02:53:pm 24/09/13
Ngay sau khi rời Việt Nam vào năm 1970, James
Copeland nhận được một lá thư từ người bạn gái Việt Nam. Cô thông báo đã có
thai và ông là cha của đứa trẻ.
Nhận được tin, Copeland lại đăng ký tuyển quân, hy
vọng sẽ được điều động trở lại Việt Nam. Tuy nhiên, quân đội Mỹ đang rút dần
khỏi Việt Nam nên ông không có cách nào quay lại. Khi Việt Nam hoàn toàn thống
nhất vào năm 1975, Copland mất liên lạc với bạn gái.
Một thời gian sau, ông được nhận vào làm việc ở một
nhà máy nhựa tại phía bắc của bang Mississippi và lập gia đình. Tuy nhiên,
trong đầu ông vẫn luôn canh cánh một câu hỏi: liệu người bạn gái năm xưa có
thực sự đã mang trong mình giọt máu của ông?
“Tôi có thể quên nhiều điều mà chúng tôi đã làm ở
Việt Nam. Nhưng riêng điều đó, tôi không thể nào quên được”, người đàn ông 67 tuổi nói, nhắc đến nỗi dày vò về bạn gái cũ và đứa con.
Năm 2011, Copeland quyết định đi tìm câu trả lời cho
điều mà nhiều cựu binh Mỹ khác hoặc chối bỏ, hoặc tìm cách cố quên đi sự thật,
đó là, họ đã để lại những đứa con của mình trên mảnh đất Việt Nam.
Di
sản chiến tranh
Câu chuyện của họ là một di sản bị lãng quên khi
chiến tranh đã lùi xa hàng chục năm. Tuy nhiên, đối với một số cựu binh, nhu
cầu tìm lại con ruột trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Những binh sĩ Mỹ ngày
nào giờ đã ngấp nghé tuổi 70. Nhiều người trong số đó đã nghỉ hưu hoặc tàn tật
và khao khát hàn gắn vết sẹo của chiến tranh.
Với những đứa con mang hai dòng máu Việt Nam và Mỹ,
tìm lại được cội nguồn cũng là một nguyện vọng tha thiết.
“Tôi cần phải biết mình từ đâu đến”, Trinh Tran, 46 tuổi, một nhân viên bất động sản ở Houston, đang tìm cha
trong vô vọng, nói. “Tôi luôn nghĩ rằng nếu không có ông ấy thì tôi cũng
không tồn tại”.
Ước tính hàng chục nghìn quân nhân Mỹ đã có con với
phụ nữ Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Một số đứa trẻ là kết quả của
những mối tình dài, một số khác là kết quả những cuộc tình qua đêm chóng vánh.
Chỉ có rất ít trong số những người cha Mỹ này từng thấy mặt con họ, và số người
đưa con theo về Mỹ càng ít hơn.
Sau chiến tranh, những đứa trẻ được gọi là con lai
Mỹ phải chịu đựng sự kỳ thị và cuộc sống khó khăn ở Việt Nam. Trước những báo
cáo về điều kiện sống thiếu thốn của thế hệ này, Quốc hội Mỹ đã thông qua điều
luật cho những đứa con lai một tình trạng di trú đặc biệt vào năm 1987. Kể từ
đó, hơn 21.000 người, kèm theo 55.000 người thân, đã di cư sang Mỹ theo chương
trình này và thêm hàng nghìn người được hưởng các chính sách di trú khác.
Nhiều người sang Mỹ với hy vọng được đoàn tụ với
cha, nhưng họ đã không được chính phủ Mỹ hỗ trợ trong vấn đề này. Không tới 5%
trong số họ tìm lại được cha đẻ.
Những
cuộc tìm kiếm
Những đứa con lai Mỹ vẫn tiếp tục tìm cha, dù chỉ có
trong tay những cái tên bị dịch sai, những ký ức nửa hư nửa thực và những bức
ảnh đã phai nhòe theo năm tháng. Ở chiều ngược lại, một số cựu binh Mỹ cũng
tiếp tục nỗ lực tìm con, trong tâm trạng bị chi phối bởi nỗi đau hoặc cảm giác
tội lỗi.
“Giống như việc một người mẹ cho đứa con ruột đi làm
con nuôi của người khác. Bà mẹ sẽ không bao giờ ngừng suy nghĩ về điều đó”, George Pettitt, ở trung tâm Wales, New York nói.
Ông Pettitt, 63 tuổi, nhập ngũ sau khi bỏ học cấp ba
và đến Việt Nam khi mới 19 tuổi. Năm đó, ông có cảm tình với một thiếu nữ người
Việt làm ở tiệm giặt là cho các binh sĩ. Chẳng bao lâu sau thì cô gái có bầu.
“Tôi chỉ định vui chơi với cô ấy“, ông nói. “Tôi không bao giờ có ý định làm cho cô ấy có thai”.
Khi quay về New York, ông mất liên lạc với bạn gái,
sau đó làm nghề lái xe tải và lập gia đình. Nhưng khi nghỉ hưu vì lý do sức khỏe
năm 2000, những ký ức về đứa con bị bỏ lại, mà ông tin là một đứa con trai, cứ
ám ảnh tâm can Pettitt. Ông đã trả tiền để thuê một người đàn ông tìm giúp
nhưng vô ích.
Năm nay, một người phụ nữ ở bang Virginia gọi điện
cho ông báo rằng, cô nghĩ chồng cô có thể là người con trai mà ông tìm kiếm.
Thế nhưng, kết quả xét nghiệm DNA cho thấy điều ngược lại.
May mắn hơn Pettitt, có những cặp cha con Mỹ-Việt đã
tìm thấy nhau.
Những
cuộc đoàn tụ
Cường Lưu sinh ra ở Việt Nam, là con của một binh
lính Mỹ quen mẹ anh khi bà làm chân quét dọn ở khu nhà của ông. Người lính này
rời Việt Nam trước khi Lưu chào đời và mẹ anh cũng mất liên lạc với ông. Ngay
sau đó, bà kết hôn với một người Mỹ khác cũng làm việc cho quân đội. Ông đã
chuyển cả gia đình đến Virgin Islands, lãnh thổ hải ngoại của Anh tại Caribean,
khi Lưu còn rất bé.
Cường Lưu bên con gái và người cha Mỹ đã tìm lại được Jack Magee. Ảnh: NY
Times
Lưu thừa hưởng nhiều nét của bố và trong cộng đồng
người da đen ở St. Thomas, nơi anh lớn lên, anh bị chế giễu là “đồ da trắng”.
Mẹ Lưu cũng dần xa lánh con trai, có lẽ vì xấu hổ vì quá khứ mà anh gợi nhắc
đến.
Năm 9 tuổi, Lưu bị đưa vào nhà dành cho trẻ phạm
tội. Năm 17 tuổi, anh sống lang bạt trên đường, bán cần sa và dùng chất kích
thích. Năm 20 tuổi, anh vào tù vì chĩa súng cướp một người đàn ông. Khi được ra
tù, người chị gái cùng mẹ khác cha đưa anh đến Baltimore, bang Maryland, nơi
Lưu lại sa vào con đường buôn ma túy.
Tuy nhiên, sau khi có con gái, anh bắt đầu thay đổi.
“Tôi lo mình sẽ lại đi tù và không bao giờ được nhìn thấy con bé nữa”, anh nói
về con gái Cara, hiện 4 tuổi.
Bị thôi thúc bởi những câu hỏi về thân phận của
mình, Lưu quyết định đi tìm cha đẻ để tìm lại cuộc sống. “Tôi chỉ muốn nhìn
thấy ông ấy bằng chính đôi mắt của mình“, Lưu, 41 tuổi nói.
Anh dành hàng đêm bên máy tính với những cuộc tìm
kiếm bất thành cho đến khi nhận ra mình đã đánh vần sai tên của cha. Ông là
Jack Magee, chứ không phải McGee.
Anh tìm thấy một người tên là Jack Magee trên một
trang web của cựu binh, rồi thông qua Facebook, tìm hiểu về ông qua một người
từng phục vụ cùng đơn vị. “Anh muốn gì từ Jack Magee?“, người đàn ông
hỏi. “Tôi chỉ muốn một người cha“, Lưu đáp. “Bố của anh muốn nói
chuyện với anh“, người đàn ông trả lời sau đó không lâu.
Lưu đi xét nghiệm DNA và kết quả cho thấy anh chính
là con trai của ông Jack Magee trên. Tháng 11, ông Magee, một giáo viên đã nghỉ
hưu ở Nam California, đã đến thăm con trai nhân ngày sinh nhật anh. Mối quan hệ
của hai cha con bắt đầu, với đầy tinh thần trách nhiệm nhưng cũng còn nhiều
ngượng nghịu và lo lắng.
Magee gọi điện cho con trai hàng tuần để đảm bảo
rằng anh vẫn đang làm công việc quét dọn các phòng bệnh viện ở Baltimore. Ông
cũng gửi một chiếc Toyota Corolla cũ từ California đến cho Lưu vì biết anh đang
phải đi lại bằng xe buýt.
Tìm thấy cha mình, Lưu cảm giác mình mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, anh vẫn không giải quyết được vấn đề của bản thân. Một kẻ từng ngồi
tù có thể làm gì để cuộc sống khá lên? Học đại học? Kinh doanh? Buôn ma túy vẫn
là một cám dỗ khó cưỡng.
“Tôi chỉ ước giá như mình đã gặp cha trước đây. Ông
ấy đã có thể dạy bảo tôi nhiều điều”, Lưu nói.
Sự
thật không thể chối bỏ
Brian Hjort, một người Đan Mạch đã giúp Lưu và những
người Việt khác tìm cha, cho rằng những đứa con lai Mỹ thường kỳ vọng quá mức
về việc đoàn tụ với cha, với hy vọng họ sẽ chữa lành những vết thương tình cảm.
Tuy nhiên, các cựu binh họ gặp lại thường ốm yếu hoặc khó khăn về kinh tế. Đôi
khi có những mối quan hệ khiến họ không được toại nguyện.
“Tôi đã nói với họ rằng tôi không thể đảm bảo được
chuyện tình cảm. Tôi chỉ có thể cố gắng tìm cha cho họ mà thôi”, ông Hjort nói.
Hjort, 42 tuổi, thuộc một nhóm nhỏ gồm các chuyên
gia giúp những người con lai tìm cha. Là một họa sĩ công nghiệp ở thủ đô
Copenhagen của Đan Mạch, ông quen những người con lai Mỹ khi đi du lịch xuyên
Việt Nam và Philippines cách đây 20 năm. Đó là những nơi khiến ông bị lay động
bởi cuộc sống đói nghèo của người như thế.
Một người đã nhờ ông tìm cha cho một người bạn và
ông bất ngờ thành công dù không biết gì về các hồ sơ quân đội. Tin tức về ông
Hjort nhanh chóng lan rộng trong cộng đồng những người con lai khiến nhiều người
tìm cách liên lạc với ông để xin giúp đỡ. Cảm động trước nỗi đau của của họ,
Hjort nhận tìm cha cho thêm vài người nữa và chỉ lấy mỗi tiền phí đi sang Việt
Nam. Ông lập ra trang web fatherfounded.org và thành công trong nhiều trường
hợp khác.
Ông Copeland và con gái Tiffany Nguyễn đoàn tụ. Ảnh: NY Times
Chỉ làm việc vào thời gian rảnh, ông Hjort ước tính
mình đã tìm được hàng chục người cha. Một số người đã qua đời, nhiều người khác
từ chối hợp tác với ông, trong khi một vài người dọa kiện ông. Tuy nhiên, có
khoảng 20 người đã nhận lại con. Trong những năm gần đây, các cựu binh cũng bắt
đầu chủ động tìm đến ông Hjort xin giúp đỡ. James Copeland là một trong số đó.
Năm 2011, Copeland, khi đó đã nghỉ hưu, đọc được câu
chuyện về cuộc sống cơ cực của những người mang thân phận con lai ở Việt Nam.
Ông quyết định đi tìm con mình.
Ông tìm đến Hjort và chi tiền cho ông về Việt Nam.
Với một vài cái tên và một bản đồ sơ lược, ông Hjort đã tìm thấy ngôi làng nơi
ông Copeland từng đóng quân và tìm được anh trai của một phụ nữ lai đang sống ở
Mỹ, người mà ông tin là con gái của Copeland.
Hjort đã gửi một bức ảnh của cô này và mẹ cô cho
Copeland. Trái tim ông đột ngột loạn nhịp khi nhận ra người mẹ đó chính là bạn
gái cũ của mình. Tay ông run rẩy khi nhấc điện thoại bấm số của con gái và hỏi:
“Có phải Tiffany Nguyễn đấy không?”.
Những ngày sau đó, ông đến thăm cô, mẹ cô và ba anh
trai ở bang Pennsylvania, nơi cô đang mở một tiệm làm móng tay. Nguyễn và ba
con đã về Mississippi để nghỉ lễ Tạ ơn cùng ông năm 2011. Có lần, họ trò chuyện
đến đêm và Nguyễn kể lại chuyện mẹ đã bảo vệ cô như thế nào ở Việt Nam, về cuộc
đấu tranh để thích nghi với nước Mỹ và chuyện cô tìm hiểu những người đàn ông
lớn tuổi, tự hỏi có ai trong số họ là cha mình.
“Bây giờ tôi đã có thể ngủ ngon hơn nhiều rồi”, ông
Copeland nói. Tuy nhiên, sự đoàn tụ này lại cũng mang đến cho ông một nỗi đau
không ngờ khác.
Vợ ông vô cùng tức giận khi phát hiện chồng mình có
một cô con gái người Việt và yêu cầu ông ngừng đến thăm cô. Tuy nhiên, Copeland
đã từ chối yêu cầu này bởi Nguyễn là con ruột duy nhất của ông. Sau 37 năm
chung sống, ông và vợ ly thân. Họ đang tính chuyện ly hôn.
Hiện giờ, Copeland giúp Hjort liên lạc với những cựu
binh mà họ tin là cha của các con lai Mỹ-Việt. Ông kiên nhẫn kể câu chuyện của
mình với họ và động viên họ đối mặt với sự thật rằng, họ cũng có con người Việt
giống như ông.
Nếu họ né tránh cuộc gọi của ông, Copeland sẽ tiếp
tục nhắn tin, với con cái, vợ chồng họ. “Họ cần phải biết”, ông nói. “Một số
người chỉ muốn quên đi và sống tiếp. Tôi không hiểu sao họ có thể làm thế”.
Ngọc
Anh (VnExpress, N.Y Times)
No comments:
Post a Comment