01/03/2013
11:50 AM
Gặp Huy Đức nhân một bữa tiệc tại nhà một người bạn. Chúng tôi có
trao đổi một vài câu chuyện. Đây là lần đầu tiên tôi gặp anh dù rằng trước đó
tôi thường đọc những bài của anh trên blog Osin, có nội dung chỉ trích chế độ
rất khéo léo và suy nghĩ sâu sắc. Huy Đức sang Mỹ theo một chương trình nghiên
cứu của Đại học Harvard, một đại học hiện có khá nhiều sinh viên từ Việt Nam
qua theo học. Câu chuyện trao đổi liên quan đến nội dung một tác phẩm, đó là “Bên
Thắng Cuộc”. Tôi có nói với Huy Đức là đề tài mà anh đề cập tới rất tế nhị và
anh sẽ phải đi dưới hai lằn đạn. Bởi vì viết những gì dù dựa trên sự thật mà
bên thắng cuộc không thích, anh cũng sẽ “lãnh đủ” và viết ra những gì mà
chỉ một số người bên thua cuộc không thích, anh cũng sẽ bị biểu tình và họ sẽ
lôi gốc gác của anh ra mà xỉ vả. Lý do rất dễ hiểu: Kể cả bên thắng cuộc và bên
thua cuộc đều vẫn còn nhiều người chỉ thích “uống nước đường” chứ không
thích người nào nói sự thực hay chứng minh đó là sự thực.
Ít lâu sau tôi nhận được tập bản thảo “Bên Thắng Cuộc”của
Huy Đức và tập bản thảo dù dầy đến 680 trang, tôi vẫn đọc một cách cẩn thận và
có ghi chú. Tôi kết thúc trang cuối cùng vào đúng lúc Đài BBC đưa ra bản tin
phản ứng của độc giả đối với “Bên Thắng Cuộc”, ủng hộ cũng như chỉ
trích, phần lớn đều rất lịch sự. Tôi nghĩ chỉ cần phản ứng lịch sự là được rồi,
dù phản ứng bao gồm cả những lời chỉ trích, bởi vì chỉ trích lịch sự, ôn tồn ở
cái đất này giống như lá mùa thu.
Cảm
tưởng của tôi đối với “Bên Thắng Cuộc” của HuyĐức: Lần đầu
tiên tôi được đọc tác phẩm của một nhà báo trẻ trong nước viết với giọng văn
bình thản, cố tránh những tĩnh từ vô ích, trích dẫn có cân bằng và đối chiếu
thận trọng. Mặc dù nội dung tác phẩm còn nhiều khiếm khuyết khi Huy Đức viết về
phần bên thua cuộc, nhưng ở vào thế hệ của anh không thể tránh những lỗi này
được và điều này theo tôi cũng không có gì là “big deal” vì anh vẫn còn
đầy đủ cơ hội hiệu đính lần xuất bản sau.
Nhưng tại sao lại là “Bên Thắng Cuộc”mà không là “Bên
Thắng Trận”?
Nguyễn Giang, trưởng ban Việt ngữ của Đài BBC cũng đã có những
thắc mắc này và tự lý giải nó bằng một tự nhủ:
“Khi đọc bản thảo “Bên Thắng Cuộc” (cả hai tập), tôi băn khoăn
không hiểu vì sao Huy Đức không đặt tựa cho sách là “Bên Thắng Trận” với tất cả
sự oai hùng, hào khi cách mạng như truyền thông chính thống vẫn nêu. Có phải
trận chiến quân sự và ý thức hệ dù lớn lao đến đâu cũng chỉ là một cuộc cờ vì
trận chiến vì tâm hồn và tương lại Việt Nam vẫn chưa chấm dứt?”.
Tôi cũng có những thắc mắc giống như ông Nguyễn Giang, nhưng tôi
tự lý giải theo cách nhìn khác. Trong một trận banh, tỷ số các bàn thắng bại
được ghi ngay trên bản và được dứt khoát quyết định, bên bị loại không thể giải
thích “tại”, “bị” hay “do... mà tôi thua”. Nhưng cuộc chiến Việt
Nam là một cuộc chiến rất phức tạp. Những người Cộng sản Miền Bắc tấn công Miền
Nam Việt Nam trước và dưới cái nhãn “giải phóng và thống nhất đất nước”. Miền
Nam Việt Nam chống trả dưới cái nhãn khác, đó là “tiền đồn của thế giới tự
do”. Cả hai bên lao vào một cuộc huyết nhục tương tàn với súng đạn hai bên
chẳng do người Việt Nam sản xuất. Chúng đến từ Nga, Tầu và Mỹ. Hai bên cứ thế
mà lao đầu vào chém giết nhau, trong khi ở các bàn hội nghị quốc tế, những siêu
cường thương lượng về ảnh hưởng của họ trên núi xương sông máu của nhân dân cả
hai miền Nam Bắc. Đó là lý do tại sao những người thức tỉnh nhận ra “cuộc
cờ” khốn nạn ấy mà những người nắm quyền lưc hiện nay ở Việt Nam không nhận
ra? Huy Đức đã ghi ở trang đầu của cuốn sách một nhận định ngắn ngủi của Nguyễn
Duy nhưng đầy ý nghĩa“Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh, bên nào thắng
thì nhân dân cũng bại”.Tôi cho rằng những suy tưởng này chính là lý do
khiến Huy Đức không dùng tựa đề bên thắng trận mà dùng tựa đề “Bên Thắng
Cuộc”. Chỉ cần dùng tựa đề này, Huy Đức cũng đã can đảm rồi. Cậu bé chăn
trâu ở một làng quê nghèo ở Hà Tĩnh ngày nào nay đã thành danh trong nghề
nghiệp báo chí với cái tên blogger Osin đang cố gắng giữ sự tỉnh táo bằng cách
học hỏi và nghiên cứu tại một trường đại học nổi danh ở Mỹ là trường Harvard.
Cuộc nghiên cứu chỉ kéo đài có một năm thôi, nhưng tôi tin rằng ở ngôi trường
vốn là mẫu mực cho nền tự trị đại học và suy nghĩ tự do ấy đủ để cho những
người bảo thủ phải thay đổi suy nghĩ của mình hay ít ra là cũng làm mới lại suy
nghĩ mà họ đã có từ trước.
Tôi muốn nhắc lại ở đây một điều đã quá cũ, nhưng vẫn cứ phải
khẳng định đây là loại tác phẩm chính văn căn cứ vào những dữ kiện như cuốn “Bên
Thắng Cuộc” một kiểu viết đòi hỏi phải có một phương pháp làm việc mang
nhiều tính chất sử học chẳng hạn như việc lựa chọn dữ kiện, phỏng vấn những
nhân chứng còn sống, sưu tầm những tài liệu của những nhân chứng đã chết, phân
tích (chứ không phải bình luận) những tài liệu, văn kiện sưu tầm được, đi và
nói chuyện với những nhân vật lịch sử có liên hệ hiện còn sống. Xét đến những
điều kiện để thực hiện tác phẩm rõ ràng Huy Đức đã đáp ứng đầy đủ như anh đã
trình bày trong Lời Nói Đầu và nội dung các chương của tác phẩm. Làm được đầy
đủ công việc này, phải mất 10 năm là điều mà tôi tin rằng Huy Đức nói không
ngoa.
Đọc một tác phẩm dầy như “Bên Thắng Cuộc” với biết bao
nhiêu dữ kiện lịch sử, nhiều cuộc phỏng vấn, nói chuyện với những nhân vật, những
nhân chứng lịch sử của cả hai bên, nhất là phần chú thích (nhất thiết phải đọc
cả phần chú thích này, bởi vì nó cung cấp cho những luận đoán của người đọc
nhiều chi tiết thú vị), người đọc phải mất rất nhiều thời giờ, ngoại trừ, những
người vì nghề nghiệp cần phải đọc hết những trang sách trong thời gian ngắn
nhất.
Ví thử như Huy Đức viết “Bên Thắng Cuộc”chỉ để thỏa mãn nhu
cầu chính trị ca ngợi chế độ thì không cần phải 3 năm để đọc tài liệu và 10 năm
mới hoàn thành. Cho nên, việc tác giả dùng thời gian hơn một thập niên để viết “Bên
Thắng Cuộc” là có lý do của nó. Huy Đức cần phải căn cứ vào cách làm của
những nhà văn viết ký sự dựa theo dữ kiện lịch sử để bảo đảm tính “không dễ
dãi với cách nhìn những gì đã từng xảy ra trên đất nước Việt Nam”. Đọc “Bên
Thắng Cuộc” từ trang đầu đến trang cuối, người đọc có thể thấy nỗ lực của
Huy Đức cố gắng không để cho tác phẩm của mình trở thành những ly nước đường
cho cả bên thắng cuộc lẫn bên thua cuộc, dù những cố gắng của anh chỉ có giới
hạn.
Hãy đọc Huy Đức viết trên trang Facebook lập ra cho cuốn sách:
“Tôi mong các nhà lãnh đạo hiện nay đọc Bên Thắng Cuộc cho dù họ
đánh giá cuốn sách nhưthế nào. Nhận ra những sai lầm để ‘đưa dân tộc Việt Nam
đi đúng con đường dân chủ, phát triển’ là mong ước của chúng ta. Nhưng tương
lai dân tộc không thể chỉ trông cậy vào một cuốn sách hay chỉ trông cậy vào
những nhà lãnh đạo ở bên thắng cuộc.”
Ý kiến mà tôi vừa trích dẫn chỉ là một phần nhỏ trong phần trả lời
của tác giả đối với những phản ứng hay ý kiến của độc giả mà tác giả đặt tên là
“Không thể cứ trú ngụ trong sự sợ hãi”. Đài BBC ghi lại một câu hỏi khá
quan trọng,đó là “liệu ông có sợ những điều không hay xảy ra với ông vì vi
phạm các qui định của Đảng và Nhà Nước”, Huy Đứcđã thẳng thừng:
“Tôi không nghĩ là mình nằm trong phạm vi điều chỉnh các qui
định đó. Tôi ý thức được những việc gì mình đang làm. Sự thật không chỉ giúp
chúng ta tìm ra những phương thuốc đúng để chữa lành các vết thương cũ mà còn
giúp những người đang nắm vận mệnh quốc gia không vi phạm những sai lầm mới. Không
ai muốn hứng chịu những điều không hay nhưng nếu cứ trú ngụ trong sự sởhãi thì
sự thật sẽ không bao giờ được nói ra, bạn ạ!”
Huy Đức có thể trình bày suy nghĩ của mình về đứa con tinh thần
được kể là quan trọng của anh khi chính quyền mà anh đang sống với chưa có dấu
hiệu gì muốn nhìn nhận những sự thật mà anh trình bày trong “Bên Thắng Cuộc”
là vì những lý do như anh đã viết trên Facebook. Những đoạn trong tác phẩm
mà tôi cho rằng quan trọng và người Việt ở hải ngoại nên đọc chính là những
đoạn mà tác giả tổng hợp được cách nhìn về mọi phía và về các bên lâm chiến từ
giai đoạn lực lượng Cộng Sản tiến vào Saigon và thời kỳ quân quản, hiệp thương
thống nhất hai miền Nam Bắc.
Nhưng sau ngày 30-4-1975, thảm kịch diễn ra từ việc trả thù những
sĩ quan công chức, cảnh sát VNCH cho tới việc đánh tư sản, tiêu diệt văn hóa
văn nghệ tự do, qui kết loại trừ tư bản Tầu Chợ Lớn, cưỡng bức người dân thành
phố đi kinh tế mới, cuộc chiến với Khmer Đỏ cùng với những nỗ lực được mệnh
danh là “duy ý chí” nhằm áp đặt các mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa bao
cấp trên cả nước với chế độ khẩu phần khắt khe đưa đến thảm họa nhân đạo và sự
suy sụp kinh tế.
Nguyễn Giang, trưởng ban Việt ngữ đài BBC nhận định về văn phong
của Huy Đức trong các chương nói trên: “Ở các chương này, ngòi bút Huy Đức
tỏa sáng trong giọng văn âm thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi
sục, thậm chí có chỗ nghẹn đi vì những biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà
anh chứng kiến cận cảnh, nhất là tâm thức một người đi bộ đội và từ Bắc vào
Nam”.
Ngay từ những dòng đầu tiên, niềm đau ấy, tâm thức ấy được phản
ảnh như dưới đây về một sự thực ở Miền Nam Việt Nam. Sự thực ấy khác những điều
mà Huy Đức được dạy dỗ từ thuở thiếu thời:
“Nhưng hình ảnh Miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội
rời làng quê nghèo đói của mình. Trên Quốc lộ 1, bắt đầu xuất hiện những chiếc
xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh
chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡkhách rồi rất nhanh đu ra ngoài
cánh cửa gần như trong một giây trước khi xe rú ga, vọt đi ngạo nghễ. Hàng chục
năm sau tôi vẫn nhớ hai chữ chạy suốt bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe.
Cho đến lúcấy thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in
hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội
và đánh Mỹ. Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật
đơn giản: mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên
ngón tay một người làng tập kết (ra Bắc) vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê
nhựa biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe, buộc trên ba lô của một
anh bộ đội phục viên may mắn. Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh... được
những bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp cho bọn trẻ chúng tôi biết một thế
giới văn chương gần gũi hơn là“Rừng thẳm tuyết dày”, “Thép đã tôi thế đấy”,
những chiếc máy Akai, radio cassettes được những người hàng xóm tập kết mang ra
giúp chúng tôi nhận ra người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ nhớ em, chứ
không chỉ là ‘Đêm Trường Sơn nhớ Bác’. Có một miền Nam không giống như Miền Nam
trong sách giáo khoa của chúng tôi.”
Qua đoạn văn này trong Lời Nói Đầu, người ta thấy tác giả tự tay
chém vào thân người mình những vết thương sâu hoắm để tự cảm thấy một nỗi đau,
nỗi đau không thảng thốt, nhưng nó sẽ cắn xé, gậm nhấm từ từ một con người còn
tỉnh táo để nhận biết sự thật, để nhận biết là trong bao nhiêu lâu của tuổi
xuân mình chỉ được biết những gì không phải sự thật. Theo tôi, nỗi đau của Huy
Đức cũng như hàng triệu người có cùng một cảm xúc như anh không khác gì nỗi đau
đớn của hàng triệu người ở Miền Nam Việt Nam đã để mất cái phần đất mà chỉ sau
30-4-1975 họ mới có thể hoàn toàn thấu hiểu rằng so với Miền Bắc, nó thật là
quí giá, đúng như lời cựu
Tướng độc nhãn của Do Thái Moshe Dayan đã nhận định khi ông đến Saigon để viết
một phúc trình cho tờ Israel Times rằng người Miền Nam Việt Nam phải biết thua
Cộng sản thì mới có thể chiến thắng được họ. Theo tôi nỗi đau ấy không
thể được làm thuyên giảm chỉ với những tập tài liệu “Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập”
hoặc “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” hay “Tâm Tư của Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu”, hoặc những cuốn hồi ký trong đó có một số tướng lãnh hay các sĩ
quan cao cấp không ngại ngùng nói thẳng ra chuyện các ông bỏ đơn vị, bỏ lính
của mình như thế nào để thoát ra nước ngoài trong cơn lốc nghiêng ngửa của Miền
Nam. Những cuốn sách ấy không thể là những thắc mắc mà cho tới bây giờ vẫn chưa
có câu trả lời dứt khoát, đó là: “Một quân đội thiện chiến, quả cảm, chiến
đấu không mệt mỏi trong một cuộc chiến dài và đẫm máu như thế, tại sao họ vẫn
thất bại”?
Suy nghĩ của tôi cũng chỉ là cái cớ để nói tới cái bối cảnh ra đời
của “Bên Thắng Cuộc”. Sống trong lòng chế độ ở Việt Nam mà đề cập tới
những người thắng cuộc cũng đã là một điều khó khăn và đe dọa cho Huy Đức rồi,
nhưng đề cập tới những người thuộc bên thua cuộc lại càng khó khăn, phức tạp và
nhạy cảm hơn đối với một tác giả xuất thân từ phía thắng cuộc. Tôi xin trích
dẫn lời kết luận của một trong những phản ứng chỉ trích của một cựu sĩ quan bên
thua cuộc (VML) qua một e-mail được một bạn tù forward cho tôi: “Tác giả đã
bỏ ba năm, ngồi đọc 126 quyển, rồi trích lấy 609 câu ghép lại thành từng chương
mục thêm vào mấy lời cám ơn, thế là xong một tác phẩm vĩ đại! Tóm lại Bên Thắng
Cuộc chỉ là một công trình đáng giá 3 xu hoàn thành từ một Cháu ngoan của Bác”.
Tôi không ngạc nhiên về những lời phán này bởi vì trong 20 năm sống ở Mỹ, thói
quen của một số người thuộc phía thua trận là bác bỏ và phủ nhận bất cứ một
cuốn sách nào từ phía những người thắng trận, nhưng không may, họ lại không thể
trưng ra được một tác phẩm nào của họ để đối chiếu.
Andrew Wiest khi viết cuốn “Vietnam‘s Army Forgotten” đã có
một thư mục sách ông tham khảo dài, những cuộc phỏng vấn và mất cả 3 năm trời
để tìm cách phỏng vấn người anh hùng trong quân đội VNCH Trần Ngọc Huế và cả
người mà ông cho rằng một nửa giai đoạn chiến tranh là anh hùng nhưng cuối cuộc
chiến trở thành người phản bội, Phạm Văn Đính.
Larry Berman cũng đã mất khoảng 10 năm trời, dùng số sách tham
khảo nhiều hơn Huy Đức và nhất là tìm cách phỏng vấn cho được tình báo viên
Phạm Xuân Ẩn trước khi ông ta qua đời để viết cuốn “Perfect Spy”.
Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ khi viết cuốn “Argument Without
End” cũng đã phải vùi đầu vào một núi tài liệu trong văn khố quốc gia Mỹ,
rồi phải vận động để được phép thu thập cái kho tài liệu về chiến tranh Việt
Nam của Hà Nội mà trước đó không một tác giả Mỹ nào xâm nhập vào được, tổ chức
các buổi hội thảo tốn kém để đối thoại với các cựu tướng lãnh và giới chức quân
sự chính trị cao cấp từng đối đầu với Hoa Kỳ trong chiến tranh, gặp gỡ riêng tư
những người cầm chịch trong cuộc chiến Việt Nam cả về phía Mỹ, Việt Nam và
VNCH. Ấy vậy mà trong buổi giới thiệu sách ở New York, tác giả vẫn còn xin lỗi
vì những tham khảo chưa trọn vẹn. Có thể có nhiều người không thích những tác phẩm
trên của các tác giả Mỹ với nhiều lý do khác nhau, nhưng bảo chúng là ba xu hay
vô giá trị, tôi thấy chưa ai dám hạ bút như vậy.
Một phản ứng khác từ Tiến sĩ VũThị Phương Anh viết trên Facebook,
vốn là con của một viên chức cao cấp của VNCH, về cuốn “Bên Thắng Cuộc”, xin
trích:
“Không ai trong chúng tôi lại có thể ngờ có ngày những ký ức và
sự kiện lịch sử ấy lại được một người từ bên thắng cuộc viết ra. Những dòng chữ
trong cuốn sách của Huy Đức được tác giả viết bằng giọng văn bình thản, khách
quan chẳng thấm vào đâu so với những ký ức đầy cảm xúc của chúng tôi, những
người phải trải nghiệm thực sự những thí nghiệm của chế độ mới với những người
anh em thua cuộc của họ... Những thông tin trong cuốn sách không làm tôi xúc
động-vì chắc chắn những chi tiết mà tôi có thể kể ra từ kinh nghiệm cá nhân còn
lâm ly và kỳ bí hơn nhiều - mà chỉ làm cho tôi thắc mắc không biết đến bao giờ
người anh em thắng cuộc mới thực sự hiểu đầy đủ những người thua cuộc và ý thức
rõ những điều phi nghĩa phi nhân mà họ đã làm đối với người anh em kém may mắn
của họ”.
Tiến sĩ Phương Anh cũng nói “chính quyền hiện nay không chân
thành nhận lỗi thì sẽ không bao giờ có hòa giải thực sự”.
Một nhân vật lịch sử cổ đại là Vua Trần Nhân Tôn, một vị vua nhân
đức và một tấm lòng mở rộng như Phật sống, tha tội cho tất cả quan quân đã từng
cộng tác với giặc Phương Bắc với để hàn gắn, hòa giải dân Việt có phải nhận lỗi
với phe thua cuộc? Lịch sử cận đại của cuộc chiến tranh Nam-Bắc Mỹ, Tổng Thống
Abraham Lincoln khi chiến thắng Nam quân sau trận Gettysburg đã ra lệnh cho
tướng Grant phải đứng ra để chào kính viên tướng Nam quân lên ngựa sau khi họ
đã ký vào văn bản đầu hàng của Nam quân. Nhưng để hàn gắn, Tổng Thống Abraham
Lincoln không phải ra lời xin lỗi Nam quân vì thực sự chiến thắng của Bắc Quân
không phải là lỗi của ông. Nhưng hành động cấm tất cả binh lính dưới quyền Tổng
Tư Lệnh Abraham Lincoln không được truy bức những cựu thù là một cách hàn gắn
rất thông minh và văn minh khi bên chiến thắng chìa bàn tay ra trước. Và chung
quanh các cộng đồng người Việt Nam ở Hoa Kỳ tổ chức rất long trọng những ngày
gọi là Quốc Hận, nhưng đã có ai trong số những người lãnh đạo quân sự và chính
trị còn sống ở đây dám đứng ra nhận lỗi với chính những người thua cuộc và dân
chúng còn ủng hộ bên thua cuộc dù đã để mất miền Nam Việt Nam không, hay họ vẫn
cứ vẫn dễ dãi đổ tất cả tội lỗi cho Mỹvà Dương Văn Minh?
Cho nên, sau 37 năm Hà Nội chưa bị đe dọa bởi những chống đối
trong nước hay tại hải ngoại thì mơ ước của Tiến sĩ Phương Anh vẫn chỉ là một
giấc mơ đẹp nhưng không bao giờ thành hiện thực. Bởi một điều: Khó có thể đổ
lỗi cho bên chiến thắng khi cuộc chiến đã bị quốc tế hóa thành ý thức hệ của
hai khối Cộng Sản và Tư Bản. Trong một trận banh, bên nào lừa banh được thì bên
đó dễ dàng xuyên thủng lưới đối phương. Bên thua khó lòng viện dẫn lý do là bên
kia quỷ quyệt, chơi xấu nên mới thắng. Có phải do thế mà bên chiến thắng phải
xin lỗi thì các khán giả ủng hộ hai bên trong trận banh từng chia rẽ nay mới có
thể bắt tay đi uống bia với nhau được? Làm gì có chuyện đó, thưa Tiến sĩ Phương
Anh? Tỷ số bàn thắng thua trong một trận đá banh hay bóng rổ vẫn là những con
số lạnh lẽo, nhưng đáng buồn là nó xác định được thứ ưu thế cũng lạnh lẽo không
kém của bên thắng trận. Làm sao có ai trả lời được câu hỏi nếu như Miền Nam là
bên thắng cuộc thì liệu sự trả thù có diễn ra với bên thua cuộc là miền Bắc hay
không?
Nay có một người như tác giả “Bên Thắng Cuộc”nói tới những
xúc cảm của chính mình khi viết một tác phẩm về thắng, thua trên bàn cờ chính
trị và quân sự Việt Nam, tôi nghĩ đó là một điều đáng quí. Văn phong bình thản
và ôn tồn của một người viết xuất thân từ xã hội Cộng sản cho thấy đây là một
yếu tố rất quan trọng của một tác giả còn dính líu nhiều đến quá khứ của các
phe lâm chiến trong một cuộc chiến không vinh hạnh gì cho đất nước Việt Nam.
Càng bình thản và ôn tồn sự trình bày của mình càng thuyết phục. Càng gồng
mình, càng dao to búa lớn, càng biểu lộ cảm tính đối với những vấn đề nay đã
trởthành lịch sử thì càng thiếu thuyết phục và trong nhiều trường hợp lộ cho người
khác thấy cái non nớt ấu trĩ của mình.
Khi viết về bên thua cuộc, Huy Đức còn nhiều thiếu sót nhất là
những chương nói về tù cải tạo và cuộc vượt biển của hàng triệu người Việt Nam
(cho tới nay không có con số ước lượng gần sự thật). Nhưng tôi vẫn nghĩ ở thế
hệ của Huy Đức (thế hệ 1.5), anh không thể hiểu hết những gì diễn ra trong hai
tấn bi kịch đầy thương tổn trong lịch sử cận đại hậu chiến tranh Việt Nam. Hơn
nữa, nội dung cuốn sách chỉ mô tả lại hình ảnh về những sai lầm của bên thắng
cuộc, kể cả sai lầm đối với bên thua cuộc. Ngay cả người Việt Nam thuộc thế hệ
1.0, 1.5 và 2.0 hiện nay ở Mỹ có người còn không hiểu hết những gì cha anh họ
từng phải trải qua trong các trại cải tạo hay trên đường vượt biển, huống chi
một nhà báo trẻ như Huy Đức sinh ra và lớn lên trong môi trường xã hội chủ
nghĩa và chỉ khi vào Nam mới biết rằng có một Miền Nam không giống như sách
giáo khoa miền Bắc đã dạy anh. Cho nên chỉcần Huy Đức viết về những bi kịch nói
trên của bên thua cuộc không giống như lời lẽ của Phan Xuân Huy, một cựu dân
biểu dưới chế độ VNCH mà anh trích dẫn trong sách là tôi đã có thể gọi anh là
một nhà báo còn giữ được nhân cách và còn tỉnh táo trong suy nghĩ giữa một xã
hội mà lòng người ngày càng tao loạn, và những người quản trị đất nước ngày
càng khắt khe đối với những ý tưởng độc lập.
Cái oái oăm của lịch sử cũng vẫn theo đuổi những người Việt Nam đã
bỏ nước ra đi và nhận nơi này làm quê hương thứ hai của họ. Người Việt Nam ở
quận Cam hình thành một cộng đồng từ ngày những bước chân còn bàng hoàng của họ
từ các trại tị nạn đặt xuống đây. Cộng đồng này sống giữa một đất nước nơi mà
quyền tự do ngôn luận được thiết đã từ lâu và rộng thênh thang. Ấy vậy mà từ 37
năm qua, người dân ở đây cho biết chưa bao giờ họ được nhìn thấy hay được nghe
những lời lẽ ôn tồn, lịch sự trong các cuộc thảo luận những vấn đề nhậy cảm.
Người ta chỉ thấy diễn ra những lời cuồng nộ và nhục mạ những người có những
suy nghĩ khác suy nghĩ của vài cá nhân hay phe nhóm ở đây. Người Mỹ gốc Việt ở
quận Cam nói riêng ngày nay thấy một số cá nhân hoạt động chính trị trong cộng
đồng bỗng trở thành những “ông biện lý” hay “quan tòa”chỉ biết “phán”
mà không hề biết lắng nghe. Họ động dao, động thớt bằng những lời lăng mạ
trước, dọa biểu tình sau và cuối cùng bơi móc đời tư của “đối thủ”trên
một vài cơ quan truyền thông Việt ngữ. Trong bối cảnh này còn diễn ra một số
những hành động ngược ngạo khác: có một vài tờ báo hay cơ quan truyền thông có
những bài viết bị kết án là thân Cộng thì chẳng ai làm gì họ được, nhưng ngược
lại có những cơ quan truyền thông hay báo chí khác cũng bị cáo buộc tương tự thì
bị làm tình làm tội. Chính nghĩa nào cho những người cứ mở miệng ra là nói mình
phục vụ cộng đồng hay chống Cộng trong khi chỉ đi làm chuyện tào lao này vậy?
Chưa hết, còn một vài nghịch lý nữa: trong một vài buổi ra mắt sách ở đây, có
những nhà “phê bình” lên diễn đàn thú nhận chưa đọc tác phẩm của người
ta mà vẫn tiếp tục khen lấy khen để chỉ vì tác giả thuộc “phe ta”. Ngược
ngạo này sinh ra ngược ngạo khác. Có một thời kỳ, nhiều nhà hoạt động ở Little
Saigon này coi Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu
là khuôn vàng thước ngọc cho công cuộc chống Cộng nhưng cũng lại chính những
người đó nay buông ra những lời lẽ thiếu lịch sự với Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần
và thậm chí cả Vũ Thư Hiên.
Vì thế, tác phẩm của Huy Đức, ngoài những lời phê bình nghiêm túc,
đứng đắn cũng đã nhận được một số phản ứng đại loại như “Việt cộng con”,
“răng hô”, “cháu ngoan của Bác”, “ve vãn người quốc gia”, “lộng giả thành
chân”, “Bên Thắng Cuộc chỉ đáng gia ba xu” cũng là chuyện thường tình.
Trong cơn cuồng nộ của một nhóm người, những cảm tính này rất dễ diễn tả, rất
dễbuột ra khỏi cửa miệng, nhưng để có những bằng chứng đi kèm cho thuyết phục
thì thật là khó khăn vô cùng vì nó cũng buộc những người phản bác cũng phải
dùng một thời gian nghiên cứu lâu ít nhất cũng lâu bằng thời gian tác giả Huy
Đức thai nghén “Bên Thắng Cuộc”.
Cho nên, theo tôi, khen, chê, phủ nhận, bác bỏ là quyền đánh giá
của người đọc trên một đất nước tự do. Không ai có quyền ngồi lên trên sự tự do
đó được. Như thế rõ ràng, người đọc có quyền rộng rãi để lựa chọn một thái độ
thì không lý do gì một người nào đó lại cần phải dùng những lời lẽ thô bạo để
phê phán một tác phẩm được viết ra bằng một văn phong thầm lặng như trong “Bên
Thắng Cuộc”. Trong tinh thần suy nghĩ của một người tự do, tôi đọc “Bên
Thắng Cuộc” gần một tháng mới xong và giữ một nhận định riêng cho mình đối
với toàn bộ tác phẩm. Bài viết này được viết để chia sẻ với bạn đọc vào ngày
cuối cùng của năm 2012 mới chỉ đề cập tới phần bên thua cuộc trong tác phẩm “Bên
Thắng Cuộc”. Những phần khác, tôi sẽ đưa ra vào những số báo của năm 2013.
(V.A)
No comments:
Post a Comment