31-12-2012
Khối 8406
Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006
Email: vanphong8406@gmail.com
|
Nhận định
tổng kết
về tình
hình Việt Nam năm 2012
Kính
gửi:
‒ Toàn thể đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
‒ Các chính phủ dân chủ, các tổ chức nhân quyền và
cộng đồng thế giới tự do.
Quyền
lợi và nghĩa vụ của công dân là lên tiếng để xây dựng đất nước và canh tân xã
hội. Vì thế, trước khi kết thúc năm 2012, một năm có nhiều biến động lớn lao
trên nhiều mặt của quốc gia, Khối 8406 chúng tôi có những nhận định sau đây về
tình hình xã hội và đất nước:
1-
Về mặt chính trị, đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng ra sức củng cố ách độc tài
độc đảng để bám lấy quyền lực, dù mất hết uy tín trước nhân dân. Đang khi thế
giới càng lúc càng đi vào xu hướng toàn cầu hóa về dân chủ, đặc biệt qua các
cuộc cách mạng chống độc tài tại Trung Đông và Bắc Phi năm rồi, qua sự chuyển
dần từng bước theo con đường dân chủ của Myanmar và qua cuộc chiến ác liệt
chống chế độ bạo tàn tại Syria hiện nay; đang khi nhân dân trong nước càng lúc
càng đấu tranh mạnh mẽ để đòi hỏi quyền tự do của con người, quyền tự quyết của
dân tộc, quyền toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, đặc biệt qua nhiều trang mạng và
trang blog “lề dân”, qua nhiều văn bản tập thể của giới trí thức, giới thanh
niên và giới đối kháng, qua nhiều cuộc xuống đường biểu tình yêu nước; thì bất
chấp lòng dân và xu hướng thời đại, đảng CSVN ngày càng ra sức siết chặt ách
độc tài đảng trị, ngày càng tăng cường đàn áp, khủng bố ác liệt tất cả những ai
phản đối lối hành động, phê phán kiểu cai trị và chất vấn quyền lãnh đạo tuyệt
đối lẫn toàn diện của đảng. Cụ thể là qua Tuyên bố của Hội nghị lần 6 của Ban
Chấp hành Trung ương hồi tháng 10, qua kế hoạch sửa đổi Hiến pháp năm 1992
trong đó điều 4 được đảng khư khư giữ lại, qua tuyên bố mới đây của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng nhất quyết không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập và
qua chủ trương thường hằng là dùng công an, quân đội, kể cả các tổ chức đoàn
thể của nhà nước làm công cụ đàn áp nhân dân. Tất cả các động thái đó chứng tỏ
đảng CSVN muốn thống trị đất nước vô thời hạn dù vô tài, bất lực, mất uy tín,
và cho thấy việc kêu gọi toàn dân góp ý sửa đổi Hiến pháp trong những ngày sắp
tới chỉ là trò khôi hài và lừa bịp.
2-
Về mặt kinh tế, đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì khẳng định kinh tế nhà nước là
chủ đạo và các công ty tập đoàn nhà nước là ưu tiên. Cho đến nay, đường lối
kinh tế ấy đã dẫn tới tình trạng tổng sản lượng nội địa (GDP) ngày càng đi
xuống, các tổng công ty, đại tập đoàn quốc doanh thi nhau vỡ nợ, nhiều ngân
hàng liên tiếp suy sụp, đồng tiền từ từ mất giá, thị trường bất động sản càng
lúc càng đóng băng, hàng trăm ngàn công ty và doanh nghiệp tư nhân phải giải
thể. Lý do là đảng viên, nhất là cán bộ cấp cao, đã tung rất nhiều tiền (do
tham nhũng mà có) để mở công ty sân sau, mua đất đai nhà cửa, đầu cơ vào chứng
khoán, bất động sản; làm kinh tế chỉ lo trục lợi cho mình chứ không phải phục
vụ đồng bào xã hội, và lợi dụng quyền lực lẫn sự ưu ái của đảng để giết chết
các công ty vừa và nhỏ do tư nhân làm chủ. Tất cả đã khiến nền kinh tế thị
trường gọi là “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” ngày càng đẩy tuyệt đại đa số
nhân dân vào cảnh khốn cùng. Dù vậy, sau Hội nghị Trung ương 6, đảng tiếp tục
duy trì chính sách kinh tế bất công và sai lạc đó, kèm theo việc ra nghị định
về vàng và đôla, nhằm giúp các công ty của đảng viên bù lỗ trả nợ và tạo điều
kiện cho các đảng viên tiếp tục vơ vét làm giàu, bất chấp dân tình điêu linh
khốn khổ, ngõ hầu đảng tiếp tục nắm giữ quyền lực. Ngoài ra, dẫu đã làm cho nền
kinh tế Việt Nam suy thoái, trì trệ suốt bao năm qua, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
chỉ chịu trách nhiệm “chính trị” trước đảng thay vì trách nhiệm hành chính
(thậm chí hình sự) trước quốc dân.
3-
Về mặt pháp chế, đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục coi các bộ luật và toàn thể hệ
thống tòa án là công cụ bảo vệ quyền lực độc đoán của mình hơn là bảo vệ công
lý và sự thật. Nhiều bản văn pháp luật (liên quan đến tôn giáo, báo chí, đất
đai, biểu tình…) được đưa ra hay tu chính chẳng hề nhắm đến quyền lợi chính
đáng của công dân, mà chỉ để củng cố quyền uy của đảng. Công an điều tra, viện
kiểm sát công tố, chánh thẩm và bồi thẩm vẫn nhất nhất tuân lệnh đảng, vẫn
không ngừng câu kết với nhau, đặc biệt trong các phiên tòa chính trị, để trừng
phạt các công dân dám lên tiếng phản đối bất công bạo hành của người nhà nước,
đòi lại các quyền lợi như đất đai, nhà cửa bị cán bộ đảng viên cướp đoạt, đấu
tranh cho các quyền tự do tôn giáo, bầu cử, ngôn luận, lập hội…, chống lại
ngoại bang xâm lấn bằng biểu tình, viết bài, sáng tác nhạc, rải truyền đơn….
Các luật sư tiếp tục bị ngăn cản tác nghiệp từ nghiên cứu hồ sơ đến biện hộ
trước tòa, các bị cáo tiếp tục bị tước các quyền cơ bản như hỗ trợ tâm lý, cố
vấn pháp luật, bào chữa bản thân, các thân nhân bằng hữu của họ bị cấm tham dự
phiên tòa, thậm chí bị hành hung lăng nhục. Bằng chứng là các phiên tòa xử 4
sinh viên tại Nghệ An, 3 thành viên Câu lạc bộ Nhà báo tự do và 2 nhạc sĩ yêu
nước tại Sài Gòn vừa qua. Nhiều tù nhân lương tâm tiếp tục bị hành xử khắc
nghiệt (cưỡng bức tâm lý, tra khảo đánh đập, không chăm sóc y tế đầy đủ…) hòng
buộc họ phải nhận tội, hầu lường gạt công luận rằng luật pháp và án xử nhà nước
là chính đáng, như trong trường hợp bà Mai Thị Dung, ông Nguyễn Xuân Nghĩa, anh
Đoàn Huy Chương…
4-
Về mặt dân sinh, đảng Cộng sản Việt Nam không từ bỏ chính sách “đất đai thuộc
về toàn dân do nhà nước đại diện sở hữu”. Từ hơn 20 năm qua, chủ trương bất
công trắng trợn và hết sức phi lý này, quan niệm hư ảo và lừa bịp này -được
dùng làm cốt tủy cho Luật đất đai- đã tước bỏ quyền tư hữu ruộng đất mà lịch sử
và nhân loại hàng nghìn năm nay xác nhận là chính đáng. Chính sách đó đã mở
đường cho các quan chức, cán bộ, đảng viên địa phương cướp trắng gia sản tổ
tiên, công sức xương máu của hàng chục triệu nông dân và thị dân qua chiêu bài
“quy hoạch phát triển”. Nó đã đẩy hàng triệu gia đình vào đường cùng, lâm cảnh
vô nghề vô nghiệp, dở sống dở chết. Nó khiến nhân dân lo âu hồi hộp tại nơi
đang sống, và nông dân không chí thú làm ăn, chẳng buồn làm cho đất đai thêm
màu mỡ. Hội nghị Trung ương 6 và Dự thảo Luật đất đai sửa đổi vẫn ngoan cố bám
giữ chính sách sai lầm đó và duy trì tình trạng thê thảm này của dân oan.
Ngoài
ra, việc trung ương đảng quyết tâm đeo đuổi dự án khai thác bauxite tại Tây
Nguyên dù rõ ràng có nguy cơ cho quốc phòng an ninh lẫn tàn phá môi trường,
quyết tâm xây dựng nhà máy điện nguyên tử tại Ninh Thuận, dù rõ ràng có nguy cơ
làm suy kiệt công khố và gây thảm họa hạt nhân, cũng như việc nhiều địa phương,
đặc biệt tại miền Trung, xây dựng các đập thủy điện cách bừa bãi, ẩu tả (như
tại Sông Tranh 2, Dak Rông, Dak Mek) và quản lý các đập thủy điện cách vô trách
nhiệm (gây lũ lụt lẫn hạn hán), tất cả những sự kiện ấy đó đã làm cho dân sinh
ngày càng đầy lo âu và khốn khổ.
5-
Về mặt tôn giáo, đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một, vẫn nuôi ý đồ biến
các Giáo hội thành công cụ phục vụ chế độ. Sau bao nhiêu năm thất bại trong việc
tiêu diệt tôn giáo bằng bạo lực vũ khí, Cộng sản đã chuyển sang phương pháp bạo
lực hành chánh bằng Pháp lệnh tôn giáo tín ngưỡng năm 2004. Để lừa gạt công
luận trong và ngoài nước, CS chỉ thí ban các thứ tự do tôn giáo phụ tùy như tổ
chức lễ hội, xây dựng điện thờ, cho chức sắc ra ngoại quốc (nhưng chỉ đối với
những ai và những nơi không có vấn đề với chế độ). Còn những thứ tự do tôn giáo
chủ yếu và đích thật như quyền có quy chế pháp nhân, quyền độc lập trong tổ
chức, tự do trong sinh hoạt, quyền rao giảng giáo lý cho quần chúng và tham gia
việc giáo dục giới trẻ thì không có trên lý thuyết lẫn thực tế. Trên lý thuyết,
nhà cầm quyền CS vừa ban hành Nghị định 92 thay thế Nghị định 22 năm 2005 để áp
dụng Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo. Chi tiết hơn, thâm độc hơn, Nghị định 92
này như một sợi dây thòng lọng ngày càng siết cổ tôn giáo để biến các Giáo hội
hoặc thành những cơ thể thiếu máu hoặc thành những công cụ ngoan ngoãn. Trong
thực tế, các cuộc đàn áp vẫn tiếp tục xảy ra cho mọi Giáo hội. Công giáo thì tại
Kontum, Thanh Hóa và Nghệ An, nơi có những nhà thờ bị chiếm đoạt, bị phá hoại,
những nghĩa trang bị xúc phạm, những linh mục bị hành hung, những giáo dân bị
cầm tù. Phật giáo Hòa Hảo thì nhiều tín đồ bị cầm tù oan ức hay bị hành hạ
trong ngục, giáo lý và giáo chủ bị lăng nhục phỉ báng. Phật giáo Thống Nhất thì
nhiều chùa chiền bị cấm cửa đối với tín đồ, bị đe dọa xóa bỏ, nhiều tăng sĩ bị
quản chế, bị cản trở tu trì, hoằng pháp hay hành thiện, nhiều lễ hội bị gây
rối, cản trở. Tin Lành thì nhiều mục sư và tín đồ bị cầm tù, nhiều Hội thánh bị
sách nhiễu cấm cản trong sinh hoạt v.v…
6-
Về mặt đối ngoại, đảng Cộng sản Việt Nam càng lúc càng lộ nguyên hình là tay
sai của đảng Cộng sản Trung Quốc và là “thái thú” của chúng trên đất Việt. Vốn
đã lệ thuộc Tàu cộng một cách chặt chẽ từ thời Hồ Chí Minh, tái lệ thuộc một
cách ô nhục thời Đỗ Mười (hội nghị Thành Đô 1990), nay đảng CSVN ngày càng lệ
thuộc Tàu cộng kiểu sinh tử qua những nhượng bộ trong việc ký kết các hiệp định
về lãnh thổ và lãnh hải, qua những yếu hèn trong việc để cho Tàu cộng xâm nhập
nội bộ, chính trị, lãnh thổ, văn hóa, thương mại, qua những suy sụp về kinh tế
tài chánh do điều hành đất nước cách ngu xuẩn và tham tàn đến độ phải nhờ Tàu
cộng ra tay cứu trợ. Từ mấy năm nay, sự lệ thuộc kiểu chủ tớ đó ngày rõ nét qua
sự kiện đảng luôn mồm tụng niệm “l6 chữ vàng”, “4 chữ tốt”, luôn thay nhau qua
Bắc Kinh để triều kiến, nhận chỉ thị, luôn ra lệnh cho các bộ, các cơ quan nhà
nước giao lưu, hợp tác toàn diện với Trung Quốc; qua việc đảng luôn bỏ mặc nhân
dân trên đất liền bị xua đuổi khỏi những vùng đất nhượng cho Trung Quốc (rừng
phòng hộ biên giới phía Bắc, khu khai thác bauxite Tây Nguyên, phố Tàu Bình
Dương, Hà Tĩnh, hải cảng Vũng Áng…), hoặc bỏ mặc ngư dân trên biển cả cho tàu
dân sự lẫn tàu quân sự của Trung Quốc cấm cản, cướp bóc, bắn giết; qua sự kiện
đảng hạn chế hoặc cấm tiệt việc nghiên cứu và phổ biến về chủ quyền Hoàng Sa
Trường Sa, việc tưởng niệm các chiến sĩ bỏ mình khi bảo vệ biên giới và hải
đảo, việc xuống đường biểu tình, sáng tác ca khúc hay rải truyền đơn viết biểu
ngữ của nhân dân cả nước chống quân xâm lược. Gần đây hơn là việc đảng tăng
cường các loa miệng và loa đài nhằm “giáo dục” nhân dân về “lòng biết ơn, tình
hữu nghị” đối với Trung Quốc và nhằm ru ngủ nhân dân hãy “để đảng và nhà nước
lo chuyện bang giao” với cái nước lớn luôn nuôi mộng thôn tính VN này.
Đàng
khác, cũng trên mặt đối ngoại, đảng CSVN đang tăng cường việc gởi viên chức
ra nước ngoài, đến các cộng đồng người
Việt tỵ nạn khắp thế giới, một đàng để chiêu dụ đầu tư vào nước, kêu mời đóng
góp xây dựng quê hương (thực chất là để cứu nguy chế độ đang cạn kiệt tiền
bạc), một đàng để “đối thoại” với các cá nhân và tổ chức tranh đấu, hứa hẹn cho
“tham gia” vào Quốc hội, tìm “con đường hòa giải hòa hợp” (thực chất là để
triệt tiêu tinh thần chống độc tài toàn trị Cộng sản, lũng đoạn phân hóa các
lực lượng dân chủ hải ngoại).
Tóm tắt lại, ĐCSVN đã mất uy
tín rất trầm trọng, đang lâm vào một cuộc khủng hoảng nội bộ sâu sắc. Một là do bế tắc về
đường lối: bỏ chủ nghĩa
Mác-Lênin thì sợ, giữ
nó thì ngày càng lố bịch khôi hài, bỏ tư tưởng
HCM thì chẳng còn chỗ dựa
tinh thần để lừa bịp, ru ngủ quần chúng nữa; hai là do sự tha hóa
trầm trọng, nạn tham nhũng tràn
lan của cán bộ từ thấp lên
cao; ba là do sự đấu đá
nội bộ, bè phái xâu xé nhau từ thượng tầng đến cơ sở.
Cho nên để cứu
đảng chỉ còn 3 cách. Một là tăng cường đàn
áp rất dã man, rất côn đồ; từ trước đến
nay chưa hề có những hành động man rợ và độc ác như vậy, các bản án bây
giờ hết sức nặng cốt để đe dọa quần chúng
và giam chân những chiến sĩ dân chủ có khả năng lãnh đạo phong trào; hai là tìm cách luật hóa hết sức có
thể vai trò lãnh đạo độc nhất và các đường lối cai trị độc tài của đảng trên
các phương diện chính trị, kinh tế, dân sinh, tôn giáo, xã hội… ngõ hầu nhân
dân không thể chống lại mà không phạm pháp; ba là ra sức lừa bịp
dân chúng và quốc tế bằng
đủ trò gian trá mỵ dân và bằng đủ mọi phương tiện. Nhưng việc
lừa bịp này càng ngày càng khó, vì thế giới hôm nay khác hẳn rồi, internet hiện
giúp cho phe dân chủ dễ vạch trần âm mưu phỉnh phờ của Cộng sản!
Từ những nhận định trên, Khối 8406 chúng tôi tuyên
bố:
1-
Kiên định đường lối của Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006: giải thể
chế độc độc tài độc đảng để xây dựng chế độ đa nguyên đa đảng, dân chủ tự do.
2-
Phản đối nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy công ty
quốc doanh làm chủ đạo, vì đó chỉ là cách đảng và đảng viên làm giàu trên sự
bóc lột nhân dân và tàn phá đất nước.
3-
Lên án những bộ luật và những phiên tòa trong đó đảng chà đạp các nhân quyền
chủ yếu, các tự do cơ bản của con người, trấn áp những công dân chân thành yêu
nước và thực tâm xây dựng.
4-
Kêu gọi đảng và nhà nước trả lại quyền sở hữu đất đai cho các tập thể và tư
nhân cũng như từ bỏ những dự án khai thác bauxite và xây dựng nhà máy điện
nguyên tử đầy hiểm họa cho dân sinh.
5-
Yêu cầu đảng và nhà nước tôn trọng tự do tôn giáo dưới mọi hình thức, để cho
các Giáo hội được góp phần giáo dục lương tâm, giải độc văn hóa, tăng cường đạo
đức xã hội để canh tân Đất nước.
6-
Đòi hỏi đảng và nhà nước bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ một
cách đích thực, cương quyết, can đảm và hữu hiệu, trong sự chung vai sát cánh
và đồng tâm hiệp lực với toàn thể nhân dân.
7-
Chỉ chấp nhận đối thoại với đảng CS khi nào đảng từ bỏ độc quyền cai trị, trả
tự do cho các tù nhân lương tâm, sám hối trước quốc dân về những sai lầm và tội
ác quá khứ, khôi phục các quyền tự do cho công dân và quyền tự quyết cho Dân
tộc.
Làm tại Việt Nam ngày 31 tháng 12
năm 2012.
Ban
điều hành Khối 8406:
1- Linh mục Phan
Văn Lợi – Huế – Việt Nam.
2- Kỹ sư Đỗ Nam
Hải – Sài Gòn – Việt Nam.
3- Giáo sư Nguyễn Chính Kết – Houston –
Hoa Kỳ.
4- Bà Lư Thị Thu Duyên – Boston – Hoa
Kỳ.
Với
sự hiệp thông của Linh mục Nguyễn Văn Lý, cựu quân nhân Trần Anh Kim, nhà văn
Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều tù nhân chính trị, tôn giáo khác đang ở trong lao tù
Cộng sản.
No comments:
Post a Comment