Mai Thái Lĩnh
7/10/2012
Gần
đây, trong một bài viết gửi đăng trên Bauxite Vietnam[1], tác giả Phan Thành
Đạt đã trình bày một số luận điểm nhằm biện hộ cho bản Hiến pháp 1946, đồng
thời đưa ra một số đề nghị để bổ sung cho những thiếu sót của bản Hiến pháp đó.
Vì bài viết có nhắc đến bài Những khuyết điểm nghiêm trọng của Hiến pháp
1946 đăng trên blog Pro&Contra[2], tôi cũng xin mạn
phép nhân dịp này trình bày lại một vài khía cạnh để nêu rõ những chỗ giống
nhau và khác nhau giữa quan điểm của tôi và quan điểm của tác giả nói trên. Vì
nội dung bài viết của tác giả Phan Thành Đạt đề cập đến khá nhiều phương diện
có liên quan đến các chế độ dân chủ hiện đại, nhằm tránh cho độc giả khỏi bị
lạc hướng khi phải lan man theo dõi quá nhiều vấn đề, trong phạm vi của bài này
tôi chỉ đề cập đến một số luận điểm có liên quan trực tiếp đến việc xác định
giá trị của bản Hiến pháp 1946. Những vấn đề còn lại sẽ được dành cho những bài
viết khác – khi có dịp thuận tiện.
I. Những điểm tương đồng giữa hai
bài viết
So
với nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu trước đây, bài của Phan Thành Đạt thể
hiện một cái nhìn tương đối khách quan hơn, không sa vào kiểu ca ngợi một chiều
hoặc lập luận nặng về cảm tính, thiếu dẫn chứng về luật học và chính trị học.
Điểm
nổi bật của bài viết là trong khi phản biện để bảo vệ giá trị của bản Hiến pháp
1946, tác giả đã thừa nhận một số thiếu sót, khuyết điểm của bản Hiến pháp và
cũng nhận định rằng không thể áp dụng nguyên xi văn bản đó vào tình hình hiện
nay.
Trong
phần 2 (kỳ 2) của bài viết, tác giả dành hẳn một mục có tên “Những khuyết điểm
của Hiến pháp năm 1946”, qua đó thừa nhận những khiếm khuyết mà tôi đã nêu ra,
như: Hiến pháp năm 1946 dành nhiều quyền hạn cho ban thường vụ Quốc hội
(điều này hoàn toàn sai về nguyên tắc), vấn đề kiêm nhiệm của các đại biểu Quốc
hội không được nêu cụ thể, vai trò của Phó chủ tịch nước quy định không rõ
ràng, mối liên hệ giữa Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ không được quy định
cụ thể, nhiệm kì của các đại biểu Quốc hội chỉ có 3 năm trong khi nhiệm kì của
Chủ tịch nước là 5 năm (hoàn toàn không hợp lý), v.v.
Trong
phần 3 (kỳ 3) của bài viết, tác giả đề nghị giải pháp “Nhân dân bầu trực
tiếp Chủ tịch nước”; điều này cũng phù hợp với luận điểm của tôi về tính
chính danh của một nguyên thủ quốc gia trực tiếp nắm quyền hành pháp . Chỉ có
một khuyết điểm chưa được đề cập trong bài viết của tôi: đó là việc “Hiến pháp
năm 1946 không bàn đến việc thành lập Tòa bảo hiến, vai trò và cách thức
hoạt động của Tòa án đặc biệt này, cũng không hề nêu ra cơ chế kiểm soát các
đạo luật vi hiến”.
Chỗ
khác nhau quan trọng nhất là trong khi thừa nhận Hiến pháp 1946 có những khuyết
điểm, tác giả nhận định: “ Chúng ta sẽ quá nghiêm khắc khi cho rằng Hiến pháp
năm 1946 có những khuyết điểm nghiêm trọng. Tuy nhiên, bản Hiến pháp này có
những thiếu sót cần phải khắc phục”.
Nghiêm
trọng hay không nghiêm trọng, đó chính là vấn đề chúng ta sẽ tìm hiểu trong
phần cuối của bài viết này.
II. Những điểm bất đồng giữa hai bài
viết
1. Hiến pháp 1946
VNDCCH thiết lập một chế độ chính trị kiểu nào?
Theo
Phan Thành Đạt, “Hiến pháp năm 1946 xây dựng thể chế nghị viện mạnh và cơ quan
hành pháp yếu”. Tác giả lập luận: “Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1946 thực
ra không có nhiều ảnh hưởng, vì Chủ tịch nước vẫn bị Quốc hội chi phối. (…)
Trong thể chế nghị viện, Chủ tịch nước có nhiều quyền mang tính nghi lễ, còn
thực quyền tập trung trong tay Nghị viện và Thủ tướng. Với chế độ nghị viện có
quyền lực tuyệt đối, Thủ tướng và toàn bộ nội các chỉ là những người thừa hành
mệnh lệnh của Quốc hội (hoặc Thượng viện và Hạ viện). Hiến pháp năm 1946 thiết
lập thể chế nghị viện mạnh với cơ quan hành pháp yếu. Chủ tịch nước cho dù giữ
vị trí độc lập, nhưng không có nhiều thực quyền”.
Luận
điểm này không những khác với quan điểm của tôi mà còn đối nghịch với nhận định
của một số nhà nghiên cứu trong nước trước đây như Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa, Tiến
sĩ Nguyễn Sĩ Dũng (Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội), v.v. Các nhà luật học này
cho rằng Hiến pháp 1946 nghiêng về phía thiết lập một Chủ tịch Nước có thực
quyền, độc lập đối với Nghị viện, khác hẳn với nguyên thủ quốc gia
trong các chế độ đại nghị.
Để
có thể thấy rõ chế độ chính trị dựa trên Hiến pháp 1946 có phải là thể chế nghị
viện (tức chế độ đại nghị) hay không, trong bài viết này tôi sẽ so sánh hai bản
hiến pháp hình thành gần như đồng thời: Hiến pháp ngày 27-10-1946 của nước
Pháp (tạm gọi tắt là HP 1946-Pháp) và Hiến pháp ngày 9-11-1946 của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tạm gọi tắt là HP 1946-VN). HP 1946-Pháp là hiến
pháp của nền Đệ tứ Cộng hòa, được coi là một chế độ đại nghị (régime
parlementaire) trong đó quyền lực của Tổng thống chỉ mang tính chất nghi lễ,
thực quyền nằm trong tay Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Président du Conseil des
ministres) – thường được gọi tắt là Chủ tịch Hội đồng (Président du Conseil),
một chức vụ tương đương với chức vụ Thủ tướng (Premier ministre) về sau này.
a) Chủ tịch Nước có
thực quyền hay không có thực quyền?
Mặc
dù trong HP 1946-Pháp có ghi những quyền hạn bề ngoài có vẻ rất quan trọng của
Tổng thống Pháp, nhưng với những quyền hạn của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được
ghi rất cụ thể, quyền hành của Tổng thống trong thực tế chỉ còn là danh nghĩa,
mang tính hình thức (tương tự trường hợp của Tổng thống và Thủ tướng Ấn Độ sau
này).
Có
thể lấy vài ví dụ:
-
Điều 32 của HP 1946-Pháp ghi: “Tổng thống Nước Cộng hòa chủ tọa Hội đồng Bộ
trưởng. Ông chỉ đạo việc thiết lập và giữ gìn các biên bản của các cuộc họp”.
Thoạt nhìn, chúng ta có cảm tưởng Tổng thống trực tiếp điều hành Hội đồng Bộ
trưởng, nhưng trong thực tế không phải như thế. Nếu đọc kỹ tất cả các quyền hạn
dành cho Chủ tịch Hội đồng (tức Thủ tướng) ghi tại điều 47 và các điều khác,
chúng ta thấy chính nhân vật này mới là người nắm thực quyền. Đó cũng là lý do
người đứng đầu chính phủ được gọi tên là “Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng”
(Président du Conseil des ministres). Việc chủ tọa Hội đồng Bộ trưởng suy cho
cùng chỉ là hình thức, vì thế Tổng thống Pháp thường được coi là “ký ức của Nhà
nước” (mémoire de l’État), do chỗ ông chủ tọa và lưu giữ biên bản các cuộc họp
của Hội đồng Bộ trưởng.
-
Căn cứ vào điều 33, Tổng thống Pháp chủ tọa Hội đồng tối cao và Ủy ban Quốc
phòng (Conseil supérieur et Comité de la défense nationale) và giữ danh hiệu
chỉ huy trưởng quân đội. Nhưng điều 47 lại quy định quyền hạn của Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng như sau: “Chủ tịch Hội đồng bảo đảm sự lãnh đạo các lực lượng vũ
trang và phối hợp việc thực hiện chính sách quốc phòng.” Điều đó có nghĩa là
thực quyền về lĩnh vực quốc phòng vẫn nằm trong tay Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng.
-
Một trong những thủ tục đặc biệt của chế độ đại nghị tại Pháp dưới thời Đệ tứ
Cộng hòa là thủ tục tiếp ký (contreseing). Điều 38 của HP 1946-Pháp ghi:
“Mỗi hành động của Tổng thống nước Cộng hòa phải được tiếp ký (contresigner)
bởi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và một bộ trưởng”. Điều đó có nghĩa là Tổng
thống Pháp không thể làm bất cứ điều gì mà không thông qua Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng. Trong khi đó, điều 53 của HP 1946-VN lại ghi: “Mỗi sắc lệnh của Chính
phủ phải có chữ ký của Chủ tịch nước Việt Nam và tuỳ theo quyền hạn các Bộ,
phải có một hay nhiều vị Bộ trưởng tiếp ký. Các vị Bộ trưởng ấy phải chịu trách
nhiệm trước Nghị viện”. Điều đó có nghĩa là Chủ tịch Nước VNDCCH chỉ cần thông
qua một hay nhiều bộ trưởng là có thể ký sắc lệnh, không cần đến Thủ tướng.
-
Trong khi HP 1946-Pháp quy định rõ Chủ tịch Hội đồng (tức Thủ tướng) là người
đứng đầu Hội đồng Bộ trưởng (tức Chính phủ) thì trong bản HP 1946-VN, chúng ta
thấy xuất hiện ba khái niệm liên quan đến nhánh hành pháp: Chính phủ, Hội
đồng Chính phủ và Nội các.
Theo
định nghĩa của điều 44: “Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, Phó chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng.
Có thể có Phó thủ tướng”. Căn cứ vào điều 49 thì Chủ tịch Nước “chủ tọa Hội
đồng Chính phủ” và trong trường hợp Chủ tịch từ trần hay từ chức thì người thay
thế là “Phó chủ tịch tạm quyền Chủ tịch” (điều 46). Điều 47 quy định sau khi
Chủ tịch Nước chọn một thành viên trong Nghị viện để giới thiệu vào chức vụ Thủ
tướng thì sau khi được Nghị viện tín nhiệm, Thủ tướng có quyền chọn các bộ
trưởng trong số các thành viên của Nghị viện để “đưa ra Nghị viện biểu quyết
toàn thể danh sách”. Riêng về các Thứ trưởng thì Thủ tướng có thể chọn những
người ngoài Nghị viện, nhưng “duyệt y” chức vụ Thứ trưởng lại là quyền của “Hội
đồng Chính phủ” chứ không phải của “Nội các”. Điều 51 quy định “mỗi khi truy tố
Chủ tịch, Phó chủ tịch hay một nhân viên Nội các về tội phản quốc, Nghị viện sẽ
lập một Toà án đặc biệt để xét xử. Việc bắt bớ và truy tố trước Toà án một nhân
viên Nội các về thường tội phải có sự ưng chuẩn của Hội đồng Chính phủ”.
Như
vậy là trong khi quyền hạn của Hội đồng Chính phủ – mà người đứng đầu là Chủ
tịch Nước, được ghi rõ trong một số điều khoản thì HP 1946-VN lại không ghi bất
cứ quyền hạn cụ thể nào của Thủ tướng và Nội các.
Từ
những điểm nói trên, chúng ta có thể hiểu là Thủ tướng và Nội các mặc dù
phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện, có thể bị Nghị viện truất chức nhưng
hoàn toàn không có thực quyền. Thực quyền nằm trong tay Chủ tịch Nước
VNDCCH và nhân vật này mới thật sự là người đứng đầu Chính phủ.
Nhìn
vào thực tế lịch sử của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn
1946-1959, chúng ta có thể thấy rõ ai là người đứng đầu Chính phủ. Chính phủ
Liên hiệp Quốc dân được chính thức thành lập ngày 3-11-1946, sáu ngày trước khi
thông qua Hiến pháp 1946. Chính phủ này có nguồn gốc từ Chính phủ Cách mạng Lâm
thời thành lập vào cuối tháng 8 năm 1945 và đã trải qua vài lần cải tổ nhân sự.
Điểm đặc biệt là người đứng đầu chính phủ này không phải là một Thủ tướng,
mà là một Chủ tịch Chính phủ. Mặc dù Hiến pháp 1946 thiết lập chức vụ
Thủ tướng, từ 1946 đến 1955 Chính phủ VNDCCH không có chức vụ Thủ tướng, do đó
có thể coi Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Chủ tịch Nước kiêm Thủ tướng”. Trong những
giai đoạn quan trọng (từ 28-8-1945 đến 2-3-1946, và từ 3-11-1946 đến tháng
3-1947), vị Chủ tịch Nước kiêm Thủ tướng này còn kiêm nhiệm cả chức vụ Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao.
Mãi
đến tháng 9 năm 1955, chức vụ Thủ tướng được dự kiến trong Hiến pháp 1946 mới
được thiết lập, và người được phân công giữ chức vụ này (kiêm Bộ trưởng Bộ
Ngoại giao) là Phạm Văn Đồng. Nhưng ngay trong giai đoạn này, Thủ tướng cũng
không phải là người nắm thực quyền vì từ khi Đảng Lao động Việt Nam xuất hiện
công khai tại Đại hội lần thứ II (năm 1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm
Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng, còn Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ là Ủy
viên Bộ Chính trị.
Vì
thế không thể khẳng định như tác giả Phan Thành Đạt: “Chủ tịch nước cho dù giữ
vị trí độc lập, nhưng không có nhiều thực quyền”. Mặt khác, cũng không thể coi
chế độ chính trị mà HP 1946-VN dự kiến thiết lập là một chế độ đại nghị, vì
cũng chính tác giả này đã thừa nhận: “Trong thể chế nghị viện, Chủ tịch nước có
nhiều quyền mang tính nghi lễ, còn thực quyền tập trung trong tay Nghị viện và
Thủ tướng”.
b) Nghị viện mạnh
hay yếu?
Để
chứng minh cho luận điểm “Hiến pháp 1946 thiết lập thể chế nghị viện mạnh với
cơ quan hành pháp yếu”, tác giả Phan Thành Đạt viết: “Chủ tịch nước theo Hiến
pháp năm 1946 thực ra không có nhiều ảnh hưởng, vì Chủ tịch nước vẫn bị Quốc
hội chi phối. Ví dụ để phản đối người đứng đầu cơ quan hành pháp, Quốc hội tuy
không thể phế truất, nhưng vẫn có cách gây sức ép hiệu quả, bằng cách bỏ phiếu
bất tín nhiệm với Chính phủ, buộc Chủ tịch nước phải chọn một Chính phủ được
Quốc hội ưng thuận, và Chính phủ nếu muốn tồn tại, buộc phải thi hành các chính
sách của Quốc hội, thay vì tuân thủ mệnh lệnh của Chủ tịch nước.”
Điều
này hoàn toàn mâu thuẫn với quan điểm của chính tác giả về những khuyết điểm
của Hiến pháp 1946: “Hiến pháp năm 1946 dành nhiều quyền hạn cho ban thường vụ
Quốc hội. Ban thường vụ có thể thay mặt Quốc hội, kết hợp với Chính phủ thực
thi và đưa ra các quyết định quan trọng như tuyên bố chiến tranh hay đình
chiến. Điều này hoàn toàn sai về nguyên tắc, vì khi Quốc hội không họp, không
có bất cứ tổ chức hay cơ quan nào có quyền quyết định thay cho Quốc hội. (…)
Vấn đề kiêm nhiệm của các đại biểu Quốc hội cũng không được nêu cụ thể, (…) Do
đó tính chuyên nghiệp của Quốc hội và hiệu quả công việc của các đại biểu sẽ
không cao”[3].
Một
Nghị viện hoạt động không chuyên nghiệp, hiệu quả không cao, quyền hành thực tế
rơi vào tay một nhóm nhỏ có tên là Ban Thường vụ Nghị viện; một cơ quan lập
pháp như thế làm sao có thể đươc coi là một “nghị viện mạnh”?
Ở
đây, tôi chỉ xin nhấn mạnh một đặc điểm hết sức quan trọng của các Nghị viện
Pháp từ 1875 cho đến trước năm 1958 mà các nhà soạn thảo Hiến pháp 1946 đã
không sẵn sàng tiếp thu: đó là thời gian hoạt động của Nghị viện.
Căn
cứ vào Luật lập hiến ngày 16-7-1875 về quan hệ giữa các quyền lực công (Loi
constitutionnelle du 16 juillet 1875 sur les rapports des pouvoirs publics), Thượng
viện (Sénat) và Viện dân biểu (Chambre des députés, tức Hạ viện) của nước Pháp
“phải họp ít nhất 5 tháng mỗi năm. Kỳ họp của một viện bắt đầu và chấm dứt đồng
thời với kỳ họp của viện kia.” (điều 1) Như vậy, ngay từ cuối thế kỷ 19, Nghị
viện Pháp chỉ họp mỗi năm một kỳ (session annuelle), nhưng mỗi kỳ họp kéo dài
ít nhất là 5 tháng.
Điều
9 của HP 1946-Pháp quy định: “Quốc hội nhóm họp với trọn quyền bằng kỳ họp hàng
năm (session annuelle) vào ngày thứ ba thứ hai của tháng 1 (le second mardi de
janvier). Thời gian tổng cộng của những lần ngừng họp (interruption) không thể
vượt quá 4 tháng. Những lần hoãn họp (ajournement) dài hơn 10 ngày được coi như
ngừng họp. Hội đồng nước Cộng hòa họp đồng thời với Quốc hội.” Dưới thời Đệ tứ
Cộng hòa, Quốc hội (Assemblée Nationale) là tên gọi của Hạ viện và Hội đồng
nước Cộng hòa (Conseil de la République) là tên gọi của Thượng viện. Thời gian
ngừng họp (interruption) tức là thời gian giữa hai kỳ họp (session), đó là lúc
Nghị viện ngừng làm việc. Còn thời gian hoãn họp (ajournement) là thời gian
giữa hai phiên họp, nghĩa là Nghị viện chỉ tạm nghỉ vì vẫn còn đang trong thời
gian của kỳ họp. Căn cứ vào quy định trên, chúng ta có thể hiểu là Nghị viện
Pháp dưới thời Đệ tứ Cộng hòa họp mỗi năm một kỳ, mỗi kỳ họp kéo dài tối thiểu
là 8 tháng.
Trong
khi đó, điều 28 của HP 1946-VN quy định: “Nghị viện nhân dân mỗi năm họp hai
lần do Ban thường vụ triệu tập vào tháng 5 và tháng 11 dương lịch. Ban thường
vụ có thể triệu tập hội nghị bất thường nếu xét cần. Ban thường vụ phải triệu
tập Nghị viện nếu một phần ba tổng số nghị viên hoặc Chính phủ yêu cầu.” Như
vậy, Nghị viện VNDCCH mỗi năm làm việc tối đa chỉ vào khoảng 2 tuần hay 2
tháng.
Một
Nghị viện hay Quốc hội hoạt động quá ít như thế sao có thể gọi là một Nghị viện
mạnh? Nó chỉ có thể đóng vai trò hình thức, mang tính chất trang trí nhằm hợp
pháp hóa các quyết định của Chủ tịch Nước (với sự thỏa thuận của Ban Thường vụ
Nghị viện), chứ không thể làm chức năng kiếm soát Chính phủ, còn nói gì đến
việc “gây sức ép hiệu quả, bằng cách bỏ phiếu bất tín nhiệm với Chính phủ”?
Như
tôi đã phân tích trong bài Những khuyết điểm nghiêm trọng của Hiến pháp 1946,
cơ quan lập pháp có thực quyền dựa theo HP 1946-VN không phải là Nghị viện mà
là một “Nghị viện nhỏ” bên trong, tức là Ban Thường vụ Nghị viện, gồm có 12 ủy
viên chính thức và 3 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Nước chỉ cần thỏa thuận với
Ban Thường vụ Nghị viện là có thể quyết định các vấn đề hệ trọng của đất nước,
Nghị viện chỉ làm công việc hợp pháp hóa các quyết định đã có trước. Trong thực
tế, Ban Thường trực Quốc hội (tức Ban Thường vụ Nghị viện) trong giai đoạn
1946-1959 hiếm khi hội đủ con số quy định như trên.
Có
một chi tiết ít người lưu ý: Ban Thường trực Quốc hội khóa I đã hình thành ngay
tại kỳ họp thứ I của Quốc hội khóa I (kỳ họp này chỉ tiến hành trong một ngày
duy nhất: ngày 2-3-1946). Theo lời của ông Nguyễn Văn Tố – Trưởng ban Thường
trực đầu tiên của Quốc hội khóa I, vào ngày 2-3-1946 Quốc hội đã thông qua một
nghị quyết quy định rằng “… khi muốn tuyên chiến hay đình chiến, Chính phủ bắt
buộc phải hỏi ý kiến Ban Thường trực Quốc hội.”[4] Điều đó có nghĩa là
Ban Thường trực Quốc hội đã hình thành hơn 8 tháng trước khi Quốc hội thông qua
Hiến pháp 1946. Một số điều khoản trong Hiến pháp 1946 liên quan đến vai trò
của Ban Thường vụ Nghị viện (như điều 38 quy định quyền tuyên chiến hay đình
chiến trong thời gian Nghị viện không họp) thật ra không phải là ý tưởng xuất
phát từ các chuyên gia soạn thảo hiến pháp mà là sự hợp pháp hóa một nguyên tắc
đã được các nhà lãnh đạo Việt Minh định hình từ trước.
Có
thể nói Hiến pháp 1946 đã hợp pháp hóa việc tước đoạt quyền lực của toàn thể
Quốc hội để giao cho một “Quốc hội thu nhỏ” – tức là Ban Thường trực Quốc hội.
Chỉ có các thành viên của Quốc hội thu nhỏ đó mới được phép tham gia ít nhiều
vào việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Lý do ban đầu được nêu
ra để biện minh cho nguyên tắc đó là do hoàn cảnh chiến tranh. Nhưng trong thực
tế, kể từ năm 1946 cho đến tận ngày nay, Đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục
thực hiện nguyên tắc nói trên: Ủy ban Thường vụ Quốc hội (hậu thân của Ban
Thường trực Quốc hội) mới thật sự là cơ quan lập pháp, còn Quốc hội chỉ là một
tổ chức hình thức, mang tính chất trang trí, không có thực quyền.
Cần
nhấn mạnh một đặc điểm của chế độ đại nghị: đó là sự tín nhiệm của Nghị viện
đối với chức vụ Thủ tướng. Xét về lý thuyết, nguyên thủ quốc gia (Nữ hoàng,
Quốc vương hay Tổng thống) có quyền chọn Thủ tướng để giới thiệu với Nghị viện.
Nhưng vì Thủ tướng muốn thành lập được chính phủ phải được sự ủng hộ của Nghị
viện cho nên trong thực tế, nguyên thủ quốc gia không thể chọn bất cứ người nào
khác ngoài lãnh tụ của đảng hay liên minh chính trị chiếm đa số ghế tại Nghị
viện. Vì thế, ngay sau mỗi kỳ tổng tuyển cử, người dân có thể biết ngay ai sẽ
là người nắm chức vụ Thủ tướng. Đó chính là nguyên nhân khiến cho quyền lực của
nguyên thủ quốc gia trong chế độ đại nghị bị giới hạn.
Khác
với các quốc gia dân chủ theo đại nghị chế, dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Việt Minh – và sau đó là Đảng Lao động, nắm tuyệt đại đa số ghế trong Quốc
hội; do đó quyền lựa chọn Thủ tướng hoàn toàn thuộc về người đứng đầu tổ chức
Việt Minh và sau này thuộc về Chủ tịch Đảng Lao động. Việc bầu tín nhiệm chỉ
còn là vấn đề thủ tục, thuần túy mang tính hình thức. Trong tình hình thực tế
đó, không thể có tình trạng “Quốc hội…vẫn có cách gây sức ép hiệu quả, bằng
cách bỏ phiếu bất tín nhiệm với Chính phủ, buộc Chủ tịch nước phải chọn một
Chính phủ được Quốc hội ưng thuận, và Chính phủ nếu muốn tồn tại, buộc phải thi
hành các chính sách của Quốc hội, thay vì tuân thủ mệnh lệnh của Chủ tịch
nước.” Những suy diễn đó hoàn toàn sinh ra từ tríc tưởng tượng của tác giả Phan
Thành Đạt, dựa trên thực tiễn của các quốc gia dân chủ phương Tây chứ không dựa
trên hoàn cảnh thực tế của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Có
một sự nhầm lẫn tai hại vẫn tồn tại mãi cho đến ngày nay: đó là ý tưởng cho
rằng “Hiến pháp 1946 là một sản phẩm của một Quốc hội đa đảng”. Trong thực tế,
chế độ đa đảng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, từ cuối tháng 8 năm
1945 cho đến khoảng tháng 7 năm 1946, nghĩa là từ khi có cuộc đàm phán giữa
Chính phủ Cách mạng Lâm thời của Việt Minh với các đảng phái khác (như Việt Nam
Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội) để thành lập Chính phủ Liên
hiệp. Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và nhất là sau
“vụ án Ôn Như Hầu” (tháng 7 năm 1946), nhiều lãnh tụ của các đảng phái đối lập
(như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh) rời bỏ Chính phủ Liên
hiệp và kể từ đó Chính phủ và Quốc hội chỉ bao gồm các thành viên của Việt Minh
và một số thành viên độc lập đồng ý cộng tác với Việt Minh. Cho nên có thể nói
bản Hiến pháp 1946 (được thông qua vào ngày 9-11-1946) hoàn toàn là sản phẩm
của Việt Minh – một tổ chức biến tướng của Đảng cộng sản. Các đảng còn lại như
Đảng Dân chủ, Đảng xã hội thực ra chỉ là những tổ chức mang tính hình thức,
nhằm để trang trí cho chế độ chứ không có thực lực, không có tác dụng gì trong
việc “kiểm soát và làm cân bằng” cán cân quyền lực. Các đảng này cũng tương tự
như các “đảng liên minh” (alliance parties) tồn tại ở Cộng hòa Dân chủ Đức sau
khi Đông Đức rơi vào vòng kiểm soát của Liên Xô sau Chiến tranh Thế giới thứ II
hoặc các “đảng bạn” (friendly parties) hiện đang tồn tại bên cạnh Đảng cộng sản
Trung Quốc mà thôi.
Tóm
lại, xét về cả lý luận lẫn thực tế, không có căn cứ gì để có thể đi đến kết
luận: “Hiến pháp 1946 thiết lập thể chế nghị viện mạnh với cơ quan hành pháp
yếu”. Một khẳng định ngược lại: “Hiến pháp 1946 thiết lập thể chế hành pháp
mạnh với cơ quan lập pháp yếu” có lẽ phù hợp hơn với nội dung của bản hiến pháp
nói trên cũng như với thực tế lịch sử.
2. Gọi tên chế độ
chính trị tại Pháp hiện nay như thế nào?
Về
vấn đề này, tác giả Phan Thành Đạt phê phán cách gọi tên “chế độ nửa-tổng
thống” của Maurice Duverger như sau: “Cách gọi “chế độ nửa nghị viện, nửa tổng
thống” (nhận xét của nhà luật học Maurice Duverger) đối với một số nước như
Pháp cũng không chuẩn, vì về cơ bản thể chế của Pháp vẫn là chế độ nghị viện vì
hai phương tiện của thể chế này (bỏ phiếu trừng phạt và giải tán Quốc hội) vẫn
tồn tại cho dù ít được sử dụng. Chỉ có thể gọi là thể chế nghị viện, quy định
tổng thống có quyền lực lớn “le régime parlementaire à correctifs
présidentiels”.
Theo
Wikipedia (bản tiếng Pháp), khái niệm “chế độ nửa-tổng thống” của Maurice
Duverger đã bị một số nhà luật học người Pháp (như Jean Gicquel, Jean-Louis Quermonne,
Olivier Duhamel) chỉ trích vì họ cho rằng chế độ chính trị ở Pháp thời Đệ ngũ
Cộng hòa thực ra là một biến thể của chế độ đại nghị. Có những đề nghị gọi tên
mô hình chính trị đó là “chế độ đại nghị lưỡng đại diện” (régime parlementaire
bireprésentatif) – nghĩa là quyền đại diện biểu hiện đồng thời bởi nguyên thủ
quốc gia và người đứng đầu chính phủ, hoặc “chế độ đại nghị tổng thống hóa”
(régime parlementaire présidentialisé), hay “cách đọc Hiến pháp theo kiểu tổng
thống” (lecture présidentielle de la Constitution.)[5]
Đây
là vấn đề học thuật còn gây nhiều tranh cãi. Nhưng điều đáng nói là trong khi
thuật ngữ “chế độ nửa- tổng thống” (régime semi-présidentiel) bị nhiều nhà hiến
pháp học của nước Pháp chỉ trích thì tại các quốc gia ngoài nước Pháp, nó lại
được sử dụng ngày càng rộng rãi, đặc biệt là trong khoa chính trị học đối chiếu
(comparative politics):
-
Trong giáo trình Cơ sở của khoa chính trị học đối chiếu,[6] hai giáo sư Kenneth
Newton (Đại học Southampton, Anh) và Jan W. Van Deth (Đại học Mannheim, Đức)
phân loại các chế độ chính trị dân chủ ra làm 3 loại: tổng thống chế
(presidential system), đại nghị chế (parliamentary system) và chế độ nửa-tổng
thống (semi-presidential system). Chế độ chính trị của Pháp được xếp vào loại
thứ ba, và các đặc điểm của nó được phân tích trong các trang 96-99.
-
Trong cuốn Nhập môn Khoa chính trị học đối chiếu[7] của một tập thể tác
giả, giáo sư Mark Kesselman (Đại học Columbia, Hoa Kỳ) cũng xếp chế độ chính
trị của Pháp dưới chế độ Đệ ngũ cộng hòa vào loại hình nửa-tổng thống. Tại sao
nền Đệ ngũ cộng hòa được xem là một hệ thống nửa tổng thống (semipresidential)
chứ không phải là nửa đại nghị (semiparliamentary)? Câu hỏi này được
Kesselman giải thích như sau: “Bởi vì bất cứ lúc nào nền Đệ ngũ Cộng hòa đi
chệch ra khỏi một kiểu mẫu thuần túy đại nghị hay thuần túy tổng thống, kết quả
vẫn là củng cố nhánh hành pháp. Sự trộn lẫn giữa quyền hành pháp và quyền lập
pháp – đặc trưng của các chế độ đại nghị, tạo khả năng cho hành pháp kiểm soát
chương trình nghị sự của nghị viện và giải tán nghị viện. Thế nhưng, ngược lại
với các chế độ đại nghị, nghị viện Pháp không thể biểu quyết khiển trách tổng
thống. Do vậy, tổng thống – chức vụ then chốt trong nhánh hành pháp có hai đầu
– không chịu trách nhiệm trước nghị viện. Đặc điểm này phản ánh sự phân lập về
quyền lực mà chúng ta tìm thấy trong các hệ thống tổng thống” (op. cit.,
chapter 3, section 3, p.123).
Trong
một bài viết công bố trên tạp chí West European Politics vào năm 2009,
giáo sư Robert Elgie (Đại học Thành phố Dublin, Ireland) – một chuyên gia hàng
đầu về chế độ nửa-tổng thống, đã nhận xét: “Thuật ngữ này vẫn chưa được chấp
nhận trong cộng đồng của các luật sư hiến pháp (constitutional lawyers) ở Pháp.
Tuy nhiên, cộng đồng khoa học chính trị quốc tế hầu như nhất trí thừa nhận nước
Pháp có một hệ thống nửa-tổng thống. Hơn thế nữa, nước Pháp thường được coi là
một ví dụ nguyên mẫu (archetypal example) của một hệ thống như thế”[8].
Như
vậy là từ giữa thế kỷ 20 đến nay, ngoài hai mô hình cổ điển (tổng thống chế và
đại nghị chế) đã phát sinh một loại mô hình hỗn hợp mà người ta có thể gọi bằng
nhiều tên: nửa-tổng thống (semi-presidential system), lai ghép (hybrid system),
hỗn hợp (mixed system). Riêng tại Pháp, mô hình mới xuất hiện từ sau năm 1958
đã tồn tại hơn nửa thể kỷ và đã chứng tỏ khả năng trở thành một hệ thống chính
trị bền vững, ổn định. Đó chính là lý do nhiều quốc gia hậu-cộng sản (như Ba
Lan, Bulgaria, Romania,…) đã chọn mô hình này. Ngay cả nước Nga hậu-cộng sản
cũng đang học tập mô hình này, mặc dù thực hiện không thành công do chưa cởi bỏ
được những di sản nặng nề của quá khứ.
3) Về những khuyết
điểm của HP 1946-VN so với các hiến pháp tiến bộ
a. Những khuyết điểm
của các bản Hiến pháp tiến bộ
Tác
giả Phan Thành Đạt đã bỏ ra rất nhiều công sức để liệt kê “những khuyết điểm
của các bản Hiến pháp tiến bộ”, trong đó hai bản hiến pháp được chọn là Hiến
pháp Hoa Kỳ và Hiến pháp 1958 của Pháp. Phần dẫn chứng dài dòng và có hơi lạc
đề này có lẽ nhằm chứng minh rằng “những thiếu sót” của bản Hiến pháp 1946 của
nước ta là “tất yếu”, là “thiếu sót trên bước đường phát triển” và tuy có thiếu
sót, hiến pháp này vẫn có thể được coi là “«bản Hiến pháp không hề thua kém bất
kỳ bản Hiến pháp nào trên thế giới»[9].
Thật
ra, giá trị căn bản của một bản hiến pháp không phải là “có khuyết điểm hay
không” mà là: khuyết điểm (hay những khuyết điểm) đó có tính chất nghiêm trọng
hay không? Nói cách khác, các khuyết điểm đó có ảnh hưởng xấu đến việc thực thi
các quyền công dân và quyền con người hay không, có nguy cơ dẫn đến chế độ độc
tài hay không?
Xét
theo quan điểm đó, Hiến pháp Hoa Kỳ cho dù còn có một số khuyết điểm, vẫn là
một hiến pháp ưu việt, rất đáng cho chúng ta học hỏi. Ưu điểm lớn nhất của Hiến
pháp Hoa Kỳ là đã thiết lập một hệ thống các thiết chế chính trị dân chủ bảo
đảm được nguyên tắc tam quyền phân lập, tạo ra được một cơ chế “kiểm soát và
làm cân bằng” (checks and balances), bảo đảm thực hiện được các quyền tự do căn
bản của người dân – nhất là các quyền ghi trong Tu chính án số 1. Kể từ khi ra
đời vào cuối thế kỷ 18, Hiến pháp Hoa Kỳ đã trở thành căn cứ pháp lý vững chắc
để người dân và các nhà hoạt động dân chủ dựa vào đó đấu tranh chống lại các
bất công xã hội, xây dựng một xã hội công bằng, xậy dựng một chế độ pháp trị
(rule of law) trong đó tất cả mọi người – kể cả những người cầm quyền, đều phải
tôn trọng pháp luật.
Vào
năm 1787, khi Hiến pháp Hoa Kỳ ra đời, chế độ nô lệ vẫn còn tồn tại và những
người da đen vẫn chưa được công nhận là công dân Hoa Kỳ. Công cuộc giải phóng
người da đen chỉ bắt đầu khoảng bảy thập niên sau đó, đặc biệt là sau khi Tổng
thống Abraham Lincoln công bố bản Tuyên bố giải phóng nô lệ
(Emancipation Proclamation, 1863). Năm 1865, tu chính án số 13 mới được đưa vào
Hiến pháp nhằm luật hóa việc xóa bỏ chế độ nô lệ và sang năm sau (1866), tu
chính án số 14 mới chính thức trao quyền công dân cho các nô lệ cũ nhằm bảo vệ
họ khỏi nạn kỳ thị chủng tộc trong tất cả các bang.
Tuy
nhiên, mặc dù công cuộc giải phóng người da đen đã được hợp pháp hóa, cuộc đấu
tranh giành quyền bình đẳng vẫn chưa dừng lại ở đó. Sau khi nội chiến chấm dứt,
tình trạng phân biệt đối xử với người da đen vẫn tiếp tục diễn ra – đặc biệt là
tại các tiểu bang miền Nam.
Điều
đáng chú ý là ngay từ khi chế độ nô lệ chưa bị xóa bỏ, Tổng thống Abraham Lincoln
đã nhìn thấy sức mạnh tiềm tàng của Hiến pháp Hoa Kỳ, đánh giá đúng khả năng
đấu tranh bằng con đường ôn hòa để giải quyết các bất công xã hội được chứa
đựng trong các điều khoản của hiến pháp. Vào ngày 19-1-1860, trong lá thư viết
cho Alexander H. Stephens, một lãnh tụ của miền Nam, ông đã viết: “Quyền hội
họp một cách ôn hòa, quyền kiến nghị và quyền sửa đổi (hiến pháp) bằng điều 5
của Hiến pháp, là sự thay thế con đường cách mạng bằng con đường của hiến pháp[10]. Đây là bản Magna
Carta của chúng ta – không phải do các Nam tước đã giành được từ tay Vua John,
mà là món quà miễn phí các tiểu bang đã trao tặng cho quốc gia mà họ đã thành
lập…”[11].
Ý
kiến đó của Tổng thống Lincoln thật sự là một lời tiên tri. Mặc dù vào thời của
ông, con đường đấu tranh ôn hòa đã không thể trở thành hiện thực, nước Mỹ đã
không tránh được một cuộc nội chiến đẫm máu, nhưng sau khi nội chiến chấm dứt,
người dân Hoa Kỳ đã rút ra được bài học đắt giá và dần dần tập cách sử dụng
Hiến pháp như một vũ khí đấu tranh. Vào giữa thế kỷ 20, người da đen ở Hoa Kỳ
đã dựa vào những vũ khí pháp lý tiềm tàng trong Hiến pháp để đấu tranh một cách
ôn hòa, giành quyền bình đẳng thật sự cho người Mỹ gốc Phi. Tiêu biểu cho con
đường đấu tranh bất bạo động này là Phong trào Quyền dân sự của người Mỹ gốc
Phi (African-American Civil Rights Movement) trong giai đoạn 1955–1968 dưới sự
lãnh đạo của mục sư Martin Luther King, Jr.. Vào giữa thập niên 1960, phong
trào này đã giành được những thành quả vang dội như Đạo luật về Quyền dân sự
năm 1964 (Civil Rights Act 1964) được ban hành dưới thời của Tổng thống
Lyndon B. Johnson và các đạo luật khác nhằm xóa bỏ tình trạng kỳ thị chủng tộc
tại Hoa Kỳ. Sự kiện Tổng thống Barack Obama, một người Mỹ gốc Phi (African American)
trở thành tổng thống Hoa Kỳ vào đầu năm 2009 đánh dấu một cột mốc lịch sử qua
đó thể hiện sức mạnh của nền dân chủ Mỹ.
Như
vậy, bất chấp những lời phê phán cực đoan của các trí thức cánh tả, Hiến pháp
Hoa Kỳ đã trở thành điểm tựa của phương thức đấu tranh ôn hòa trong phạm vi của
một thể chế dân chủ. Đó cũng là nguyên nhân khiến cho các xu hướng đấu tranh
cách mạng, bạo động, lật đổ không hấp dẫn được người dân Mỹ.
Một
ví dụ khác thường được nhắc đến là sức mạnh của nhánh tư pháp tại Hoa Kỳ, một
nhánh quyền lực có tính độc lập rất cao và có quyền thẩm tra pháp lý (judicial
review). Điều ít người chú ý là quyền này không phải đã được minh định ngay từ
đầu. Xét về mặt văn bản, không có điều khoản nào của Hiến pháp Hoa Kỳ quy định
quyền của các tòa án được phép giải thích Hiến pháp và vô hiệu hóa các hành
động vi hiến. Quyền này là do các thẩm phán đấu tranh giành được. Vào năm 1803,
qua án lệ Marbury chống Madison, thẩm phán John Marshall của Tòa án Tối
cao Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng: nhiệm vụ của các tòa án là “nói rõ nội dung của
luật là gì” và nếu một đạo luật của Quốc hội đi ngược lại hiến pháp thì tòa án
phải bác bỏ đạo luật không phù hợp đó. Kể từ đó, Tòa án Tối cao mới xác lập
được một cách chắc chắn thẩm quyền của mình trong việc thẩm tra tính hợp hiến
của các đạo luật do Quốc hội ban hành.
Trong
bài viết của mình, tác giả Phan Thành Đạt phê phán Hiến pháp năm 1958 của nước
Pháp là “tấm áo vá víu các quyền tự do dân chủ” vì “không nêu rõ các quyền cơ
bản của công dân”, và coi đó là “thiếu sót rất lớn của bản Hiến pháp này, so
với 14 bản Hiến pháp trước đó”. Nhưng không ai có thể kết luận rằng bản Hiến
pháp 1958 đã thủ tiêu các quyền tự do căn bản được khẳng định trong Bản
Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền năm 1789. Cũng không ai có thể chứng
minh được Tổng thống De Gaulle xây dựng bản Hiến pháp đó nhằm tiến đến một chế
độ độc tài. Thành công lớn nhất của bản Hiến pháp 1958 là ở chỗ nó tạo ra một
cơ chế hữu hiệu nhằm giải quyết tình trạng bất ổn về chính trị do các xu hướng
cực đoan gây ra, từ phía cánh hữu lẫn phía cánh tả. Tính hữu hiệu của Hiến pháp
1958 đã được thực tế kiểm nghiệm qua hơn nửa thế kỷ áp dụng. Mặc dù lúc đầu bị
cánh tả công kích, hệ thống nửa-tổng thống do Hiến pháp 1958 thiết lập đã thể
hiện được sức sống của nó, nhất là từ khi cánh tả ôn hòa cũng tìm thấy lợi thế
của họ trong mô hình này. Việc Francois Mitterand đảm nhiệm hai nhiệm kỳ tổng
thống và gần đây, François Hollande trở thành tổng thống thứ hai của nền Đệ
ngũ Cộng hòa xuất thân từ cánh tả cho thấy khả năng mô hình này sẽ trở thành
bền vững, có thể chịu đựng được thử thách qua thời gian.
Dù
sao thì trong khi đánh giá các bản Hiến pháp, không thể chỉ dựa vào những quyền
tự do được ghi trong văn bản mà quên đi thực tế. Nếu chỉ dựa vào việc công bố
các quyền công dân và quyền con người trong một bản hiến pháp để đánh giá tính
dân chủ của một chế độ thì nước Nga hiện nay có thể được coi là một quốc gia vô
địch về dân chủ. Trong phần mở đầu của Hiến pháp Nga hiện nay, những người soạn
thảo đã dành đến 48 điều (từ điều 17 đến điều 64) để trình bày chi tiết về các
quyền công dân và quyền con ngýời. Thực tế cho thấy phần lớn các quyền tự do
được ghi trong Hiến pháp Nga chỉ là “tự do trên giấy tờ” chứ không phải là “tự
do trong thực tế”. Sự mất cân bằng nghiêm trọng giữa các nhánh quyền lực –
nghiêng hẳn về phía hành pháp, cũng như hệ thống đảng phái cực kỳ mất cân đối
của nước Nga hiện nay đã là nguyên nhân chủ yếu khiến cho các quyền tự do căn
bản của người dân Nga bị vi phạm một cách nghiêm trọng.
Trở
lại với bản Hiến pháp 1946 của nước VNDCCH, chúng ta dễ dàng thấy rõ những
khuyết điểm của bản Hiến pháp này là thật sự nghiêm trọng:
-
Việc thiết lập một hệ thống chính trị tập trung quyền lực quá đáng vào tay một
cá nhân (Chủ tịch Nước) tạo ra nguy cơ dẫn đến một chế độ độc tài cá nhân. Đặc
biệt nghiêm trọng là việc một Chủ tịch Nước trực tiếp nắm quyền hành pháp
lại có thể tham gia từ đầu đến cuối quá trình lập pháp: vừa tham gia soạn
thảo và đệ trình dự luật – với tư cách là người đứng đầu Chính phủ, vừa được
phép tham gia thảo luận và biểu quyết dự luật với tư cách thành viên Nghị viện;
sau khi Nghị viện thông qua lại được quyền phủ quyết. Điều này cho thấy quyền
lực của Chủ tịch Nước không kém một vị Hoàng đế, một “nhà vua giấu mặt” khoác
chiếc áo “dân chủ cộng hòa”. Điều khó hiểu là tác giả Phan Thành Đạt đã bỏ qua,
không hề nhắc đến khuyết điểm này.
-
Sự hình thành một nhóm nhỏ bên trong Nghị viện có tên là Ban Thường vụ Nghị
viện và việc cho phép cơ quan này thay mặt Nghị viện quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước đã ảnh hưởng nghiệm trọng đến tính chất đại diện nhân dân
của cơ quan lập pháp. Với một Nghị viện như thế, không có gì bảo đảm việc thực
thi các quyền tự do căn bản được ghi trong hiến pháp vì thiếu vắng các thiết chế
hữu hiệu để kiểm soát quyền lực của cơ quan hành pháp, và do đó, không thể xây
dựng một Nhà nước pháp quyền đúng nghĩa. Những người cầm quyền có thể viện dẫn
bất cứ lý do nào (từ tình trạng chiến tranh cho đến âm mưu của thực dân đế
quốc, nguy cơ “diễn biến hòa bình”, v.v.) nhằm trì hoãn hoặc thủ tiêu các quyền
tự do căn bản của người dân.
-
Việc Hiến pháp 1946 cho phép Ban Thường vụ Nghị viện được cùng với Chủ tịch
Nước quyết định một số vấn đề hệ trọng của đất nước “trong thời gian Nghị viện
không họp” đã tạo ra một điều kiện thuận lợi để cho các nhà lãnh đạo có thể tùy
tiện quyết định mọi vấn đề quan trọng của đất nước mà không chịu bất kỳ sự kiểm
soát nào. So với chế độ quân chủ tập quyền, cơ chế này còn nguy hại hơn, bởi lẽ
Nhà vua phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về tất cả những quyết định của
mình – kể cả lời khen lẫn tiếng chê, còn Chủ tịch Nước VNDCCH thì tuy quyền hạn
không kém gì Nhà vua nhưng mỗi khi làm sai lại được các “đại biểu nhân dân”
(tức Ban Thường vụ Nghị viện) đứng ra gánh giùm trách nhiệm!
Những
người ca ngợi Hiến pháp 1946 thường cố tình quên đi một sự thật là các quyền tự
do căn bản của người dân được ghi trong hiến pháp này đã không trở thành hiện
thực trong suốt thời gian 1946-1959. Ngược lại, có những bằng chứng cho thấy các
quyền tự do đó đã bị xâm phạm một cách nghiêm trọng:
-
Vào ngày 4-12-1953, Quốc hội khóa I của VNDCCH đã thông qua Luật cải cách
ruộng đất, vi phạm nghiêm trọng “quyền tư hữu tài sản của công dân Việt
Nam” được ghi tại điều 12 của Hiến pháp 1946. Điều kỳ lạ là văn bản này không
phải là một sắc lệnh của Chủ tịch Nước, cũng không phải là một dự
luật “được Chủ tịch Nước và Ban Thường vụ Nghị viện thông qua trong thời
gian Nghị viện không họp”, mà là một Luật “do Quốc hội thông qua”. Người
ta có thể đặt câu hỏi cho các nhà sử học và các nhà luật học: một kỳ họp Quốc
hội như thế, được tiến hành giữa lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra ác liệt,
liệu có bảo đảm đủ số lượng đại biểu cần thiết (quorum) để có thể thông qua
luật một cách hợp lệ?
-
Vào năm 1956, một vụ đàn áp quy mô đối với giới trí thức và văn nghệ sĩ đã diễn
ra khốc liệt, thường được gọi là vụ Nhân văn-Giai phẩm. Từ trước đến nay đã có
nhiều tài liệu viết về đề tài này, nhưng hình như chưa có ai đặt vấn đề về
phương diện pháp lý: chiến dịch đàn áp này có vi phạm vào điều 10 của Hiến pháp
1946 (quy định quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp,
v.v.) hay không?
Cần
ghi nhớ rằng mặc dù bản Hiến pháp chưa được toàn dân “phúc quyết” để có thể trở
thành chính thức nhưng vào ngày 9-11-1946, sau khi thông qua Hiến pháp 1946,
Quốc hội khóa I của Nước VNDCCH đã ra “Nghị quyết Uỷ nhiệm Chính phủ và Ban
Thường trực Quốc hội thi hành Hiến pháp” trong đó long trọng tuyên bố: “Trong
thời kỳ chưa thi hành được thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã định
trong Hiến pháp để ban hành các sắc luật”[12].
Cũng
có người biện hộ rằng nếu gặp hoàn cảnh thuận lợi hơn thì Hiến pháp 1946 đã
được đưa vào thực hiện và được sửa đổi theo hướng thật sự dân chủ, những khiếm
khuyết chắc chắn sẽ được sửa chữa, bổ sung. Lập luận này thật ra chỉ là sự suy
luận thuần túy không dựa trên cơ sở lý luận cũng không phù hợp với thực tế, bởi
lẽ:
-
Những người chủ trì việc soạn thảo Hiến pháp 1946 chưa hề có ý định thực hiện
nghiêm túc những gì được ghi trong Hiến pháp. Ngay cả về danh xưng, mặc dù Hiến
pháp ghi rõ cơ quan lập pháp là Nghị viện, cơ quan thường trực của nó là Ban
Thường vụ Nghị viện, nhưng các tên gọi Quốc hội và Ban Thường trực Quốc hội (có
từ trước khi thông qua Hiến pháp) vẫn được giữ nguyên cho đến khi bản Hiến pháp
1946 bị hủy bỏ. Chức vụ Thủ tướng bị bỏ trống trong gần 10 năm, chức vụ Phó Chủ
tịch Nước cũng bị bỏ trống trong suốt thời gian tồn tại của Hiến pháp 1946. Các
nhà lãnh đạo cộng sản chỉ lợi dụng những điều khoản có lợi cho họ và hoàn toàn
bỏ quên, không thi hành những điều khoản có lợi cho nhân dân.
-
Ngay sau khi hòa bình lập lại tại miền Bắc, thay vì đưa vào áp dụng bản Hiến
pháp 1946 và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với xu hướng dân chủ hóa, Đảng Cộng
sản (lúc đó mang tên Đảng Lao động Việt Nam) đã xé bỏ văn bản lập hiến đó và
thay thế bằng bản Hiến pháp 1959. Hành động này cho thấy những người cộng sản
Việt Nam chỉ coi Hiến pháp 1946 là một phương tiện tạm thời mang tính “sách
lược” (tactic) chứ không phải “chiến lược” (strategic), theo đúng phương pháp
của Lenin.
Hiến
pháp 1946 suy cho cùng chỉ là một công cụ tuyên truyền để biện minh cho các
hành động của Đảng cộng sản chứ không có ý nghĩa pháp lý hay tác dụng thực tế
nào cả. Có thể nói dưới sự lãnh đạo “toàn diện và tuyệt đối” của Đảng cộng sản,
toàn bộ đời sống chính trị của đất nước đều được quyết định trong bóng tối,
trong phòng họp kín của Ban chấp hành Trung ương Đảng và nhất là của Bộ chính
trị. Và đó chính là di sản tệ hại nhất mà cả dân tộc phải thừa hưởng từ tinh
thần cốt lõi của bản Hiến pháp 1946.
Mặt
khác, để có thể tiến hành sửa đổi một bản hiến pháp theo hướng dân chủ hóa, cần
có hai điều kiện căn bản:
(1)
Quốc hội (hay Nghị viện) phải thật sự đại diện cho dân và có đủ quyền lực để
quyết định trong công tác lập pháp và lập hiến, (2) chế độ chính trị đa đảng,
trong đó phe đối lập có đủ sức mạnh để kiềm chế đảng hay liên minh chính trị
cầm quyền, chống lại mọi sự lạm dụng quyền lực và bảo đảm thực thi các quyền tự
do căn bản của người dân, tạo điều kiện phát triển một xã hội dân sự lành mạnh.
Cả hai điều kiện này đều không tồn tại tại miền Bắc từ năm 1954 và trên phạm vi
cả nước kể từ tháng 4 năm 1975 cho đến ngày nay.
Cuối
cùng, để kết thúc bài viết này, có một vài câu hỏi cần đặt ra, không phải dành
cho những người cộng sản đang cầm quyền mà dành cho những người được mệnh danh
là trí thức yêu nước: Tại sao lại phải cố níu kéo một bản hiến pháp mà ngay
cả những người làm ra nó cũng không hề xem trọng, thậm chí còn thẳng tay xé bỏ
nó một cách không thương tiếc để thay thế bằng một bản hiến pháp khác mà họ
đánh giá là phù hợp hơn, có giá trị hơn? Tại sao lại phải bám víu vào một bản
hiến pháp nhiều khuyết tật trong khi thế giới có biết bao nhiêu bản hiến pháp
đáng giá khác mà chúng ta có thể tham khảo, học hỏi?
Về
phía những người cộng sản, họ có lý do để bám víu vào bản Hiến pháp 1946, bởi
vì “ăn mày dĩ vãng” là cách duy nhất để biện minh cho việc Đảng nắm giữ địa vị
cầm quyền, bất chấp tình trạng tham nhũng và sự suy đồi nghiêm trọng của hệ
thống chính trị, bất chấp nguyện vọng của nhân dân. Nhưng về phía những người
trí thức, lý do gì khiến một số người vẫn tiếp tục duy trì ”huyền thoại về một
Nhà nước dân chủ cộng hòa” của thời kỳ 1945-46, nuôi dưỡng niềm hy vọng viển
vông về một chế độ “cộng sản-dân chủ” trong tương lai?
Nhà
thơ Chế Lan Viên đã từng “xưng tội” với nhân dân bằng bài thơ “Bánh vẽ”. Bài
thơ ấy mở đầu bằng những câu:
Chưa
cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế
nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm
lên nhấm nháp
Dù
sao thì “cùng với bạn bè nhấm nháp cái bánh vẽ” vẫn chưa phải là lầm lỗi nghiêm
trọng nhất. Nghiêm trọng hơn nữa là vẫn còn có nhiều bậc trí thức uyên bác
chẳng những sẵn sàng nhấm nháp những cái bánh vẽ mà còn tìm cách mời gọi người
khác cùng ăn, thậm chí còn tham gia vẽ thêm nhiều chiếc bánh mới. Lỗi lầm ấy –
dù vô tình hay cố ý, mới thật sự là lỗi lầm không thể tha thứ!
Đà Lạt, 3-10-2012
M.T.L.
—————————————————————————————
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Hiến pháp 1946 của
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
- Constitution de
1875, IIIe République:
- Constitution de
1946, IVe République:
- Robert Elgie, “Duverger,
semi-presidentialism and the supposed French archetype”, West European Politics,
Volume 32 (2), 2009, pp. 248-267:
-
Kenneth Newton and Jan W. Van Deth, Foundations of comparative politics, Cambridge
University Press, 2010.
-
Mark Kesselman, Joel Krieger, William A. Joseph (General Editors), Introduction
to Comparative Politics: Political Challenges and Changing Agendas, Fifth
Edition, Wadsworth, Cengage Learning, Canada, 2010,
-
Quốc hội Việt Nam, Văn kiện Quốc hội toàn tập, tập I, 1945-1960, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006:
[1] Phan Thành Đạt, Giá trị
của Hiến pháp năm 1946 so với các bản Hiến pháp tiến bộ, Bauxite Vietnam
16, 17, 18-9-2012:http://www.boxitvn.net/bai/41339http://www.boxitvn.net/bai/41359http://www.boxitvn.net/bai/41372
[2] Mai Thái Lĩnh, Những
khuyết điểm nghiêm trọng của Hiến pháp 1946, Pro&Contra 13-7-2012:http://www.procontra.asia/?p=743
[3] Trong bài viết, tác
giả Phan Thành Đạt thường lẫn lộn giữa các tên gọi. Cần phân biệt cách gọi tên
trong Hiến pháp 1946 (Nghị viện, Ban Thường vụ Nghị viện) và cách gọi tên trong
thực tế (Quốc hội, Ban Thường trực Quốc hội). Các tên gọi trong thực tế có từ
đầu năm 1946, nghĩa là trước khi thông qua Hiến pháp 1946, và vẫn không thay
đổi cho đến khi có Hiến pháp mới (1959). Từ 1960 đến 1980, cơ quan lập pháp có
tên là Quốc hội, còn bộ phận thường trực có tên là Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[4] Báo cáo về hoạt
động của Ban Thường trực Quốc hội do ông Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Thường trực
Quốc hội, trình bày tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa I, ngày 30-10-1946; Văn
kiện Quốc hội toàn tập, tập I, sđd:http://www.na.gov.vn/sach_qh/vkqhtoantap_1/nam1946/1946_12.html
[5] “Régime
semi-présidentiel”, Wikipédia bản tiếng Pháp.
[6] Kenneth Newton and
Jan W. Van Deth, Foundations of comparative politics, Cambridge
University Press, 2010.
[7] Introduction to
Comparative Politics: Political Challenges and Changing Agendas, Fifth
Edition, General Editors: Mark Kesselman, Joel Krieger, William A. Joseph,
Wadsworth, Cengage Learning, Canada, 2010.
[8] Elgie, Robert
(2009) Duverger, semi-presidentialism and the supposed French archetype.
West European Politics, Volume 32 (2), 2009, pp. 248-267:http://doras.dcu.ie/4513/1/Elgie_WEP_2009_Duverger_and_semi-presidentialism.pdf
[9] Quốc hội Nước
CHXHCN Việt Nam tự khen bản hiến pháp này như sau: “ Hiến pháp 1946 là bản hiến
pháp đầu tiên của nước ta, là một bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém một
bản hiến pháp nào trên thế giới. Nó là bản hiến pháp mẫu mực trên nhiều phương
diện.”; trích theo bài “Ý nghĩa của bản hiến pháp đầu tiên” đăng trên trang
mạng của Quốc hội Việt Nam:http://www.na.gov.vn/60namqhvn/www.na.gov.vn/60namqhvn/noidungynghia/ynghia-hp46.html
[10] Nguyên văn: “the Constitutional
substitute for revolution”.
[11] Some Lincoln
Correspondence with Southern Leaders before the Outbreak of the Civil War –
from the collection of Judd Stewart, New York, 1909, Original from Library of
Congress: http://hdl.handle.net/2027/loc.ark:/13960/t3pv6ks5g
[12] Nghị quyết của kỳ
họp thứ 2, Quốc hội khóa I Nước VNDCCH ngày 9-11-1946 Uỷ nhiệm Chính phủ và Ban
Thường trực Quốc hội thi hành Hiến pháp, Văn kiện Quốc hội Toàn tập, tập
I:http://www.na.gov.vn/sach_qh/vkqhtoantap_1/nam1946/1946_23.html Tác giả gửi trực
tiếp cho BVN
No comments:
Post a Comment