Luật sư Nguyễn Văn Đài - Ủy
Ban Nhân Quyền Việt Nam
22-10-2012
Quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí là quyền con người không thể bị tước đoạt. Bởi vậy nó
được bảo vệ không chỉ ở cấp độ đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất của quốc
gia là Hiến pháp mà còn được bảo vệ ở Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị do Liên Hiệp Quốc ban hành.
Điều 69 Hiến
pháp Việt Nam 1992 qui định: “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí…”
Điều 4 luật
Báo chí cụ thể hóa quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận như sau :
“1- Được
thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới ;
2- Tiếp xúc,
cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác
phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin ;
3- Phát biểu
ý kiến về tình hình đất nước và thế giới ;
4- Tham gia
ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước ;
5- Góp ý
kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức
của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của các tổ chức đó.”
Điều 19 Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị:
“Mọi người
đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, nhận
và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến, không phân biệt ranh giới, hình thức
tuyên truyền miệng, hoặc bằng bản viết, in, hoặc bằng hình thức nghệ thuật hoặc
thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.”
Theo các qui
định của Hiến pháp, luật Báo chí và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị. Chúng ta đều nhận thức rằng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là
điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển đầy đủ của các quyền con người.
Chúng cần thiết cho bất kỳ xã hội nào. Chúng cần thiết cho tất cả các xã hội tự
do và dân chủ. Hai quyền này liên quan chặt chẽ với nhau, chúng cung cấp phương
tiện cho việc trao đổi và phát triển ý kiến.Tự do ngôn luận, tự do báo chí là
điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các nguyên tắc minh bạch, cần thiết cho
việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền.
Quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí được đề cập đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao
gồm cả thể chế chính trị, pháp luật, văn học(sáng tác thơ, ca,…), nghệ thuật,…
Không có sự hạn chế nào. Nhà nước không được áp đặt hay ép buộc công dân chỉ
được bày tỏ quan điểm, chính kiến theo một chiều. Công dân có quyền giữ quan
điểm chính trị của mình mà không bị can thiệp. Họ có quyền tự do lựa chọn thay
đổi quan điểm bất cứ khi nào và vì bất cứ lý do gì.Quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí không bị giàng buộc bởi đường biên giới quốc gia.
Công dân
được sử dụng mọi phương tiện truyền thông như báo giấy, báo điện tử, radio,
truyền hình, internet,… để thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của
mình. Một nền báo chí hay truyền thông tự do, không bị kiểm duyệt hay bị cản
trở là cần thiết cho bất kỳ xã hội nào. Đó là trụ cột của một xã hội dân chủ.
Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho mọi công dân có thể tiếp cận và sử dụng các
phương tiện đó.
Công dân sử
dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để yêu cầu, kiến nghị việc sửa đổi
hay bãi bỏ bất kỳ điều nào trong Hiến pháp cũng như trong các bộ luật. Không có
điều nào trong Hiến pháp là điều cấm mà công dân không có quyền kiến nghị sửa
đổi hoặc hủy bỏ.
Công dân sử
dụng quyền tư do ngôn luận, tự do báo chí để bày tỏ mong muốn thay đổi, cải
cách hệ thống chính trị nhằm đáp ứng các quyền tự do dân chủ cũng như lợi ích
của nhân dân. Công dân có quyền bày tỏ ước muốn xây dựng nền chính trị đa
nguyên, đa đảng.
Do đó, quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí đã được qui định trong Hiến pháp, luật và Công
ước quốc tế để bảo đảm rằng chính quyền phải tôn trọng và không được xâm phạm
đến quyền của công dân.
Và trách
nhiệm của chính quyền là:
Chính quyền
cũng như cả hệ thống chính trị từ trung ương đến các địa có nghĩa vụ tôn trọng
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Cũng như có trách nhiệm bảo
vệ mọi công dân khi họ thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Trong bình
luận chung số 34 về điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
của Hội đồng nhân quyền LHQ trong phiên họp 102 từ ngày 11 đến ngày 29 tháng 7
năm 2011. Mục số 7 và 8 nêu rõ:
“7. Nghĩa vụ
tôn trọng tự do quan điểm và tự do biểu đạt là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi
Quốc gia thành viên như một chỉnh thể. Tất cả mọi nhánh quyền lực nhà nước
(hành pháp, lập pháp và tư pháp) và các cơ quan công quyền và tổ chức của chính
phủ, dù ở cấp độ nào – quốc gia, khu vực hay địa phương – đều có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ của Quốc gia thành viên. Các trách nhiệm đó cũng có thể phát
sinh với một Quốc gia thành viên trong một số trường hợp nhất định liên quan
đến các chủ thể có tư cách bán nhà nước. Nghĩa vụ này cũng yêu cầu các Quốc gia
thành viên phải đảm bảo rằng mọi người được bảo vệ khỏi bất kỳ hành vi nào của
cá nhân hay pháp nhân thuộc khu vực tư có thể ảnh hưởng xấu đến việc thụ hưởng
các quyền tự do quan điểm và tự do biểu đạt đến mức độ những quyền theo Công
ước này dễ bị ảnh hưởng bởi việc áp dụng của các cá nhân hoặc pháp nhân thuộc
khu vực tư.
8. Các Quốc
gia thành viên phải đảm bảo rằng các quyền trong Điều 19 của Công ước có hiệu
lực trong hệ thống nội luật của quốc gia, và có tinh thần nhất quán với những
chỉ dẫn của Ủy ban trong Bình luận chung số 31 về bản chất của các nghĩa vụ
pháp lý chung đối với Nước thành viên Công ước….”
Những trở
ngại khi công dân Việt Nam thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Trong những
năm vừa qua, đã có nhiều công dân khi sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí để bày tỏ quan điểm chính trị đối lập, phê phán những sai lầm, yếu kém,
tham nhũng của đảng Cộng sản. Một số nghệ sĩ như Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình
chỉ sáng tác những ca khúc bày tỏ những trăn trở với vận mệnh đất nước. Nhưng
tất cả họ đã bị truy tố và xét xử với mức án nặng nề theo điều 88 bộ luật Hình
sự. Ngoài gia hàng trăm người khác thường xuyên bị sách nhiễu.
Do vậy điều
88 bộ luật Hình sự là trở ngại cho công dân khi họ thực hiện quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí. Các hành vi chống nhà nước của điều 88 được hệ thống các
cơ quan tư pháp của Việt Nam hiểu, giải thích và áp dụng như sau: Hành vi
tuyên truyền nhằm làm giảm lòng tin với đảng CS, với chế độ XHCN, phá hoại sự
thống nhất về chính trị, tư tưởng trong xã hội, xâm phạm sự vững mạnh của chính
quyền nhân dân và chế độ XHCN. Hành vi xuyên tạc, đả kích các chủ trương, chính
sách của đảng CS và nhà nước trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã
hội, quản lý cán bộ, công chức nhà nước,… Hành vi lợi dụng những tiêu cực,
khoét vào những khó khăn trước mắt, thổi phồng những khuyết điểm trong quản lý
kinh tế, quản lý xã hội, làm cho người khác không tin vào chế độ, và sự lãnh đạo
của đảng CS, sự quản lý điều hành của bộ máy nhà nước.
Khi chúng ta
đối chiếu nội hàm của điều 88 bộ luật Hình sự với điều 69 Hiến pháp, điều 4
luật Báo chí, điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Thì
chúng ta thấy rằng chính quyền cũng như các cơ quan tư pháp của Việt Nam đã
diễn giải điều 88 bộ luật Hình sự nhằm bóp chết quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí của công dân. Do vậy điều 88 bộ luật hình sự là VI HIẾN, nó chống lại
điều 69 Hiến pháp, điều 4 luật Báo chí và Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền
dân sư và chính trị.
Lòng tin của
nhân dân với đảng Cộng sản phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức
của mỗi đảng viên và cả tập thể đảng Cộng sản. Còn lòng tin của nhân với chế độ
XHCN phụ thuộc vào việc nó có mang lại quyền bình đẳng và quyền làm chủ đất
nước của nhân dân hay không. Đảng Cộng sản không thể áp đặt tuyệt đối tư tưởng
chính trị của mình lên toàn bộ xã hội. Còn các đường lối, chủ trương, chính
sách của đảng Cộng sản, của chính phủ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội,…có
thể đem lại lợi ích cho một bộ phận người dân này, nhưng với những người khác
thì ngược lại. Những người được hưởng lợi thì họ ủng hộ, còn những người mất
lợi ích thì họ có quyền phản đối. Những tiêu cực, sai lầm, khuyết điểm của
chính quyền thì có nhưng người đánh giá không đáng kể, còn những người khác họ
có quyền đánh giá là nghiêm trọng, tùy theo cách nhìn của mỗi người. Hoặc chế
độ XHCN được nhiều người dân cho là phù hợp, và họ ủng hộ. Nhưng với rất nhiều
người khác họ cho là không phù hợp và họ có quyền tự do phê phán, đả kích, thậm
chí họ có quyền đòi hỏi thay đổi. Cùng một sự việc, một hiện tượng, nhưng mỗi
người dân có những cách nhìn, quan điểm khác nhau. Nhóm này đồng ý, ủng hộ.
Nhóm khác không đồng ý và phản đối.
Và nếu tất
cả mọi công dân đều sử dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để ca ngợi và
bày tỏ sự ủng hộ đối với chính phủ, đảng Cộng sản và chế độ XHCN. Chắc chắn
chính quyền không bao giờ trừng phạt họ. Và quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí không cần thiết được bảo vệ bởi Hiến pháp, luật và Công ước quốc tế. Nhưng
ở Việt Nam cũng như trên thế giới, công dân thường sử dụng quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí để bày tỏ sự bất bình, sự phản đối, chỉ trích hay phê phán
những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm của chính phủ, chế độ XHCN. Trách nhiệm của
chính quyền là bảo vệ và tôn trọng quyền tự do ngôn luận của cả nhóm công dân
ủng hộ và nhóm công dân phản đối.
Làm thế nào
để quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân được tôn trọng và bảo vệ?
Nếu đảng
Cộng sản và Nhà nước Việt Nam thực sự tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí của công dân. Quốc hội Việt Nam phải tiến hành hủy bỏ điều 88 bộ luật
Hình sự, bởi đây là một điều luật vi hiến. Trong khi việc này chưa xảy ra thì
chính phủ phải trả tự do cho tất cả những người đang bị giam giữ, bị cầm tù
theo điều 88 bộ luật Hình sự, bãi bỏ quản chế với những người đã hết án tù.
Chấm dứt sách nhiễu với những công dân đang thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí.
Hà nội, ngày 22 tháng 10 năm 2012
Luật sư Nguyễn Văn Đài
Các bài có liên quan:
No comments:
Post a Comment