sản của dân chủ ngôn hành bao gồm nhiều bài học, nhưng tôi muốn tập trung vào
hai trong số chúng, vì tôi tin chúng nên được xem xét nghiêm túc bởi các nhà
hoạch định chính sách thử giải quyết một thế giới ngày càng hung dữ mà gây nguy
hiểm cho đời sống của các công dân và các cộng đồng. Các bài học tôi nghĩ đến
là một bài học về xã hội dân sự và một bài học về cách mạng.
■ Một Bài học về Xã hội Dân sự
Mặc
dù không phải chỉ là một tên khác cho dân chủ trực tiếp, dân chủ ngôn hành quả
thực có làm giảm khoảng cách giữa những đại biểu được bầu và nhân dân, và đưa
bản thân người dân đến gần hơn với nhau, phát triển mạnh vì nó dựa trên sự thực
hành phong phú của các cuộc gặp gỡ mặt đối mặt và những thảo luận không ngừng.
Những việc này khởi động một quá trình học, hình thành các ý kiến, lập luận,
đánh giá cao giá trị của sự thỏa hiệp, và điều này quả thực mang tính biến đổi
đối với những người tham gia. Sự nổi lên – cho dù chậm chạp – của không gian
công cộng – hay lúc ban đầu thậm chí một không gian nửa công cộng, là nền tảng
cho xã hội dân sự – những chỗ nơi các công dân riêng hoạt động nhân danh lợi
ích công.
Cái
tôi gọi là dân chủ ngôn hành, khi đó, thâu tóm chỉ một chiều của dân chủ, và
bản thân nó không “đủ tư cách” để thay thế cho dân chủ đại diện hoạt động tốt
với các cơ chế và thủ tục được xác lập. Thế nhưng nó làm nổi bật kết cấu phong
phú hơn của dân chủ tự do, và làm cho dễ hơn để thấy các triển vọng cho hành
động dân chủ trong những thời khủng hoảng: làm sống lại tinh thần của chính thể
dân chủ khi hệ thống đã trở nên bị yếu đi bởi sự tự mãn, chẳng hạn, hay chuẩn
bị cơ sở cho một trật tự dân chủ để nổi lên ở nơi đã chẳng có gì trước đó.
Và
khía cạnh vi-chính trị này của chính trị hiện đại, đặc biệt cốt yếu cho sự ra
đời của nền dân chủ nhưng cũng quan trọng cho một nền dân chủ đã thiết lập để
phát triển mạnh, phải không được bỏ qua bởi các nhà tư tưởng chính trị hay các
nhà hoạch định chính sách, dù về mặt đối nội hay trong các chương trình nghị sự
nước ngoài của họ.
Và
còn quan trọng hơn – đặc biệt khi ta xem xét thế giới sau 11 tháng 9: sự chuyển
đổi sang một nền dân chủ có ý nghĩa và lâu bền, chẳng bao giờ là một dự án dễ,
có cơ hội tốt nhất để thành công nếu nó được khởi xướng và được sở hữu bởi
người dân địa phương, và tính đến tiếng nói của họ, thấm đẫm lịch sử, văn hóa,
và kinh tế tương ứng của họ. Tôi muốn nghĩ rằng đây không chỉ là một sự lựa
chọn thay thế thực cho các xe tank và đạn, mà cũng là một loại lực lượng mà có
thể giúp lấy lại phẩm giá đã mất của người dân và bản sắc của họ như các công
dân.
■ Một Bài học về Cách mạng
Khi
thập niên đầu tiên của thế kỷ mới sắp kết thúc, chính trị của hy vọng và bất kỳ
sự phát triển nào mà làm tăng hy vọng chính trị là mối quan tâm to lớn của tất
cả chúng ta, vì chúng ta tìm kiếm những sự lựa chọn thay thế cho các giải pháp
bạo lực và nỗi thất vọng. Các cuộc cách mạng có còn, như nhiều nhà tư tưởng quá
khứ và hiện tại gợi ý, vẫn là “những sự ủy nhiệm” cho hy vọng? Nếu thế – loại
cách mạng nào?
Chính
trong năm 1989, một loại hoàn toàn mới của cách mạng đã nổi lên, bày tỏ hy vọng
mà không có đổ máu. Không đổ máu như các cuộc cách mạng ở Trung và Đông Âu mà
đã dẫn đến sự tháo dỡ các chế độ độc đoán, những cuộc cách mạng đó đã là các
cuộc cách mạng “không căn bản,” chí ít từ lập trường của các nhà cách mạng và
các nhà tư tưởng thế kỷ thứ 19, mà đối với họ Cách mạng Pháp năm 1789 đã là một
tấm gương. Thế nhưng 200 năm sau đã chính loại cách mạng đó dẫn đến sự thay đổi
hệ thống căn bản mà đã thu hút được trí tưởng tượng của người dân. “Nhung” hay
mặt khác không căn bản, nó đã trở thành một nơi của hy vọng rõ ràng, một chỗ mà
trong đó các từ có sức mạnh, mà trong đó ngôn ngữ có sức mạnh ngôn hành, nơi
lời nói là hành động, và nơi các từ hành động. Các cuộc Đàm phán Bàn Tròn mà đã
tạo thuận lợi cho sự biến đổi dân chủ của nhà nước độc đảng của Ba Lan đã bắt
đầu vào tháng Hai và kết thúc vào tháng Tư năm 1989, vào lúc khi hệ thống cộng
sản trong khu vực vẫn đã có vẻ – cho dù không còn cường tráng nữa – chắc chắn
không thể thay đổi được. Mặc dù ít ngoạn mục hơn các đám đông vui sướng quai
búa tại bức Tường Berlin một nửa năm sau đó rất nhiều, chính các cuộc đàm phán
đó đã tạo thuận lợi cho sự sụp đổ của bức Tường đó.
Các
cuộc cách mạng của năm 1989 đã thay thế bạo lực bằng các hành động của lời nói,
hay ngôn hành, qua đó thân phận con người đã lấy lại được phẩm giá đầy đủ của nó,
và đã nhận ra năng lực hành động của nó thông qua các công cụ khác với vũ khí.
Cho nên ở đây là một sáng chế chính trị, và không phải một phép nghịch hợp: Để
mang lại một sự thay đổi cơ bản, hãy thương lượng một cuộc cách mạng!
Và
bây giờ tôi tin rằng sự tái chiếm ngôn ngữ bởi người dân, việc họ tự do sử dụng
lời nói mới không bắt buộc, đã là chính tâm điểm của cái đã xảy ra ở Ba Lan
trong 1980-81, và rồi lại lần nữa trong năm 1989. Nhưng trong sự vội vàng bởi
những người quan sát bên ngoài để theo dõi lấy tin – các cuộc đình công phản
đối, các cuộc tuần hành, các cuộc đàm phán, những sự di chuyển quân Soviet –
thì chiều lời nói này của sự trải nghiệm đã đơn giản là quá tinh tế, quá cá
nhân, quá vô hình, để được thâu tóm bởi báo chí, còn ít hơn nhiều bởi TV. Các
phương tiện truyền thông bằng tiếng nước ngoài đặc biệt đã không là một phương
tiện tốt cho việc chuyển tải hay thậm chí thấu hiểu các quá trình mà đã neo sâu
đến vậy vào ngôn ngữ, lời nói, và các từ. Khi được dịch, tác động của tính tươi
mới địa phương bị mất đi, và những sự khác biệt tinh tế nhưng quan trọng giữa
cách sử dụng cũ và mới của ngôn ngữ đã vượt quá sự hiểu biết của các phóng viên
và các nhà phân tích chính trị.
Đầu
tiên và trước hết, giả thiết bắt buộc ở đây là tính ưu việt của các giải pháp
bất bạo động dựa trên tiền đề rằng một nền dân chủ phát triển mạnh ngày nay
phải là một dự án được nghĩ ra, được phát triển, và được thực thi một cách bản
địa mà trong đó các từ, chứ không phải vũ khí, là quan trọng. Cụ thể hơn, mục
tiêu là để xây dựng các địa điểm cho lĩnh vực công còn trứng nước và để từ từ
nuôi dưỡng, duy trì, và mở rộng chúng. Đây là nơi mà vị của dân chủ được phát
hiện ra, đây là nơi mà người dân khám phá ra các năng lực ngôn hành của riêng
họ.
* J. L. Austin dùng performative trong các
cụm từ câu performative, phát ngôn performative vân vân và
performative được chuyển sang tiếng Việt là ngôn hành, thí dụ câu ngôn hành,
phát ngôn ngôn hành. Ngôn hành (Vacika-samskara) cũng là một khái niệm
cơ bản trong Phật giáo liên quan đến khẩu nghiệp. (Người dịch)
i Hope and Hopelessness của Leszek
Kolakowski, được viết năm 1971 (Survey, 17, no.3 (summer) 1971), The New
Evolutionism của Adam Michnik, được viết năm 1976 (bản tiếng Anh Letters
From Prison, University of California Press, 1985), và The Power of the
Powerless của Vaclav Havel, trong năm 1978 (bản tiếng Anh Living in
Truth, Faber& Faber, London 1987).
ii Hannah Arendt, Reflections on Violence,
Special Supplement: The New York Review of Books, Vol. 12, no 14, Feb, 27,
1969, p. 65
iii Nelson Mandela, Address to the Nation on
the Assassination of Martin Thembisile (Chris) Hani, April 12 , 1993,
www.anc.org.za/ancdocs/history/mandela/1993/
iv Bộ phim, Công nhân 80, đã được quay
trong thời gian đình công bởi nhóm nhà làm phim thời sự Ba Lan, và đầu mùa thu
đã được chiếu trong các rạp chiếu bóng.
NGUỒN
: dịch giả gửi cho Diễn Đàn
No comments:
Post a Comment