Phan Văn
Song
23/09/2013
Theo đường dẫn trong phần điểm tin của trang
Basam.info ngày 19/9/2013 tôi đọc được bài ‘Vẽ
vậy được hay sao?’ của tác giả Trương Nhân Tuấn đề cập tới bài ‘bản
đồ mốc giới Việt Nam – Trung Quốc theo tọa độ từ nghị định thư phân giới cắm mốc’
của anh Dương Danh Huy và tôi là đồng tác giả. Sau đó ông còn viết thêm một bài
gay gắt hơn: “Thư
mở gởi các trang web Bô xít và Dân Luận”. Dù không phải là tác giả chính
(tôi chỉ phụ trách phần xử lí dữ liệu), và dù hiểu biết còn hạn hẹp tôi buộc
lòng phải viết đôi điều vạch ra một số chỗ chưa đúng trong lập luận của ông
Tuấn nhằm giải toả những ngộ nhận có thể có ở bạn đọc có đọc hai bài viết này.
Lưu ý rằng rằng đây chỉ làm quan điểm của riêng tôi và bạn đọc nào không cần
tìm hiểu chi tiết có thể bỏ qua những phần chữ nhỏ bên dưới.
1.
Nhận định chung nhất của ông Tuấn là “[c]ác bản
đồ… đã được thực hiện không theo đúng bất kỳ một qui cách quốc tế “cartographie
– vẽ bản đồ” nào. Cách vẽ của các tác giả là cách vẽ của con người thời cổ đại,
lúc nhân loại chưa biết trái đất có hình cầu.” Để chứng minh cho nhận định
này, tác giả đã lập luận như sau:
“Thật vậy, các tác giả đã vẽ các bản đồ biên giới
Việt-Trung theo tiêu chuẩn trái đất hình vuông. Điều này được kiểm chứng ở các
đường thẳng đứng vẽ song song. Tức các ô ca-rô trên bản đồ đều là hình vuông và
bằng nhau. Trong khi các bản đồ, từ thế kỷ thứ 19 trở lại đây, người ta đã biết
tới yếu tố “hình cầu – géodésie” của trái đất. Từ hệ quả đó, ta thấy trên bất
kỳ một tấm bản đồ nào, các đường kinh tuyến, tức các đường theo chiều bắc-nam,
không phải là đường thẳng mà là đường cong, hội tụ lại với nhau ở hai điểm: cực
bắc và cực nam (cực địa lý – khác với cực từ). Các đường ngang – tức vĩ tuyến –
cũng là các đường cong, song song với nhau, chiều dài của các đường này không
bằng nhau. Những «tứ giác” trên bản đồ không bằng nhau, nếu khác vĩ tuyến.”
Đúng như ông Tuấn nói, loài người đã biết trái đất
có hình cầu từ lâu. Thật ra trái đất có dạng gần với hình ellipsoid hơn (tôi
không muốn dùng từ hình ‘bầu dục’ hay hình ‘trái xoan’ ở đây vì đôi khi bị/được
hiểu là hình phẳng) nhưng để đơn giản cứ tạm coi là trái đất có dạng hình
cầu. Trong khi đó bản đồ là hình phẳng nên để vẽ được người ta phải dùng
một phép chiếu nào đó để chuyển mặt cầu thành một [phần] mặt phẳng. Một trong
các phép chiếu thông dụng là phép chiếu Mercator (do Gerardus Mercator
đưa ra từ năm 1569) đến nay vẫn còn được nhiều công ti lớn trên toàn cầu sử
dụng[1] và chúng tôi cũng sử dụng khi vẽ các bản đồ đang bàn. Phép chiếu
này là một biến thái của phép chiếu ‘cầu lên trụ’. Để có thể xác định
tính đúng đắn trong lập luận trên của ông Tuấn xin được phép mô tả sơ lược các
phép chiếu này. Cách thực hiện thông thường dùng của phép chiếu ‘cầu lên
trụ’ như sau (xem hình minh hoạ bên dưới):
Dựng một mặt trụ ngoại tiếp mặt cầu của trái đất
theo đường xích đạo và chọn tâm O của trái đất làm tâm chiếu. Với một điểm bất
kì P trên mặt trái đất, kéo dài tia OP về phía P sẽ gặp mặt trụ tại điểm P’ (P’
gọi là hình chiếu của P qua phép chiếu này). Làm tương tự như thế cho các điểm
khác trên mặt cầu, ta chuyển được gần như toàn bộ mặt cầu lên mặt trụ (trừ hai
điểm Bắc cực và Nam cực vì tại đó tia OP nằm trên trục của mặt trụ nên không
gặp mặt trụ được). Sau đó khai triển mặt trụ theo một đường sinh (cắt mặt trụ
theo một đường thằng song song với trục của nó rổi làm phẳng xuống) sẽ được bản
đổ tỉ lệ 1:1 của trái đất. Nếu muốn có bản đồ kích thước thuận tiên chỉ thu nhỏ
bản đồ này theo tỉ số thích hợp.
Với kiến thức toán học trung học phổ thông, có thể
dễ dàng thấy rằng với phép chiếu này các kinh tuyến chuyển thành các đường
thẳng đứng song song nhau và các vĩ tuyến thành các đường thẳng nằm ngang song
song nhau. Tuy nhiên, lưu ý rằng nếu ta có các vĩ tuyến cách đều nhau trên trái
đất thì các vĩ tuyến tương ứng trên bản đồ lại không cách đều nhau, càng ra xa
xích đạo khoảng cách càng to. Gọi (Lon, Lat) là tọa độ điểm P và
(x, y) là toạ độ điểm P’ (khi chọn hình chiếu của kinh tuyến gốc làm trục
y’y và hình chiếu của xích đạo làm trục x’x), ta có các công thức chuyển toạ độ
sau:
x = Lon (1), y = tg(Lat) (2) (lấy
bán kính R của trái đất làm đơn vị)
Phép chiếu này có điểm nhược là khoảng cách của các
điểm càng gần hai cực thì dãn ra rất lớn nên đối với các vị trí gần hai cực (vĩ
tuyến 66° [80°] trở lên) người ta dùng phép chiếu khác (chẳng hạn như phép
chiếu Gauss-Kruger sẽ đề cập sau). Ngoài ra, cho đến gần đây công dụng chính
của bản đồ là dùng để giúp cho việc đi lại. Do đó, điều quan trọng là hướng
giữa hai điểm trên bản đồ phải trùng với hướng của hai điểm tương ứng trên trái
đất thì người ta mới có thể sử dụng la bàn để đi lại được. Tuy nhiên, phép
chiếu vừa trình bày không đảm bảo điều này. Vì thế, Mercator đã mày mò để điều
chỉnh công thức (2) hầu như cho từng vĩ độ sao cho bản đồ thoả mãn tính chất
đó. Sau này với công cụ tính vi tích phân, logarithm người ta đã tìm được công thức
chuyển đổi cho y là:
y = ln ( tan ( Lat/2 + 45°))
(3)
Để thuận tiện cho việc trình bày tiếp, gọi điểm Pm
là điểm trên At với AP = y = ln ( tan ( Lat/2 + 45°)). Với hiệu chỉnh
này, nói chung điểm Pm không trùng với P’ (trừ trường hợp P trên
xích đạo) nên thật ra phép chuyển đổi này không phải là ‘phép chiếu’ theo đúng
nghĩa, tuy nhiên theo thói quen người ta vẫn đó gọi là phép chiếu Mercator.
Dễ thấy với công thức (3) [và (1)] thì hình chiếu
các vĩ tuyến cũng sẽ trở thành những đường thẳng nằm ngang song song và tính
chất cách đều của các vĩ tuyến vẫn không giữ được.
Hiện nay với việc dùng GPS, nên việc bảo toàn hướng
của hai điểm qua phép chuyển đổi không là điều quan trọng nên thậm chí người ta
có thể hiệu chỉnh công thức chuyền đổi (3) đơn giản hơn thành:
y = Lat (4)
Tức là, trong hình vẽ trên thay vì P’ ta chọn P” làm
hình chiếu, với P” là điểm trên At sao cho AP” = độ dài cung AP.
Phép chiếu này tuy không giữ được hướng giữa hai
điểm nhưng bảo đảm chuyển các vĩ tuyến cách đều nhau thành các đường thẳng nằm
ngang song song cách đều nhau. Hơn nữa, với các công thức chuyển toạ độ đều là
hàm tuyến tính (x = Lon, y = Lat), người ta cũng có thể xử lí việc tính độ dài/
diện tích thực tế dựa trên các số đo trên bản đồ dễ dàng, nhất là trong điều kiện
máy tính điện tử được dùng phổ biến hiện nay.
Cũng với kiến thức toán trung học phổ thông dễ dàng
chứng minh được là các hàm số liên quan trong các công thức (1), (2), (3) và
(4) đều đồng biến. Với công thức (1), điều này có nghĩa điểm Q nào phía Đông
[Tây] điểm P thì hình chiếu Q’(Qm, Q’’) của nó vẫn ở phía Đông [Tây]
của P’ (Pm, P”), trong đó Qm là cách gọi tương tự như với
điểm Pm. Còn với công thức (2), (3) và (4), điều này có nghĩa là
điểm Q nào ở phía Bắc [Nam] của P thì hình chiếu Q’ (Qm, Q’’) của nó
sẽ ở phía Bắc [Nam] của P’ (Pm, P”). Tức là các bản đồ theo các phép
chiếu trên hoàn toàn thoả mãn đòi hỏi tối thiểu của một bản đồ: đảm bảo giữ
được vị trí tương đối của các điểm giống như trên thực địa. Và dĩ nhiên mỗi
phép chiếu cụ thể còn thêm những thế mạnh khác như đã nêu.
Phần trình bày sơ lược trên cho thấy ba phép chiếu
vẽ bản đồ trên đều có các kinh tuyến/vĩ tuyến là đường thẳng song song và các
kinh tuyến vuông góc với các vĩ tuyến, đặc biệt phép chiếu thứ ba có cả tính
chất rằng khi vẽ thêm vào bản đồ các kinh tuyến và vĩ tuyến cách đều
nhau, chẳng hạn cứ mỗi 10° một đường, thì chúng sẽ tạo thành một mạng các ô
vuông đều nhau. Đó là điều mà ông Tuấn diễn đạt thiếu chính xác “…các ô
ca-rô trên bản đồ đều là hình vuông và bằng nhau” (chỉ cần dùng một khung
đã kẻ ô vuông sẵn để vẽ bản đồ lên đó thì bất kì bản đồ theo phép chiếu
nào cũng có thể như vậy!).
Nếu có thể kéo dài thời cổ đại tới năm 1569 thì ông
Tuấn đúng một phần vì các bản đồ chúng tôi công bố dùng phép chiếu Mercator.
Còn phần hàm ý rằng hễ bản đồ có các kinh/vĩ tuyến song song thì trái đất ắt
phải hình vuông rõ ràng là một suy diễn thiếu cơ sở vì có ít ra ba cách vẽ bản
đồ cho mặt cầu với các kinh tuyến, vĩ tuyến (như vừa mới chỉ ra) thoả một số
hoặc tất cả điều ông mô tả.
2.
Để làm mạnh thêm lí lẽ do “yếu tố “hình cầu –
géodésie” của trái đất” nên kinh/vĩ tuyến trên bản đồ ‘không được phép’ là
các đường thẳng song song, đặc biệt là các “… vĩ tuyến [–] cũng là
các đường cong, song song với nhau, chiều dài của các đường này không bằng
nhau…”, ông Tuấn viện dẫn đến sự khác biệt về độ dài độ dài thật
của hai vĩ tuyến trên trái đất (!) và cho thêm ví dụ: cung 1’ ở xích đạo thì
dài 1852 m còn cung 1’ ở vĩ tuyến xa xích đạo thì ngắn hơn (điều này đúng) và
đặc biệt ở vĩ tuyến 45° thì bằng phân nửa, tức bằng 926 m (=1852 m /2).
Phần 1 đã cho thấy toàn bộ khẳng định này là sai nhưng điều tệ hại hơn ở đây là
ông cũng không buồn dùng toán phổ thông kiểm lại trước khi vung tay phán rằng
cung 1’ ở vĩ tuyến 45° có độ dài bằng phân nửa cung 1’ ở xích đạo (45° ở giữa
0° và 90° nên độ dài cung cũng phải ‘cưa đôi’ chăng?!).
Với hình vẽ trên, dùng quan hệ lượng giác trong tam
giác vuông OIP có thể dễ dàng thấy rằng bán kính của đường tròn vĩ tuyến ở vĩ
độ Lat là
r = IP = OP× cosLat =R × cosLat
(trong đó R là bán kính trái đất)
Do đó, một cung có số đo α trên đường tròn vĩ tuyến
ở vĩ độ Lat sẽ có độ dài là
s = r × α = (R cosLat) × α = (R × α) × cos Lat
= S × cos Lat
(trong đó S là độ dài cung ở xích đạo có số
đo α).
Với công thức trên, độ dài xấp xỉ[2] của cung 1’ ở vĩ tuyến 45° phải là s =1852 m × cos 45°
≈ 1310 m. Muốn được độ dài ‘cưa đôi’ như ông Tuấn thì cung đó phải nằm trên vĩ
tuyến 60° (cos60° =1/2)!
3.
Để bài bác bản đồ chúng tôi vẽ, ông Tuấn cũng lập
luận thêm rằng “[b]ộ bản đồ VN-Trung Quốc vừa được công bố được vẽ theo hệ
thống tọa độ WGS 84 (World Geodetic System 1984), theo phép chiếu Gauss-Kruger,
lấy kinh tuyến trung tâm 105° và múi chiếu 6°”, và hàm ý rằng bản đồ chúng
tôi vẽ không theo hệ thống này nên phạm sai lầm. Chỗ này hình như ông Tuấn hiểu
nhầm khi đọc Nghị định thư 2009. Điều 3 Nghị định thư nêu rằng:
“1. Tọa độ địa lí trong Nghị định thư này sử dụng hệ
tọa độ mặt đất năm 1984 (hệ tọa độ WGS-84); chuẩn độ cao sử dụng mô hình trường
trọng lực toàn cầu năm 1996 (EGM96).
2. Tọa độ vuông góc mặt phẳng của cột mốc
giới liệt kê trong “Bảng đăng ký mốc giới” và “Bảng kê tọa độ và độ cao mốc giới”
được tính toán, chuyển đổi từ tọa độ địa lí của cột mốc giới đó qua
phép chiếu Gauss-Kruger, theo múi chiếu 6°. Tất cả các cột mốc đều có một
bộ thành quả tọa độ vuông góc mặt phẳng tính toán, chuyển đổi theo đường kinh
tuyến trung ương 105° kinh độ Đông; các cột mốc nằm ở 108° kinh độ Đông về Đông
có thêm bộ thành quả tọa độ vuông góc mặt phẳng được tính toán, chuyển đổi theo
đường kinh tuyến trung ương 111° kinh độ Đông.” (những chỗ in nghiêng hay làm
đậm là của người viết bài này)
Không có chỗ nào khác nữa trong Nghị định thư nói về
phép chiếu Gauss-Kruger. Như vậy, có thể nói theo Nghị định thư này thì phép
chiếu Gauss-Kruger chỉ dùng để chuyển đổi từ toạ độ địa lí sang toạ độ vuông
góc mặt phẳng của các cột mốc, chứ không phải để vẽ bản đồ như ông Tuấn ngộ
nhận.
Ngoài ra, lưu ý rằng phần mềm chuyên dụng vẽ bản đồ
của chúng tôi dùng toạ độ địa lí (không phải toạ độ vuông góc mặt phẳng)
theo hệ WGS84 là đúng với hệ toạ độ địa lí của các cột mốc. Hơn nữa, bản đồ của
CIA DataBank II cũng theo hệ toạ độ này và theo cùng phép chiếu Mercator với
phần mềm nên hoàn toàn không có sự không ăn khớp như ông Tuấn nghĩ.
3. Nhân đây cũng xin được giới thiệu thêm về phép
chiếu Gauss-Kruger mà tôi có đề cập ở trên. Phép chiếu này là một ví dụ cho
thấy rằng cũng có những phép chiếu vẽ bản đồ không cho các kinh/vĩ tuyến là
đường thẳng như ông Tuấn nói, nhưng đồng thời lại cũng cho thấy thêm khẳng định
của ông Tuấn rằng “… trên bất kỳ một tấm bản đồ nào, các đường
kinh tuyến … không phải là đường thẳng mà là đường cong
… . Các … vĩ tuyến [–] cũng là các đường cong, song song với
nhau…” là sai trái. Phép chiếu Gauss-Kruger thật ra chỉ là một biến thể
của phép chiếu Mercator với mặt trụ bây giờ tiếp xúc mặt cầu ở hai kinh tuyến
đối nhau, và thường được dùng để vẽ từng múi rộng 6° của trái đất. Trong phép
chiếu này các vĩ tuyến và các kinh tuyến nói chung không còn là các đường thẳng
[song song] như phép chiếu Mercator (xem hình minh hoạ sau). Lưu ý rằng trong
bản đồ ở hình này có ba đường thẳng song song (không phải tất cả là
đường cong!) thì đường chính giữa là xích đạo còn hai đường thẳng
song song kia lại là bốn ‘nửa’ kinh tuyến hợp lại (từ hai kinh tuyến
vuông góc với hai kinh tuyến đó). Hơn nữa, trên đó lại có nhiều kinh tuyến gồm
hai cung rời nhau (do bị tách ra khi khai triển mặt trụ) chứ không phải là
những đường cong liền lạc! Qua hình minh hoạ bạn đọc cũng có thể thấy được việc
xác định toạ độ địa lí của một điểm trên bản đồ Gauss-Kruger là điều
không dễ dàng. Vì vậy, ông Tuấn có thể đã không chính xác khi nói “… bản đồ…
được vẽ theo hệ thống tọa độ WGS 84 … theo phép chiếu Gauss-Kruger” vì vẽ
theo phép chiếu Gauss-Kruger mà dùng hệ toạ độ WGS84 là điều hầu như không thực
hiện được, nếu không chuyển đổi thành toạ độ vuông góc (dùng đơn vị độ
dài, như m trong ‘bảng
toạ độ cột mốc’).[3]
Ngoài ra, cũng có nhiều phép chiếu bản đồ khác (như
các phép chiếu ‘cầu lên nón’, ‘cầu lên phẳng’) cũng cho thấy
khẳng định vừa nêu của ông Tuấn chỉ là nói bừa, nhưng có lẽ không cần thiết để
trình bày thêm ở đây.
4.
Cuối cùng xin lưu ý rằng toạ độ các cột mốc chúng
tôi lấy từ ‘bảng toạ độ’ đăng trên công báo số 680+681
có đối chiếu với các toạ độ trong bản Nghị định thư (dạng scan) cũng trên công
báo từ số 634+635
tới số 640+641
(bản này có chữ kí giáp lại từng trang của hai phía Việt, Trung) nên có thể là
đáng tin. Phần mềm do công ti chuyên ngành làm ra nên khó có lí do để nghi ngờ.
Chỉ còn biên giới Việt – Trung theo bản đồ của CIA là chúng tôi chưa rõ họ vẽ dựa
trên dữ liệu nào.
Trong khi chưa có một bản đồ biên giới có độ chính
xác chuyên ngành theo công ước Pháp – Thanh (mà Việt Nam và Trung Quốc thống
nhất dùng làm căn cứ chính), chúng tôi cho rằng việc dùng bản đồ CIA kết hợp
với toạ độ các cột mốc công bố chính thức theo Nghị định thư và phần mềm chuyên
dụng sử dụng đúng hệ toạ độ để vẽ ra bản đồ cột mốc biên giới là việc làm có ý
nghĩa. Trước nhất, đó là bản đồ với độ chính xác chuyên ngành đầu tiên thể hiện
tất cả cột mốc và điểm biên giới theo Nghị định thư mà cộng đồng người Việt
thấy được sau ngày kí kết, góp phần lấp đi phần nào khoảng trống thông tin cần
có mà người dân chưa được biết. Thứ hai, đó cũng là một tài liệu đáng tham
khảo, chẳng hạn nếu thấy có những bất thường bất lợi cho Việt Nam trên bản đồ,
chúng ta có thể đào sâu tìm hiểu thêm về những chỗ cụ thể đó để có những hành
động thích hợp trong việc bảo vệ chủ quyền đất nước (thực tế là điều này không
xảy ra cho bản đồ đã công bố dùng ‘biên giới của CIA’). Thứ ba, việc làm này
cũng có thể có tác dụng thúc đẩy nhà nước sớm công bố bản đồ chính thức cho
nhân dân. Và dĩ nhiên, do còn yếu tố ‘biên giới của CIA’ chưa thật rõ nên chưa
thể rút ra bất kì kết luận nào từ các bản đồ này.
Hi vọng rằng sẽ có những bạn đọc có quan tâm hoặc có
chuyên môn dùng các nguồn khác nhau phối kiểm lại toạ độ các cột mốc,
dùng phần mềm khác và bản đồ có biên giới khác lập ra những bản
đồ mới tương tự chính xác và có chất lượng hơn góp phần vào công việc chung
này.
Tóm lại, như đã phân tích ở trên các bản đồ mà chúng
tôi cho công bố là cần thiết và có ích. Hơn nữa, chúng hoàn toàn không có vấn
đề gì về kĩ thuật như ông Tuấn đã nhầm lẫn. Từ đó, câu trả lời cho bạn đọc đối
với câu hỏi của ông Tuấn là: “Vâng, có thể vẽ như thế!”.
P.
V. S.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
[1] Các công ti lớn vẫn đang dùng/in bản đồ Mercator hay biến thể
của Mercator American Map Company, Google Maps,
Bing Maps,
OpenStreetMap,
MapQuest, Yahoo Maps,
…
[2] Dùng từ ‘xấp xỉ’ vì trái đất không hẵn là hình cầu như
đã nêu.
[3] Dùng từ ‘có thể’ vì qua câu văn trích của ông Tuấn, tôi
không rõ ông có hàm ý có chuyển đổi toạ độ hay không và lưu ý rằng việc chuyển
đổi toạ độ cũng không đơn giản như bạn đọc có thể hình dung qua hình.
--------------------------------------------
VỀ VẤN ĐỀ “BẢN ĐỒ MỐC GIỚI VIỆT – TRUNG”
Tô
Oanh 23/09/2013
Trương
Nhân Tuấn
22/09/2013
Dương
Danh Huy 21/09/2013
Trương Nhân Tuấn jeudi
19 septembre 2013
Trương Nhân Tuấn mercredi
18 septembre 2013
Bauxite Việt Nam 17/09/2013
Bauxite Việt Nam 15/09/2013
No comments:
Post a Comment