12:00:am
24/01/13
Huy
Đức, tên thật là Trương Huy San, sinh năm 1962 tại Hà Tỉnh, năm nay 51 tuổi.
Khi những chiếc xe tăng đầu tiên của quân đội Cộng sản Bắc Việt xô sập cổng
Dinh Độc Lập tại Sài gòn và chấm dứt cuộc nội chiến ông mới lên 13, một tuổi
còn quá nhỏ để hiểu ý nghĩa lịch sử của nó.
Ông
nhập ngũ năm 17 tuổi và trở thành sĩ quan, công tác một thời gian tại chiến
trường Cambodia, trước khi trở về làm báo. Năm
2005, ông được chính quyền Hà Nội gởi đi tu nghiệp tại Maryland, Hoa Kỳ.
Năm 2006 về nước, tiếp tục làm báo. Năm
2012 ông lại được gởi qua đại học Harvard, một đại học nổi tiếng tại Hoa Kỳ để
nghiên cứu về “phân tích chính trị”. Gởi học viên đi tu nghiệp tại các nước
tư bản là một phần trong chương trình đào tạo chính quy các nhà lãnh đạo tương
lai tại Trung quốc khi thế giới bước vào kỷ nguyên “toàn cầu hóa” (1). Ông Huy Đức đang
ở Hoa Kỳ khi cho xuất bản bộ sách “Bên Thắng Cuộc”.
Theo
tác giả, khi có cơ hội tiếp cận với miền Nam, anh –cũng như bà Dương Thu Hương
– nhận thấy miền Nam không giống gì với những điều đảng Cộng sản Việt Nam đã
dạy dỗ anh. Từ năm 1980, vừa làm báo anh vừa để tâm thu thập tài liệu để viết
một tài liệu về cuộc chiến Việt Nam để tự trả lời các thắc mắc của chính anh
đối với các hiện tượng chính trị và xã hội trước mắt. Và công việc biên soạn
này trở thành một thúc bách khi tình hình khối Cộng sản quốc tế biến chuyển một
cách căn bản .
Tại
Liên bang Xô viết, Gorbachev đề ra chương trình cởi mở chính trị “glasnost” và
cải tổ hành chánh “perestroika” đưa đến sự sụp đổ của Đông Âu. Năm 1986 tại Đại
Hội 6, đảng Cộng sản Việt Nam quyết định “đổi mới”. Và cuối thập niên 1980 Liên
bang Xô viết sụp đổ, đảng Cộng sản Liên xô bị giải tán.
Huy Đức có cơ hội và
được phép sưu tầm tại liệu cũng như tiếp xúc và phỏng vấn các nhân vật chính
yếu của chế độ cho thấy anh được khuyến khích và giúp đỡ. Một luồng tư tưởng
mới hay một sáng kiến ở sau lưng dự án?
Bộ
sách “Bên Thắng Cuộc” hoàn tất năm 2012 được Huy Đức trình bày thành 2 cuốn.
Cuốn I “Bên thắng Cuộc: Giải phóng”, cuốn II “Bên Thắng Cuộc: Quyền bính”. Hai
cuốn sách gộp lại dày 1000 trang cỡ chữ 11, gồm 22 Chương, 195 Danh Mục Tác
phẩm và 52 Hồi ký, Bản thảo truyền tay trong nước được dùng để tham khảo, với
1262 mục chú thích . Phần chú thích (Cuốn I 82 trang, cuốn II 66 trang) tổng
cộng 148 trang là một phần không thể tách rời với bộ sách. Tác giả để riêng ra
để cho phần trình bày có tính liên tục.
Bộ sách của Huy Đức
là một tác phẩm đồ sộ. Đồ sộ ở bề dày của nó đã đành, nó còn “đồ sộ” ở chỗ tác
giả của nó là một người Cộng sản nhưng không viết để ca ngợi chiến thắng và
tuyên truyền cho tính vô địch của chủ thuyết Mác- Lê Nin.
Cuốn
sách là một tài liệu lịch sử mặc dù tác giả không trình bày dưới lăng kính của
một nhà viết sử. Tác giả đóng vai một bác sĩ giải phẫu mổ xẻ một cơ thể, trình
ra những sự kiện lịch sử có chứng liệu. Trong đó những nhân vật lịch sử suy
nghĩ, hành xử và thao tác trước thực tế khách quan.
Cuốn
sách trình bày một cuộc sống lịch sử có tính nhân sinh sống động. Qua đó người
đọc đôi khi thấy quy luật của cuộc sống át hẵn quy luật lịch sử. Ông Võ Văn
Kiệt, ông Đỗ Mười, ông Lê Duẫn …, ông Nguyễn Văn Thiệu, ông Kissinger … , ông
Võ Nguyên Giáp , ông Văn Tiến Dũng … tuy vẫn còn là những Thủ tướng, những Tổng
Bí thư, Tổng thống, Cố vấn chính tri …, những ông Tướng … nhưng chính yếu dưới ngòi
bút của Huy Đức là những con người bằng xương bằng thịt lấy những quyết định
lịch sử của mình liên quan đến cái sống và cái chết của hằng trăm ngàn người
khác như một con người trước thực tế sinh động và hạn chế của nó.
Những ai quan tâm
đến những biến chuyển của lịch sử diễn ra trên đất nước chúng ta trong 60 năm
qua tìm thấy qua bộ sách “Bên Thắng Cuộc” một bức tranh hậu trường trọn vẹn bên
phe xã hội chủ nghĩa.
Tác giả gạn lọc và trình bày một bức tranh nối kết sự kiện này với sự kiện khác
một cách nhân quả (causal). Đối với các nhà nghiên cứu, cuốn sách cung cấp
những sử liệu về người và việc từ trước đến nay không có sẵn sàng như vậy.
Cuốn “Bên Thắng
Cuộc” là một cuốn sách nói về những cay đắng của người thắng cuộc. Thắng xong
mới thấy mình mới là kẻ bại trận. Cuốn sách cũng chứa đựng những oái oăm của
cuộc sống . Chỉ riêng mối tình của Lê Duẫn với bà Nguyễn Thụy Nga người vợ thứ
do Đảng cưới cho ông tại Cà Mâu năm 1948 trong thời gian chống Pháp đã có đủ
chất liệu cho một thiên tình sử. Ông Duẫn có những ngày hạnh phúc với bà Nga
khi ông còn lãnh đạo phong trào Cộng sản ở miền Nam trước Hiệp Định Geneve năm
1954. Năm 1957 khi ông được điều ra Bắc trở thành Bí thư thứ nhất của đảng với
quyền uy chính trị chỉ sau ông Hồ Chí Minh ông đã không bảo vệ nổi bà Nga trước
lối sống công thức giữa một thủ đô vừa lấy lại trong tay người Pháp và áp lực
của người con gái lớn của bà vợ cả. Bà Nga được gởi đi học và sống một mình ở
Trung quốc 5 năm, sau đó trở lại miền Nam tham gia cuộc đấu tranh chống chính
quyền miền Nam. Vợ ông Võ Văn Kiệt, bà Trần Kim Anh và hai con nhỏ bị bom chết
năm 1966 trên đường di chuyển từ Bến Cát đến căn cứ Củ Chi ông Kiệt gặp khó
khăn trong đời sống gia đình cho mãi đến năm 1984 khi cưới bà Phan Lương Cầm,
con ghẻ tướng Phan Tử Lăng và vẫn không yên với dư luận vì bà Cầm quá mới! Tách
chúng ra khỏi cuốn sách đó là những mối tình rất con người. Nó bị cọ xác và đầy
đọa bởi chiến tranh, phân ly, ghen tuông, quyền lực và phong tục tập quán.
Tôi
còn nhớ một bi kịch xẩy ra tại trại cải tạo Lam sơn, trong tỉnh Khánh hòa khi
tôi đang bị giam tại đó cuối năm 1975 giữa một cán bộ Cộng sản và một Trung úy
quân đội Việt Nam Cộng Hòa trẻ tuổi. Trong một buổi lên lớp khi người cán bộ xỉ
vả học viên là phản bội tổ quốc, viên Trung úy đứng lên nói, anh không phản bội
ai cả. Anh nói: “Nếu Mẹ tôi sinh tôi ra trên vĩ tuyến 17 thì bây giờ tôi cũng
đang đứng chỗ của anh và có thể đang mắng nhiếc anh là phản quốc.” (2)
Trong
thời gian sau cuộc cách mạng tháng 8/1945, người Pháp trở lại, nhưng một số
vùng như Thanh-Nghệ -Tỉnh, Bình Định-Phú Yên, Cà Mâu -Đồng Tháp vẫn nằm trong
vòng kiểm soát của phe kháng chiến do đảng Cộng sản lãnh đạo, và nhiều thanh
niên vì điều kiện địa lý này đã ở bên này hay bên kia và có khi anh em một nhà
biến thành kẻ thù bắn giết nhau. Bên thắng hay bên thua chỉ là ngẫu nhiên của
lịch sử và may mắn hay rủi ro của từng số phận. Cái còn lại là cái tâm.
Nhưng
có cái tâm tốt chưa chắc vượt ra khỏi nghịch cảnh. Sau năm 1975 ông Võ Văn Kiệt
giữ chức vụ lãnh đạo tại Sài gòn- Gia Định ông cũng phải ngăn sông cấm chợ để
cho dân Sài gòn nằm trên vựa lúa mà đói. Guồng máy buộc ông làm vậy nếu ông
không muốn bị kết án là phản cách mạng, phản bội nguyên tắc kinh tế tập trung
xã hội chủ nghĩa! Nhưng ít nhất ông Kiệt còn trăn trở tìm lối thoát ra khỏi cái
gông tự tròng vào cổ mình của đảng. Bên cạnh còn biết bao kẻ tầm thường tin
tưởng tuyệt đối chủ thuyết Mác Xít: Đỗ Mười, Võ Chí Công, Đào Duy Tùng, Lê Khả
Phiêu, Nông Đức Mạnh … Thật khó mà định giá những nhân vật như Hồ Chí Minh, Lê
Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Lê Đức Thọ … để biết họ muốn gì. Họ là những
tay “ma nớp” quyền lực như một thú vui trong khung cảnh lịch sử mà họ đang
sống?
Huy
Đức vẽ con người rất con người và các sử gia nếu muốn nghiên cứu các lãnh tụ
Cộng sản Việt Nam thì bộ sách của Huy Đức là một nguồn tài liệu phong phú muôn
màu muôn vẻ.
Nhưng
nét nổi bật nhất của bộ sách là đường nét ngây ngô của bộ máy Đảng. Cải cách
ruộng đất, cải tạo tư sản, ngăn sông cấm chợ, sở hữu công của tư liệu sản xuất,
đất đai thuộc về toàn dân là những nhát búa đảng Cộng sản tự đập vào chân mình.
Bộ
sách “Bên Thắng Cuộc” cho thấy trong thập niên 1980 đảng Cộng sản Việt Nam đã
vùng vẫy để thoát hiểm trước cơn giông tố đang làm lung lay tận gốc phong trào
cộng sản thế giới. Gorbachev tại Liên xô. Đặng Tiểu Bình ở Trung quốc với “mèo
trắng mèo đen mèo nào cũng tốt miễn là bắt được chuộc”. Thắng cuộc, nhưng Việt
Nam phải “đổi mới” để tồn tại. Nhưng “đổi mới” mà không có chính sách. Chỉ có
những bước mò mẫm trong sương mù của “kinh tế thị trường” không định hướng,
ngoại trừ “định hướng xã hội chủ nghĩa” để níu kéo lĩnh vực quốc doanh cứu
đảng.
Kết quả duy nhất của
sự đổi mới mà vẫn duy trì chế độ độc đảng là làm cho dân “có gạo ăn” nhưng
không xây dựng được tiềm năng của quốc gia. Chính sách của quốc gia dựa vào trí tuệ giới hạn nếu
không muốn nói là kém cỏi của “Bác” của anh Ba, anh Sáu, anh Mười … một cách
rất là tùy tiện.
Bộ
sách của Huy Đức có một nét đặc thù là không những bày ra cái yếu kém của chủ
nghĩa Mác, mà còn bày ra cái yếu kém của người Việt Nam. Người Việt Nam thông
minh, nhưng thiếu cái nhìn lớn và vọng ngoại. Dân khổ triền miên vì vậy.
Nhìn
bộ sách đồ sộ của Huy Đức khó mà nghĩ một cách đơn giản rằng đó là thành quả
của một cá nhân. Anh Huy Đức dù xông xáo cũng khó tiếp cận với tài liệu nhất là
tiếp cận phỏng vấn các nhân vật đang nắm quyền lực mà thói quen sinh hoạt của
đảng là mật, cái gì cũng là mật.
Năm
1967 bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara trong khi điều hành cuộc chiến
Việt Nam nhận ra sự phi lý của cuộc chiến mà quốc gia và cá nhân ông đang vướng
vào, ông kín đáo cho lập một Ủy ban nghiên cứu các biến chuyển từ năm 1945 dẫn
đến cuộc chiến tranh. Tài liệu nghiên cứu được gọi là “Hồ sơ của Lầu Năm Góc”
(The Pentagon Papers). Bộ sách của Huy Đức có nét tương tự của Pentagon Papers.
Phải chăng mục đích của bộ sách là thu thập dữ kiện một cách khách quan để tìm
ra nguyên ủy của các mâu thuẫn ngự trị trên đất nước Việt Nam? Cái khác bề
ngoài phải chăng là công việc truy tìm này được giao phó cho Huy Đức như một
nghiên cứu cá nhân?
Bộ
sách của Huy Đức phanh phui ra các dữ kiện tự nhiên từ việc này dẫn đến việc
khác cho thấy tại sao chúng ta là nạn nhân. Nạn nhân của hoàn cảnh lịch sử, nạn
nhân của các tranh chấp quốc tế, và trên hết là nạn nhân của chính tầm nhìn kém
cỏi của chúng ta.
Nếu
tài liệu “The Pentagon Papers” đã giúp cho nhân dân Hoa Kỳ vượt qua “Hội chứng
Việt Nam” để nhanh chóng hóa giải căng thẳng và sự chia rẽ trong xã hội do cuộc
chiến Việt Nam gây ra thì bộ sách “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức cũng có thể là
một liều thuốc hóa giải sự chia rẽ dân tộc Việt Nam giữa người thắng kẻ thua.
Câu
hỏi then chốt là chúng ta đã sẵn sàng để hòa giải với nhau chưa?
Trong
phần kết thúc cuốn sách tác giả kết luận: “Giá như không phải là ý thức hệ mà
tự do và hạnh phúc của nhân dân là nền tảng hình thành chính sách của đảng Cộng
sản Việt Nam, đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, thì người dân
đã tránh được chuyên chính vô sản, tránh được cải cách ruộng đất, cải tạo tư
sản, tránh được “Nhân Văn Giai Phẩm, tránh được biết bao cuộc binh đạo xung đột
trong nội bộ gia đình”.
Và giờ đây đảng Cộng
sản Việt Nam vẫn còn duy trì Điều 4 Hiến pháp nắm trọn quyền lãnh đạo đất nước,
đảng vẫn chưa trả quyền tự do ngôn luận cho dân, đảng vẫn còn ràng buộc với ý
thức hệ Mác xít chưa chịu trả quyền tư hữu và quyền sở hữu đất đai lại cho dân thì rõ là chưa có cơ hội hòa
giải dân tộc.
Nhưng
con đường thiên lý nào cũng phải bắt đầu bằng dặm đầu tiên. Bộ sách “Bên Thắng
Cuộc” của Huy Đức là bước bắt đầu và là một bước tích cực của quá trình hoà
giải dân tộc.
Jan
23, 2013
©
Trần Bình Nam
© Đàn Chim Việt
© Đàn Chim Việt
Chú thích:
(1):
Theo The Life of the Party: The Post Democratic Future Begins in China của Eric
X. Li – Foreign Affairs Jan-Feb. 2013
(2)
Cán bộ trại đã phạt nhốt viên Trung úy vào thùng sắt, loại connex quân đội Mỹ
dùng chuyên chở quân dụng.
---------------------------
2
Phản hồi cho “Đọc “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức”
Nguyen Huu Du says:
Trích:”"Chỉ
riêng mối tình của Lê Duẫn với bà Nguyễn Thụy Nga người vợ thứ do Đảng cưới cho
ông tại Cà Mâu năm 1948 trong thời gian chống Pháp đã có đủ chất liệu cho một
thiên tình sử.”(Hết trích) Chuyện nầy không lãng mạn như ông Huy Đức viết. Muốn
biết rõ chuyện Lê Duẩn cướp bà Nga như thế nào, xin hỏi những người đã ở trong
bưng với Lê Duẩn lúc đó. Bà Nga đang ngủ trưa trên võng bị bắt đi…Tôi không
thích kể lại vì đây là chuyện private. Ông Huy Đức hoặc không biết hoặc muốn
làm đẹp cho LD. Bà Nga bị chuyện đã rồi, đành chấp nhận. Nhiều chuyện trong
sách nầy cần phải xét lại, vì dù sao Huy Đức cũng chỉ là một cán bộ CS.
ND
ND
No comments:
Post a Comment