Giáo sư Robert F. Turner
Đăng bởi lúc 1:55
Sáng 6/01/13
VRNs (06.01.2013) -
Virginia, USA – Tôi là một sinh viên
trong số tương đối ít ỏi đã thực tin rằng việc chống Cộng sản xâm lược là việc
đúng của Hoa kỳ ở Việt Nam, Lào, Cambodia là đúng.
Tôi lần đầu đến Việt Nam trong một giai đoạn
ngắn khi là phóng viên năm 1968, rồi quay về đi lính, bắt đầu chức vụ Trung úy
rồi sau lên Đại úy rồi trở lại đó hai lần làm việc tại một bộ phận của toà Đại
sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, là Văn phòng Nghiên cứu về Bắc Việt và Việt Cộng. Tôi
có cơ hội được đi tới nhiều địa phận tại Việt nam, khoảng 44 tỉnh thành, có chỗ
chỉ đi ngang qua. Tôi được qua Lào, Cambodia. Sau khi giải ngũ tôi gia nhập
Hoover Institution, tôi đã viết cuốn sử quan trọng đầu tiên bằng tiếng Mỹ về
“Cộng sản Việt Nam” .
Trong hơn hai chục năm, tôi đã có nhiều khóa
giảng dạy tại viện Đại học Virginia về Chiến tranh Việt Nam. Vì thời giờ có
hạn, tôi phải nói ngắn, nhưng trước khi đề cập tới chủ điểm của bải thuyết
trình, tôi xin có thêm một lời cảnh báo, nhất là với các khán thính giả trẻ
tuổi.
Rằng đa số lập luận “sáng suốt phổ biến” của
người Mỹ về Chiến tranh Việt Nam thật ra lại không đúng. Rất đáng tiếc rằng
điều ấy có nghĩa là đa số những gì được giảng dạy tại cấp trung và đại học lại
gần với thần thoại hơn là lịch sử.
Tôi chi xin đơn cử hai thí dụ, hai thí dụ quan trọng:
1- Ngày nay, chúng ta được nghe rằng cuộc
chiến Việt Nam là “bất khả thắng”. Chúng ta đứng sai chỗ. Tôi xin được góp
tiếng bên cạnh nhiều sử gia thuộc loại xuất sắc nhất ngày nay khi nêu lập luận
ngược rằng chúng ta không chỉ hy vọng thắng mà thực tế đã thắng vào đầu thập
niên 1970. (Và khi nói “chúng ta”, tôi không nghĩ rằng đấy là Quân lực Hoa Kỳ
mà là nỗ lực chung của hai quân đội miền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ cùng với người
dân miền Nam).
2- Chuyện gì đã xảy ra? Khi tôi tuyên bố là
có thể thắng. Tôi xin đưa câu nói của người bạn thân Douglas Pike: ông Douglas
Pike đã quá vãng, người mà tôi hoán đổi công vụ nhiều lần trong Sứ quán Hoa Kỳ,
ông Pike nói rằng: Tôi tin rằng chúng tôi có thể đã thắng cuộc chiến Việt Nam.
Tôi tin rằng trong tương lai lịch sử sẽ nói rằng chúng ta đã thắng. Đó là sự
thật!.
Một số thí dụ sau đây sẽ chứng minh.
Có một bài viết trong báo Foreign Affairs năm
2004 do Giáo sư John Lewis Gaddis Khoa trưởng Americạn Diplomatic Historians
nói rằng: Các sử gia hiện
tại công nhận rằng miền Nam Việt Nam và đồng minh đã thắng cuộc chiến quân sự.
Nhưng lại thua cuộc chiến tâm lý tại Mỹ. Tôi xin nhắc lại cho quý vị trẻ
biết sau khi bị bỏ bom tơi bời Hà Nội vội vã trở lại đàm phán tại Paris. Và mọi
chuyện êm xuôi nếu chúng ta dùng máy bay B52 để trấn giữ hiệp định.
Nhưng quốc hội với áp lực của “Phong trào Hòa
Bình” đã thông qua dự luật vào tháng năm 1973. Sẽ là bất hợp pháp nếu Tổng Thống
sử dụng bất cứ đồng nào trong công quỹ cho cuộc chiến tại Việt Nam, Lào và
Cambodia. Làm như vậy, Quốc hội đã chuyển thắng thành bại. Quốc hội phản bội
lời cam kết lịch sử của Hoa Kỳ là bảo vệ các nước không Cộng sản tại Đông
Dương. Lúc ấy tôi làm việc tại Thượng nghị viện,
nghị sĩ Ted Kennedy tuyên bố rằng “Việt Nam không cần giúp đỡ, họ đã có lượng
vũ khí trị giá vô số triệu đô la”. Đó là sự thật. Việt Nam có phi cơ trực
thăng, xe tăng Hoa Kỳ. Nhưng cái mà họ không biết là, Việt Nam không có đạn, không
có xăng. không có phụ tùng. Đống đồ đó trở nên vô dụng. Đây là câu chuyện tôi
chưa bao giờ kể cho ai nghe. Ngay sau khi sơ tán từ Việt Nam về tới Mỹ, tôi gặp
Nghị sĩ Ted Kennedy tại Thượng Nghị Viện. Đó là lần đầu tiên tôi gặp ông ấy khi
trở về Mỹ. Ông ấy đứng cách tôi khoảng 3 mét. Tôi cung tay phải lên và tự nhủ:
“mình phải cho nó biết tay, phải đấm gục hắn ta và nói cho thế giới biết rằng
chúng tôi vừa mới phản bội chính danh dự của mình và bỏ rơi những người đáng
yêu.”
Nhưng tôi đã tự cản bản thân mình vì làm vậy
sẽ ảnh hưởng đến cương vị Nghị sĩ của tôi và Ted Kennedy sẽ trở thành người
hùng. Không phải là việc làm đúng đắn nhưng đôi lúc tôi nghĩ là mình đã bỏ rơi
cơ hội ấy.
Sau khi Quốc Hội cắt hết viện trợ cho Việt Nam, Trung
cộng gia tăng viện trợ cho Hà Nội. Phạm Văn Đồng nói rằng: “Được cho kẹo tụi nó cũng không dám quay lại”.
Đó là lý do của sự thất bại tại chiến trường Việt Nam.
Quân nhân Mỹ, QLVNCH, và miền Nam Việt Nam
không bị bại trận, mà thua vì cái gọi là “tự do” của Quốc hội Hoa Kỳ.
Điềm thứ 2 tôi muốn đưa lên là: Việt Nam rất
quan trọng. Họ cho rằng Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến “phi lý” tiến hành
không lý do chính đáng, do hiểu lầm về vụ đụng độ không đáng kể ở Vịnh Bắc Bộ.
Thật sự là ngớ ngẩn.
Tôi đã viết 450 trang trình bày trong luận án
đạt giải danh dự năm 1966. Tôi đã ghi lại vào tháng Năm 1975 đảng Lao động của
Cộng sản Việt Nam đã quyết định từ Tháng Năm năm 1959 là mở ra đường mòn Hổ Chí
Minh và gửi vào Nam nhiều ngàn lính và vô số chiến cụ với mục đích lật đổ chính
phủ trong Nam. Đây là hành động xâm lược quốc tế và vi phạm Hiên chương Liên
hiệp quốc. Hoa Kỳ tham chiền để giúp người dân miền Nam tự vệ vì cùng một lý do
như việc chúng ta tham chiến tại Cao Ly, nhằm bảo vệ tự do của con người và
thực thi việc chống xâm lược đã được ghi trong Hiến chương Liên hiệp quốc.
Trong cuốn sách “Cộng sản Việt Nam” xuất bản
năm 1975, Hà Nội đã nhiều lần xác nhận sự thực đó từ Tháng Năm năm 1959 ngay
ngày sinh nhật Hồ Chí Minh. 10 năm trước, chúng tôi đã thảo luận tại Đại học
Luật Virginia về vấn đề hợp pháp này. Luật quốc tế và Hiến chương Liên hiệp.
Không thể thảo luận nối vì Hà Nội lập luận rằng đó là nội chiến trong miền Nam
VN v.v… hãy bỏ qua 1 số điểm vì thời gian có hạn.
Tôi nêu lên hậu quả của việc bỏ rơi VN
Tôi có thể nói hoài về việc người Mỹ bỏ rơi
Việt Nam. Tôi là người đứng ngay trong trận khi Quốc Hội biểu quyết không giúp
đỡ Angola vì sự xâm lăng của Xô Viết. Kết quả nạn nhân bị tử vong ở đấy được
ước lượng là không dưới trăm ngàn người.
Đến việc Liên Xô xâm chiếm Afghanistan khiến
cả triệu người chết. Sẽ không xảy ra nếu chúng ta không rút lui.
Và lần đầu tiên trong sáu chục năm, Moscow
bảo với tay sai của họ ở Mỹ châu La Tinh rằng tiến hành “đấu tranh võ trang” để
cướp chính quyền thì cũng được, từ đấy mới xảy ra nội chiến tại El Salvador,
Nicaragua, Honduras, Guatemala, Costa Rica và các nước khác trong vùng. Vô số
người lại thiệt mạng vì chuyện đó. Một số lớn súng M16 tịch thu được từ quân
phiến loạn El Salvador, căn cứ theo số xê ri là súng bỏ lại tại chiến tranh VN
của quân đội Mỹ. Hà Nội đã cung cấp cùng với Xô Viết qua đường Cuba rồi đưa lậu
qua El Salvador.
Cho những người nói chiến tranh VN là phi lý. Họ đã sai.
Nhưng hôm nay tôi không muốn tập trung về các
vấn đề dù rất quan trọng là địa dư chiến lược. Tôi muốn nói về hậu quả của
quyết định của Hoa Kỳ đối với con người.
“Phong trào hòa bình” – của phe phản chiến –
trấn an chúng ta rằng Hoa Kỳ chỉ cần rút quân và chấm dứt chiến tranh thì mình
sẽ phát huy “nhân quyền” và “ngăn nạn tàn sát”. Tôi rất ngại nói về những gì
xảy ra tại Việt Nam sau khi Hoa Kỳ triệt thoái, vì trong hội trường này và tại
khu “Little Sàigon” có nhiều người đã trực tiếp nếm mùi và biết rõ hơn những gì
mà mọi “học giả” Mỹ có thể muốn biết. Nhưng có một số sự thật thì đã rõ ràng.
Hãy trước tiên nói về nhân quyền. Tháng Tư năm 1975, khi sự chiến thắng của Cộng sản đã
thành hiển nhiên cho mọi người, Đệ nhất Bí thư đảng Lao Động là Lê Duẩn đã
tuyên bố rằng: sau khi “giải phóng” Miền Nam, chúng ta sẽ biến nhà tù thành
trường học”. Tới Tháng 10 năm 1978, nhật báo Times đầy uy tín tại Luân Đôn đã
báo cáo sự thật: Cộng sản Việt Nam đã biến nhà trường và cô nhi viện thành nhà
tù vì họ có quá nhiều tù nhân.
Điều 11 của Hiệp định Paris ký kết năm 1973
cấm “mọi hành vi trả thù hay kỳ thị các cá nhân hay tổ chức đã hợp tác với một
phe bên này hay bên kia”, và còn rõ ràng bảo đảm quyền tự do báo chí, tôn giáo,
tự do sinh hoạt chính trị và một loạt những quyền thiêng liêng khác. Vậy mà
Tháng Năm năm 1977, tờ Quân đội Nhân dân công khai thông báo “triệt để cấm mọi
hành vi chống lại chế độ và tước hết mọi quyền tự do của những kẻ không tin vào
xã hội chủ nghĩa”. Bài báo tuyên bố: “Với bọn phản cách mạng… nhân dân ta dứt
khoát xoá bỏ quyền tự do ngôn luận và trừng phạt đích đáng”.
Sau đó, một dân biểu duy nhất của Quốc hội
Việt Nam Cộng Hòa được phép tham gia cái gọi là “Quốc hội Thống nhất” đã tuyên
bố: Chế độ CS cai trị bằng bạo lực và khủng bố. Không có tự do di chuyển hay
lập hội; không có tự do báo chí hay tự do tôn giáo hay… cả quyền tự do có ý kiến
riêng… Sự sợ hãi tràn ngập khắp nơi”
Quyền tự do báo chí
Tháng Chín năm 1970, Trưởng phòng Sài Gòn của
tờ Christian Science Monitor là Daniel Sutherland – ông bạn của tôi vào thời ấy
– có viết một bài dài về “quyền tự do báo chí” trong Nam. Ông viết: “Dưới bộ
luật báo chí mới, Miền Nam bây giờ có một nền báo chí thuộc loại tự do nhất
Đông Nam Á…”. Tôi tin chắc rằng mình không là người duy nhất trong hội trường
này có thề xác nhận điều ấy. Riêng Sài Gòn thì đã có hơn ba chục tờ báo, và
nhiều tờ trong số đó kịch liệt chống chính phủ.
Dĩ nhiên là để thu thập dữ kiện về quyền tự
do ấy, tôi thường cầm máy ảnh lang thang trong Sài Gòn vào những chiều Chủ Nhật
được nghỉ. Tôi thấy bày bán công khai những quyển sách như “Chiến tranh Nhân
dân và Quân đội Nhân dân” của Tướng Võ Nguyên Giáp là cuốn chỉ nam về nổi dậy
của Việt Cộng, vài cuốn của lãnh tụ cộng sản Cuba là Ché Guevarra, và cả các
cuốn sách về hay của Mao Trạch Đông. Sau ngày gọi là “giải phóng”, người Cộng
sản chiếm đóng đã “tạm thời” đình chỉ xuất bản mọi tờ báo hay tạp chí độc lập.
Chưa đầy một tháng sau, mọi tiệm sách báo đều bị đóng cửa và việc mua bán hay
tàng trữ các văn hoá phẩm xuất hiện “dưới chế độ cũ!” đều bị cấm.
Tù chính trị
Một trong các vấn đề nặng nề nhất là những
người chống Việt Nam thường nêu ra, là cái gọi là “chế độ phát xít” tại miền
Nam đã giam giữ hơn 200 ngàn “từ chính trị”. Khi trở lại Đông Dương vào Tháng
Năm 1974 – cũng là dịp thăm viếng Cam Bốt và Lào – tôi chú trọng đến việc điều
tra những lời cáo giác trên.
Tôi ghé thăm Linh mục Chân Tín, nổi danh lãnh
tụ của “lực lượng thứ ba” nhưng có lẽ là một cán bộ của Hà Nội. Tôi hỏi ông là
tìm đâu ra con số “202 ngàn tù nhân chính trị?” Ông ta bảo rằng mình đã hỏi các
tù nhân cũ và gia đình thân nhân của họ là họ nghĩ xem có bao nhiêu tù nhân.
(Tôi nghi là họ đã cộng lại tổng số của các câu trả lời). Sự thật thì thời đó
chỉ có khoảng 35 ngàn tù nhân trong tất cả các nhà tù của Miền Nam.
Tôi cũng gặp một lãnh tụ khác của “lực lượng
thứ ba” là bà Ngô Bá Thành, người nói với tôi rằng định nghĩa của bà về “tù
nhân chính trị” có thể gồm cả người như Sỉrhan Sirhan, là tay cán bộ người
Palestine đã ám sát nghị sĩ Robert Kennedy vào tháng Sáu năm 1968. Mục đích của
hắn, bà Ngô Bá Thành giải thích là, “chính trị” khi hắn ám sát một ứng cử viên
Tổng thống rất nổi tiếng của Hoa Kỳ.
Rồi còn vụ “chuồng cọp” đầy tai tiếng tại Côn
Sơn, được họ mô tả như sau:
“… xà lim chôn dưới mặt đất với các đống sắt,
đồng trên trần thay vì ở dưới. Mà trần xây thấp đến nỗi tù nhân không thể đứng
được …”
“… những hố nhỏ được đào dưới đất và che bằng
chấn song sắt.”
- “[Mấy hầm đó] quá hẹp cho những người Việt
Nam dù thấp bé cũng không thể nằm duỗi thẳng và trần quá thấp nên tù nhân khó
có thể đứng thẳng người”
Thật ra, tôi có đến đảo Côn Sơn và thăm những
chuồng cọp này. Tôi nghĩ rằng chúng ta cùng đồng ý là tôi hơi cao hơn đa số
người Việt Nam. Vậy mà tôi chưa thể với tới các chấn song trên trần – vốn cao
tới ba thước (khoảng 10 bộ) kể từ mặt đất lên.
Ngay cả lực sĩ Nghiêu Minh (Yao Minh) người
Tầu – tay trung phong của đội bóng rổ Rocket’s ở Houston bên Texas – cũng chỉ
cao tới bảy bộ và sáu phân – hơn hai thước hai – nên anh ta cũng chẳng gặp khó
khăn gì đề duỗi dài trong căn xà lim một bề thước rưỡi một bề ba thước của cái
gọi lả “chuồng cọp”.
Ít nhất, một số cán bộ chống Việt Nam đã từng
cáo giác chuyện “chuồng cọp” biết là họ nói láo. Trước khi qua Việt Nam năm
1974, tôi nói với một người trong số này rằng tôi dự tính sẽ tới nhà tù Côn Sơn
để tự mình xem tận mắt và anh ta có vẻ khó chịu – có lẽ biết rằng tôi sẽ thấy
sự thật. Anh ta nói rằng vấn đề thật bây giờ chính là tại nhà tù Chí Hòa ở Sài
Gòn.
Vì vậy sau khi thăm Côn Sơn, tôi xin phép vào
xem nhà tù Chí Hòa và chưa đầy 48 tiếng sau đã được tới đó trong mấy tiếng đồng
hồ. Đây không là nơi mà mình thích sống nhưng cũng chẳng tệ hơn đa số các nhà
tù và bên trong tôi không thấy dấu vết gì của những sự lạm dụng phổ biến. Tôi
nói riêng với vài người Mỹ đã từng ở trong này và họ nói rằng dù có nghe nhiều
lời tố cáo nhưng tất cả đều cho biết là họ không hề nghe thấy “tiếng gào thét
trong đêm vắng” hoặc được báo cáo về nạn tra tấn hay hành hạ tù nhân.
Ngăn chặn tàn sát khi
Cộng sản nắm quyền
Bi thảm nhất của những người chống Việt Nam
là lý luận của họ, rằng cắt viện trợ cho Miền Nam là Hoa Kỳ sẽ “ngăn được nạn
tàn sát”. Họ sai lầm tới chừng nào. Ông bạn Giáo sư R.J. Rummel của tôi (một
người từng được tuyển liên tiếp cho giải Nobel Hòa Bình) ước lượng là tổng số
người bị giết sau khi miền Nam được “giải phóng” lên tới 643 ngàn.
- Khoảng 100 ngàn bị xử tử qua quít ngay sau
khi Cộng sản VN nắm quyền. Qua quít vì cũng chẳng có một hình thức tạm bợ về
“tiến trình hợp pháp” hay một toà án.
- Giáo sư Rummel cho là 400 ngàn là “thuyền
nhân” bị chết ngoài biển cả khi muốn thoát khỏi chê độ CSVN độc tài và đàn áp
đã trùm lên quê hương. Cao ủy Tỵ nạn của Liên hiệp quốc thì cho là một phần ba
những người vượt biên bằng thuyền đã chết ngoài biển – một số là vì tầu quá
đông người bị chìm, hoặc chết vì đói, vì khát. Nhiều người tử nạn sau khi bị
hải tặc cướp bóc và cưỡng hiếp. Cao ủy cũng tường trình rằng có khoảng 840 ngàn
người tới được Hong Kong hay các nước không Cộng sản ở Đông Nam Á. Nếu áp dụng
tỷ số “chết một phần ba” cho con số này thì ta đoán là có một triệu 300 ngàn
người vượt biên bằng thuyền và khoảng 420 ngàn người đã chết trên đường tìm tự
do. Con số không xa với ước lượng của Giáo sư Rummel.
Giáo sư Lewia Sorley, tác giả cuốn sách có
giá trị của một dấu mốc là “A Better War” – một Cuộc Chiến Khá Hơn – mà tôi ân
cần giới thiệu đến quý vị, cho rằng có chừng 250 ngàn sĩ quan và binh lính của
miền Nam cũ đã chết trong các “Trại Cải Tạo” do chế độ Cộng sản VN lập ra.
- Khoảng một triệu rưởi người dân miền Nam bị
đày vào các khu “Kinh Tế Mới” để sống trong những điều kiện nghiệt ngã và chừng
48 ngàn đã chết tại đấy. Tôi biết rằng rất đông người trong cộng đồng này có
thể kể lại những kinh nghiệm thật về “Trại Cải Tạo” và khu “Kinh Tế Mới” và
khuyên các sinh viên ở đây nên tìm ra họ, ghi nhận câu chuyện của họ để làm
chứng liệu cho lịch sử.
Căm Bốt
Và còn chuyện xứ Căm Bốt nữa.
Khi Tổng thống Nixon gửi quân đội Hoa Kỳ sang
Cam Bốt vào năm 1970 đề yểm trợ các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa, khuôn viên các
Đại học Mỹ bị đóng vì những cuộc phản đối đầy bạo động chống lại vụ xâm lược
“phi pháp”. Thật ra, về pháp lý thì y như Việt Nam, Căm Bốt là “quốc gia thành
viên của Nghị định thư” – Protocole States – đã được cam kết bảo vệ chống Cộng
sản xâm lăng trong khuôn khổ Hiệp ước SEATO năm 1954. Mười năm sau, và với tỷ
lệ đầu phiếu là 99,6%, khi Quốc hội Hoa Kỳ cho phép Tổng thống Johnson tham
chiến tại Đông Dương. quy chế ấy hoàn toàn có thể áp dụng cho Căm Bốt như cho
Việt Nam và Lào. Nghị quyết ấy của Quốc hội chỉ cần dẫn chiếu “Protocole
States” của hiệp ước SEATO (South East Asia Treaty Organization). Tôi thăm
viếng Căm Bốt nhiều lần trong năm 1974 và trong nhiều năm đã viết về Khờme Đỏ.
Thời ấy, việc họ là những kẻ sắt máu có dự tính tàn sát không tưởng tượng nỗi với
đồng bào Khờme của họ thật ra chẳng còn là bí mật. Và dĩ nhiên, khi tôi trở lại
Việt Nam vào Tháng Tư năm 1975, một trong những mục tiêu chính của tôi là đễ cố
gắng cứu lấy đám trẻ cô nhi tại Căm Bốt. Tôi đến quá trễ và có lẽ những đứa trẻ
tôi hy vọng cứu được chắc là đã chết.
Không hề có một cuộc khảo sát dân số tại Căm
Bốt và chẳng ai biết thực sự có bao nhiêu người đã sống tại nơi ấy. Con số ước
đoán về nạn nhân có những dị biệt lớn, với một số chuyên gia thì cho lả có hơn
hai triệu. Tài liệu khảo cứu khá nhất mà tôi được đọc là của Đại học Yale, nơi
mà Chương trình của Yale về nạn Diệt chủng Căm Bốt ước tính là Pol Pot và bọn
đao phủ của hắn đã thảm sát một triệu bảy trăm ngàn người – hơn 20% dân số toàn
quốc.
Một bài báo về “các vùng thảm sát” của Căm
Bốt trên tạp chí Nattonal Geographic Today trong số tháng Giêng năm 2004 cho
chúng ta những chi tiết này: “Nhân viên hướng dẫn giải thích rằng đạn quá quý
để dùng cho việc tàn sát. Rìu, dao và gậy tre thật đắc dụng hơn. Còn về trẻ em
thì bọn đồ tể chỉ đơn giản dọng chúng vào thân cây”.
Ông Douglas Pike đã quá vãng, người mà tôi
hoán đỗi công vụ nhiều lần trong Sứ quán Hoa Kỳ, có viết như sau về hậu quả
nhân sinh của việc Hoa Kỳ bội ước sự cam kết của mình là sẽ bảo vệ người dân
của các nước không cộng sản ở Đông Dương: “Dù có ước lượng dè dặt nhất, có
nhiều thường dân Đông Dương bi bạo sát sau Chiến tranh Việt Nam hơn là tổng số
nạn nhân trong thời chiến, ít ra là hơn hai triệu… Nỗi khổ đau lên tới mức chưa
từng thấy, còn thê thảm hơn những ngày chinh chiến”.
Thật bi đát vì tôi nghĩ rằng ông Pike có lý.
Và tôi lại càng tin rằng cộng đồng tại đây, đôi khi ngay trong hội trường, có
những người có thể cung cấp những dữ kiện trực kiến về thảm kịch nêu như ta
muốn tìm đến họ và ghi nhận lời chứng của họ. Việc này thì chẳng ai có tâm trí
bình thường lại thích làm, nhưng là điều mà những ai muốn truy lùng sự thật tới
cùng vẫn có nhiệm vụ thực hiện. Chúng ta phải kể lại chuyện này – một cách
chính xác và cẩn trọng – để người khác sẽ biết rất lâu về sau, khi các nhân
chứng cuối cùng không còn tại thế nữa. Chúng ta phải kể lại, nếu không chuyện
đó sẽ lại tái diễn.
Những ai thấy bàng hoàng về những chuyện đã
xảy ra khi Cộng sản khống chế người dân Miền Nam và của Căm Bốt hay Lào thật ra
không hiểu gì về lịch sử hiện đại. Nếu quý vị muốn biết rõ hơn về thảm kịch,
tôi xin đề nghị tập sách do nhà Harvard University Press xuất bản có tên là
“The Black Book of Communism”
- Cuốn Hắc thư về Chủ nghĩa Cộng sản”. Do một
nhóm trí thức Âu Châu thuộc khuynh hướng trung tả biên soạn, cuốn sách kết luận
là trong thế kỷ 20, chủ nghĩa cộng sản quốc tế đã gây ra cái chết cho từ 80 đến
100 triệu sinh linh.
Những ai muốn biết sâu xa hơn về Chiến tranh
Việt Nam có thể còn bị lầm lạc lớn nếu không chịu khó tìm đọc các cuốn sách do
chư vị diễn giả nơi đây hoặc bằng hữu của chúng tôi đã biên soạn.
Đây là một vinh dự cho tôi khi được thuyết
trình trước một cử toạ quan trọng như hôm nay và trong cơ hội long trọng này.
Với những người giận dữ về sự bội phản của nước tôi 35 năm về trước, xin cho tôi
được nói rằng sự giận dữ này cũng là sự giận dữ của bản thân tôi. Tôi yêu quý
Hoa Kỳ và tin rằng đây là một xứ tuyệt vời nhất trên địa cầu. Nhưng khi đa số
của Quốc hội Hoa Kỳ phản bội nạn nhân của Cộng sản xâm lược họ cũng phản bội 58
ngàn 200 lính Bộ binh, Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã dâng hiến mạng
sống trong sự hy sinh cao quý nhất cho chính nghĩa này. Họ cũng phản bội sự hy
sinh của hai triệu bảy trăm ngàn người Mỹ đã từng phục vụ tại Việt Nam từ năm
1959 cho đến 1975.
Chúng ta không cải sửa được điều ác đã xảy
ra. Nhưng chúng ta có thể nghiên cứu nó và có thể hành động để người Mỹ chúng
ta lánh xa truyện thần thoại sai lạc mà hiểu rõ thảm kịch lớn lao của sự bội
tín. Tôi thiết tha kêu gọi giới trẻ trong cử toạ nơi đây là hãy tự nguyện giành
một chút cố gắng để học hỏi trang sử này và chia sẻ với người khác. Quan trọng
nhất, hãy chú ý đến các cựu chiến binh và những người sống sót trong cộng đồng,
hãy ghi lại lời kể của họ khi mình còn cơ hội. Nếu mình làm được như vậy thì
may ra những hy sinh lớn lao của thảm kịch bi đát này sẽ không bị uổng phí.
Xin cảm tạ quý vị và cầu xin Thượng Đế sẽ phù
hộ chúng ta.
Giáo sư Robert F.
Turner
Trung tâm an ninh Luật Pháp Quốc Gia
Đại Học Luật Khoa Virginia & Học Viện Hải
Quân.
(Nguyễn Quang Duy
chuyển)
No comments:
Post a Comment