Nguyễn
Thị Từ Huy
15-1-2013
Bài
viết này chia sẻ một vài suy nghĩ về một nền giáo dục khai phóng và một nền
chính trị khai phóng – các điều kiện cho sự hình thành tinh thần khai phóng cho
các thành viên trong xã hội.
Một nền
giáo dục khai phóng
Muốn
cho các thành viên trong xã hội có được tinh thần khai phóng thì điều kiện trực
tiếp là phải có một nền giáo dục khai phóng.
Thời
gian gần đây khái niệm “giáo dục khai phóng” được sử dụng nhiều. Có lẽ những
người đầu tiên dùng nó đã mượn hoặc dịch từ khái niệm của Paulo Freire:
“éducation libératrice”. Đây là một giả định, bởi muốn khẳng định phải có các
khảo cứu cần thiết mà người viết bài này hiện tại chưa thực hiện được.
Khái
niệm “éducation libératrice” được Freire tường giải trong cuốn Pédagogie des
opprimés (tôi dựa vào bản tiếng Pháp, vì không có khả năng đọc bản gốc bằng
tiếng Bồ Đào Nha). Ở đây tôi chỉ tập trung vào một vài điểm của cuốn sách.
Nhan
đề cuốn sách có nghĩa là: giáo dục học của những kẻ bị áp bức. Đó là loại giáo
dục học dành cho những người không chấp nhận chịu áp bức, “những người dấn thân
vào cuộc đấu tranh để giải phóng chính họ”. Chữ “opprimé” của Freire phải được
hiểu theo nghĩa đó, những kẻ bị áp bức có sứ mệnh giải phóng cho chính mình và
cho cả những kẻ đi áp bức. Bởi vì, những kẻ áp bức, dù có đủ quyền lực và bạo
lực, không thể tìm thấy sức mạnh để giải phóng cho chính họ và giải phóng cho
những kẻ bị áp bức. Sức mạnh giải phóng thuộc về những kẻ bị áp bức, và sức
mạnh đó đủ để khai phóng cho cả kẻ bị áp bức lẫn kẻ áp bức. Và khai phóng ở đây
là khai phóng cho các tiềm năng của con người, khai phóng cho các năng lực tiềm
tàng của con người. Quan niệm này dẫn tới sự hình thành ý tưởng về một nền giáo
dục khai phóng trong đó vai trò của các thành phần tham gia quá trình giáo dục
thay đổi một cách căn bản: giáo viên không còn chỉ đóng vai trò duy nhất là nhà
giáo dục, học sinh không còn chỉ đóng vai trò duy nhất là người được giáo dục;
mà trong quá trình giáo dục vai trò của hai bên có thể được hoán đổi cho nhau,
giáo viên và học sinh cùng giáo dục lẫn nhau. Tinh thần này thể hiện trong mệnh
đề nổi tiếng của Freire: “Không ai giáo dục người khác, không ai tự giáo dục
chính mình, mọi người cùng giáo dục lẫn nhau, thông qua trung gian của thế
giới”. Một đường lối giáo dục như vậy không cho phép tồn tại phương pháp truyền
thụ – tiếp nhận, nó có phương pháp riêng của nó: đối thoại. Đối thoại chính là
phương thức để thực hiện sự giải phóng con người. Hoạt động dạy học trở thành
hoạt động đối thoại. Chỉ với đối thoại học sinh mới có thể ngừng là đối tượng
để trở thành chủ thể, trở thành trung tâm của quá trình giáo dục. Từ quan điểm
này ta sẽ thấy, dù chúng ta có tuyên bố hàng nghìn lần trên đủ mọi phương tiện
truyền thông rằng chúng ta đang thực hiện một nền giáo dục lấy học sinh làm
trung tâm, nhưng nếu chúng ta không cho phép học sinh, sinh viên trình bày suy
nghĩ riêng của họ, kể cả những suy nghĩ đó có thể đối lập với bài giảng của
giáo viên, thì lúc đó vẫn chưa thể có chuyện học sinh là trung tâm. Khi quá
trình giảng dạy còn chưa phải là một quá trình đối thoại, và giáo viên chưa
phải là người tổ chức đối thoại và chưa trở thành đối tượng đối thoại với học
sinh, sinh viên, thì vẫn chưa thể nói tới giáo dục khai phóng. Và lúc đó, chúng
ta lấy cơ sở nào để hy vọng rằng có tinh thần khai phóng ở giới trẻ ?
Muốn
đạt tới việc tự giải phóng cho bản thân mình và giải phóng cho người khác,
trước hết con người phải được khai minh. Và khai minh ở đây được hiểu theo
nghĩa của Kant: có khả năng sử dụng trí tuệ của mình một cách độc lập. Và muốn
có thể độc lập sử dụng trí tuệ của mình thì phải có hai điều: tri thức và sự
dũng cảm. Sau Kant, càng ngày nhân loại càng hiểu rõ vai trò của tri thức. John
Dewey, nhà giáo dục học nổi tiếng của Mỹ, có trách cứ khiếm khuyết trong chương
trình lịch sử phổ thông (dĩ nhiên, nhận xét của ông nhằm vào sách giáo khoa
thời đại ông): “Trong lịch sử phổ thông có lẽ lịch sử tri thức là ngành lịch sử
bị bỏ quên nhiều nhất. Chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu ra rằng các anh hùng vĩ
đại đem lại sự tiến bộ cho số phận của nhân loại KHÔNG PHẢI LÀ (tôi nhấn mạnh –
NTTH) các chính trị gia, các vị tướng, các nhà ngoại giao, MÀ HỌ LÀ (tôi nhấn
mạnh – NTTH) các nhà phát minh và sáng chế khoa học, những người đã đặt vào tay
con người những phương tiện của một kinh nghiệm đang phát triển và được kiểm
soát, và các nghệ sĩ và thi nhân, những người đã ngợi ca những cuộc tranh đấu,
những chiến thắng, và thất bại của nhân loại bằng thứ ngôn ngữ nào đó, dù là
ngôn ngữ hình ảnh, tạo hình hoặc chữ viết, khiến tất cả những người khác đều có
thể cùng sử dụng được ý nghĩa của chúng”1 Một trong những vai trò
của tri thức, mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây, đó là nó tạo điều kiện cho sự hình
thành tinh thần khai phóng. Và giáo dục khai phóng không chỉ làm nhiệm vụ
truyền đạt tri thức, mà, như trên đã nói, nó còn có sứ mệnh chuẩn bị cho học
sinh khả năng tạo ra tri thức.
Một
nền chính trị khai phóng
Muốn
có được một nền giáo dục khai phóng thì điều kiện trực tiếp là phải có một nền
chính trị khai phóng.
Dĩ
nhiên ở đây tôi không có một khái niệm nào (chẳng hạn như “politique
libératrice”) để dựa vào. Bằng cụm từ “nền chính trị khai phóng” này tôi muốn
nói tới một hình thức chính trị, một hình thức tổ chức, điều hành xã hội cho
phép các cá nhân giải phóng và phát triển các năng lực của họ, tôi muốn nói tới
một nền chính trị không kìm hãm con người và không kìm hãm sự phát triển của xã
hội. Trong tất cả các hình thái chính trị mà nhân loại đã biết cho tới hiện
nay, ta thấy một nền chính trị dân chủ và tiến bộ có khả năng đảm bảo sự khai
phóng cho con người trên diện rộng, tức là sự khai phóng ở cấp độ cả cộng đồng.
Tôi không phải là nhà tiên tri, nên không biết trong tương lai liệu loài người
có thể đạt tới hình thái nào khác tối ưu hơn hình thái dân chủ để điều hành xã
hội một cách có hiệu quả và đảm bảo tính nhân bản, đảm bảo cho tự do của con
người. Tôi dẫn ra đây nhận định của John Dewey: “Một xã hội tiến bộ bao giờ
cũng trân trọng những khác biệt cá nhân bởi nó tìm thấy ở đó phương tiện cho sự
tăng trưởng của chính nó. Vì thế, một xã hội dân chủ, phù hợp với lý tưởng của
nó, bắt buộc phải cho phép tự do trí tuệ và sự phát huy các năng khiếu và hứng
thú đa dạng tồn tại trong các biện pháp giáo dục.”2
Như
vậy, tự do trí tuệ và tự do phát triển các năng lực cá nhân là điều kiện cho sự
tăng trưởng của toàn xã hội. Tự do trí tuệ là điều kiện cho sự tiếp thu và sáng
tạo tri thức; tiếp thu và sáng tạo tri thức chính là hoạt động khai phóng. Nếu
chúng ta không hiểu được điều này, không biến sự hiểu biết này thành các chính
sách, các chương trình hành động cụ thể, thì khó mà có thể nói đến sự tăng
trưởng hay sự phát triển của xã hội. Nếu không có một nền chính trị cho phép
tồn tại và phát triển nền giáo dục khai phóng, cho phép tự do trí tuệ, tự do
chiếm lĩnh và sáng tạo tri thức, thì các điều kiện cho sự phát triển bền vững
sẽ không hình thành được. Vì các điều kiện đó hình thành trên nguồn lực con
người. Một nền chính trị thiếu dân chủ sẽ thủ tiêu các năng lực, các tiềm năng
sáng tạo của con người. Đó là căn nguyên sâu xa nhất của mọi sự trì trệ, lạc
hậu, kém phát triển, yếu kém, lệ thuộc.
Trong
một nền chính trị thiếu dân chủ, khi nhà trường trở thành công cụ tuyên truyền
cho các đường lối mang tính áp đặt, thì dĩ nhiên phương thức đối thoại ít có cơ
may được sử dụng, hoặc đối thoại chỉ mang tính hình thức, vì rốt cuộc các trao
đổi, nếu có, cũng chỉ dẫn tới việc sinh viên buộc phải chấp nhận các kết luận
mang tính áp đặt của giáo viên. Một nền giáo dục mang tính áp đặt, khó mà có
thể phát triển tư duy cho học sinh, cùng lắm chỉ có thể giúp phát triển các
năng lực nhớ trong não bộ của học sinh. Trong lúc đó, từ lâu, từ thế kỷ XIX,
với John Dewey, học đã không còn là học thuộc lòng, không còn là tích lũy kiến
thức, mà “học tức là học tư duy”. Mục đích của giáo dục là hình thành các năng
lực tư duy. Mục đích đó chỉ đạt được khi đối tượng của tư duy là thực tại, là
những gì gắn với đời sống của người tư duy. John Dewey viết: “Nếu tư duy chẳng
liên quan gì đến điều kiện có thực và nếu nó không xuất hiện một cách hợp
lo-gich từ những điều kiện này để đi tới sự suy tưởng về mục đích phải đạt
được, khi ấy con người sẽ không bao giờ phát minh, hoặc không bao giờ lên kế
hoạch, hoặc không bao giờ biết cách nào để thoát khỏi bất kỳ sự rắc rối hay khó
khăn nào. Như chúng ta đã lưu ý, nhờ những yếu tố cố hữu lẫn sức ép của hoàn
cảnh mà tư duy có những đặc tính lo-gich hoặc đặc tính của tư duy đích thực”.3
Như
vậy, rõ ràng đặc tính của tư duy đích thực chỉ hình thành khi tư duy cọ xát với
các vấn đề của thực tại, mà John Dewey gọi là “điều kiện có thực”. Nếu một nền
chính trị, thông qua trường học, không cho phép học sinh sinh viên đối chiếu
kiến thức sách vở với thực tế của họ, không cho phép họ dùng các kiến thức sách
vở để suy nghĩ về các vấn đề có thực của đời sống, thì học sinh sinh viên sẽ
không thể phát triển tư duy. Hệ quả là dù có trải qua bao nhiêu năm trên ghế
nhà trường đi nữa, dù có các bằng cấp cao đến mấy đi nữa, thì những con người
bị đào tạo bởi một nền giáo dục áp chế, trong một nền chính trị áp chế, sẽ
không thể có phát minh, như Dewey nhận xét, sẽ không có khả năng giải quyết các
khó khăn, không có khả năng giải quyết các vấn đề do thực tại đặt ra. Chúng ta
có thể kiểm chứng kết luận này, mà John Dewey đã nêu ra cách đây cả thế kỷ,
bằng hiện thực của chúng ta ngày hôm nay, cái hiện thực về sự lúng túng của
toàn bộ cộng đồng chúng ta trong việc giải quyết các vấn nạn của xã hội. Sự
lúng túng này là dấu hiệu bộc lộ sự yếu kém chung của chúng ta, là dấu hiệu
chứng tỏ các năng lực người của chúng ta bị cạn kiệt, chứng tỏ năng lực tư duy
của chúng ta suy yếu. Chúng ta rất đông về dân số, nhưng so với một cộng đồng
ít ỏi như Singapore, chúng ta quả thật là kém họ trên rất nhiều phương diện.
Các năng lực tiềm tàng của chúng ta không thua kém họ, tôi tin là như vậy.
Nhưng các năng lực đó đã không được khai phóng để tạo thành sức mạnh. Chúng ta
nên làm cái thao tác kiểm chứng này để hiểu tại sao cần một nền giáo dục khai
phóng và một nền chính trị dân chủ, không phải cho ai khác, mà cho chính mỗi
chúng ta, cho con cháu chúng ta và cho tương lai của cả xứ sở này. Chúng ta cần
phải nhìn vào tương lai để điều chỉnh những cách vận hành của hiện tại, bởi nếu
chúng ta không điều chỉnh hiện tại này thì có nguy cơ sẽ đánh mất tương lai.
Tôi dẫn lại ở đây ý kiến của Dewey: “Con người không dùng hiện tại để kiểm soát
tương lai. Con người dùng sự nhìn thấy trước tương lai để điều chỉnh và mở rộng
hoạt động hiện tại. Sử dụng sự ham muốn, sự suy nghĩ và lựa chọn theo cách này,
tự do được hiện thực hóa”.4
Trên
đây là các điều kiện (dĩ nhiên chưa đầy đủ), theo tôi, để hình thành tinh thần
khai phóng cho các thế hệ, trên phạm vi rộng. Thiếu các điều kiện đó thì hậu quả
là cộng đồng sẽ không được khai phóng. Tuy nhiên, đối với các cá nhân thì không
hẳn. Trong một môi trường không có cả giáo dục khai phóng lẫn chính trị khai
phóng ta thấy vẫn có các cá nhân được khai phóng. Nhưng chúng tôi sẽ không đề
cập đến vấn đề này trong phạm vi bài viết này, ngoại trừ một điều: môi trường
càng thiếu vắng các điều kiện cho sự khai phóng cộng đồng, thì lại càng cần có
các cá nhân có tinh thần khai phóng.
N.
T. T. H.
——–
——–
1
John
Dewey, Dân chủ và giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Tri Thức, 2008, tr. 257.
2 Dân chủ và giáo dục, sđd, tr. 361.
2 Dân chủ và giáo dục, sđd, tr. 361.
3 John Dewey- Về giáo
dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Trẻ & Dtbooks, 2012, tr. 343.
4 John Dewey- Về giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Trẻ & Dtbooks, 2012, tr. 156
4 John Dewey- Về giáo dục, Phạm Anh Tuấn dịch, NXB Trẻ & Dtbooks, 2012, tr. 156
No comments:
Post a Comment