Sunday, 14 October 2012

PHÁC THẢO GỢI Ý "SÁCH LƯỢC QUỐC GIA" [2/2] (Phạm Bá Hoa)




October 13, 2012 8:03 AM


Các phụ bản:
Phụ bản A. Gợi ý tìm hiểu nguyện vọng người dân.
Phụ bản B. Gợi ý thành phần chánh phủ lâm thời.
Phụ bản C. Gợi ý sách lược quốc gia.
Phụ bản D. Gợi ý chính sách từng ngành.
Phụ bản E. Gợi ý Bản Thông Điêp đầu tiên.
Phụ bản F. Gợi ý kế hoạch ổn định xã hội của chánh phủ lâm thời.

* * *

Phụ bản A.
Gợi ý tìm hiểu Nguyện Vọng Người Dân

1. MỤC ĐÍCH.
Muốn phục vụ người dân, bất luận nhóm lãnh đạo quốc gia ngay sau khi chế độ độc tài sụp đổ là những vị nào, nhất thiết phải tìm hiểu “Nguyện Vọng Người Dân”, vì đó chính là “Mục Tiêu Quốc Gia” mà nhóm lãnh đạo có trách nhiệm thực hiện. Vậy, “Nguyện Vọng Người Dân” trong thời kỳ hậu cộng sản là gì? Lẽ ra phải thông qua cuộc trưng cầu dân ý, nhưng vì tình hình sau khi chế độ độc tài sụp đổ không thể thực hiện ngay được, nên nhóm tham mưu cần nghiên cứu tìm hiểu nguyện vọng người dân để từ đó công bố bản Thông Điệp, rồi bản Hiến Ước lâm thời, trong khi chờ đợi bầu Quốc Hội Lập Hiến soạn thảo Hiến Pháp và trưng cầu dân ý.

2. NHẬN ĐỊNH.
Căn cứ vào những giai đoạn lịch sử của đất nước từ nửa cuối thế kỷ 19 đến nay, rút ra nhận định như là một gợi ý về tìm hiểu nguyện vọng người dân.
Giai đoạn từ nửa cuối thế kỷ 19 đến mùa thu 1945. Dân tộc ta bị thực dân Pháp cai trị. Khi thiết lập hệ thống giáo dục tại nước Việt Nam thuộc địa, như bất cứ chánh phủ thực dân nào khác, chánh phủ Pháp không hề có mục đích đào tạo lớp người có tư tưởng chính trị để chống đối họ, dù rằng có một số thanh niên đáng kể học hết bậc đại học tại Việt Nam hoặc du học trên đất Pháp. Chính sách giáo dục học đường cũng như giáo dục xã hội, chỉ nhằm trang bị cho mọi người một tư tưởng chấp nhận sự cai trị của nước Pháp, chấp nhận một quốc gia từ Âu Châu mang nền văn minh đến khai phóng Việt Nam! Do vậy mà đại đa số người Việt chúng ta thời ấy, ý thức chính trị chưa đủ để hiểu được sự nhục nhã của người dân bị trị!
Giai đoạn từ mùa hè 1954 đến cuối mùa xuân 1975. Trên phần lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) dưới sự cai trị của cộng sản độc tài, những nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam (CSVN) đã có một hệ thống giáo dục từ mẫu giáo đến đại học. Nhưng chính sách giáo dục học đường cũng như giáo dục xã hội chỉ là giáo dục một chiều, nhằm đào tạo những thế hệ thần dân để vâng lời đảng cộng sản. Chính sách giáo dục buộc mọi người phải tôn vinh ông Hồ, tôn vinh đảng CSVN, một tư tưởng chỉ biết chấp nhận chế độ chính trị do đảng cộng sản chọn sẳn, và chọn một lần cho mãi mãi. Người dân phải chấp nhận tư tưởng chỉ có đảng cộng sản mới đủ tài lãnh đạo, như thể nếu không có đảng CSVN thì nước Việt Nam này chìm mất dưới đáy biển sâu vậy. Do đó mà đa số người dân nước VNDCCH, không hề biết mình bị bịt mắt, bịt tai, bịt miệng, đến mức nhận thức chính trị của người dân dưới chế độ cộng sản còn tệ hơn thời bị thực dân Pháp cai trị, vì bị những nhóm lãnh đạo CSVN lợi dụng tinh thần quốc gia dân tộc của đồng bào để phung phí mạng sống của đồng bào trong chiến tranh một cách thê thảm! Tất cả chỉ vì đảng của họ.
Cũng trong giai đoạn đó, trên phần lãnh thổ nước Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) dưới chế độ dân chủ tự do. Tuy có những hạn chế nhất định, một phần vì trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc mà kẻ địch là cùng chủng tộc, nên không phải dễ dàng nhận ra kẻ địch xâm nhập trong hàng ngũ ta, và phần khác vì dân chủ tự do là chế độ mới mẽ đối với quốc gia non trẻ Việt Nam mà những vị lãnh đạo chưa đủ căn bản lý thuyết, nhưng rõ ràng là cuộc sống người dân nước VNCH hạnh phúc hơn người dân thời bị thực dân cai trị, và hạnh phúc tuyệt vời so với người dân sống trong xã hội chủ nghĩa của nước VNDCCH.
Giai đoạn từ 1975 về sau. Cái xã hội chủ nghĩa đó được bà Dương Thu Hương, nhà văn chuyên nghiệp của CSVN, sau những năm đảng của bà cai trị toàn cõi nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), bà mới nhận ra được cốt lõi của cái chủ nghĩa mà bà đã tham gia từ năm 17 tuổi. Là nhà văn, ngòi bút của bà đã bày tỏ nỗi thất vọng chán chường về cái xã hội mà bà đã sống và chiến đấu hơn 20 năm, rằng: “Xã hội chủ nghĩa, là mô hình man rợ và u ám nhất của thời đại. Cái xã hội mà đa số những người đã tham gia xây dựng nó, cuối cùng không muốn có nó, ngoại trừ nhóm lãnh đạo đặc quyền đặc lợi”.
Đến nay, sau 37 năm cai trị nước CHXHCNVN, nói chung là 89 triệu dân với đời sống vật chất có khá hơn so với thời làm dân nước VNDCCH, nhưng nói riêng là đa số vẫn chưa hơn đời sống vật chất của người dân nước VNCH trước đây bao nhiêu, mà lẽ ra phải phát triển hơn hiện tại nhiều bước nữa vì không có chiến tranh. Điều nhấn mạnh ở đây là mức sống cách biệt quá xa giữa người dân thành thị khoảng 25% với người dân nông thôn khoảng 75%. Thêm nữa, quyền chính trị của người dân bị CSVN bóp nghẹt hoàn toàn, mà nguyên nhân duy nhất chỉ vì chế độ độc tài nên lúc nào đảng với nhà nước cộng sản cũng sợ người dân nổi dậy lật đổ họ.
Do trải qua những giai đoạn lịch sử bị kềm kẹp những quyền tự do căn bản của con người trong 80 năm bị thực dân Pháp cai trị, nối tiếp đến nay đã 37 năm bị cộng sản độc tài hoàn toàn bóp nghẹt mọi quyền căn bản của người dân, nên nguyện vọng người dân thời hậu cộng sản, suy nghĩ không gì hơn là: “Hạnh phúc trong một xã hội dân chủ pháp trị theo nguyện vọng của toàn dân”, mà phải là thật sự chớ không như những nhóm lãnh đạo CSVN đã lừa dối nhân dân từ giữa thế kỷ 20 đến nay, và vẫn tiếp tục.

3. KẾT LUẬN.
“Nguyện vọng của toàn dân, là mọi người phải được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị với các quyền tự do căn bản của con người được tôn trọng. Một xã hội có nhiều cơ hội tiến thân đồng đều cho mọi người, được bảo đảm tối thiểu về các sinh hoạt xã hội, và một cuộc sống an lành trong đạo nghĩa. Một dân tộc không nuôi ý đồ lấn chiếm lân bang, nhưng quyết tâm bảo vệ tổ quốc. Một chánh phủ được đánh giá là của dân, do dân, và vì dân, phải là một chánh phủ thực hiện được nguyện vọng người dân, cũng là mục tiêu quốc gia”.
Houston, ngày 19/2/2007
Duyệt lại ngày 3/10/2012

* * *
Phụ bản B

Gợi ý Chánh Phủ Lâm Thời

GỢI Ý THÀNH PHẦN.

Chánh phủ lâm thời trong thời kỳ chuyển tiếp từ cộng sản độc tài sang dân chủ tự do, cần có các thành phần sau đây:

Thứ nhất. (1) Thành phần đảng viên và cựu đảng viên cộng sản hoặc ngoại vi của đảng cộng sản, thật sự có thành tích chống đối lãnh đạo cộng sản Việt Nam (CSVN) đòi thực hiện dân chủ tự do trong nước. (2) Thành phần đảng viên cao cấp, đã về hưu hoặc đang tại chức trong nhóm lãnh đạo đương nhiệm, đã thật sự góp công quan trọng trong sự sụp đổ của CSVN. Những nhân vật trong hai thành phần này, trong một chừng mực nào đó, vẫn còn uy tín do thành tích mấy chục năm lăn lộn trong đảng nhất là trong những năm gần đây tranh đấu cho dân chủ tự do, rất có thể được quân đội và công an ủng hộ.

Thứ nhì. Thành phần ngoài đảng cộng sản gồm những cá nhân hay trong tổ chức đấu tranh chính trị đòi cộng sản Việt Nam thực hiện dân chủ tự do. Dân, là một lực lượng dân chủ, tuy không có tổ chức nhưng là tối cần thiết cho mục tiêu đánh sụp chế độ độc tài, cũng là lực lượng tối cần thiết cho mục tiêu xây dựng chế độ dân chủ tự do trong thời kỳ chuyển tiếp, và sau đó. Thành phần này thấu hiểu khổ đau cùng tâm trạng của đồng bào nên dễ được đồng bào chấp nhận, đó cũng là động lực thúc đẩy lực lượng này hưởng ứng những chính sách của Chánh Phủ lâm thời trong nỗ lực ổn định và phát triển đất nước.

Thứ ba. Những trí thức ngoài đảng, bằng cách nào đó như bài viết, lời nói, hay hành động, đã thể hiện mạnh mẽ tư tưởng tự do dân chủ, thể hiện cao độ tinh thần trách nhiệm trong hoạt động chuyên môn hay trong các sinh hoạt văn hoá xã hội, và có uy tín với đồng bào. Nói chung là những trí thức tiêu biểu cho một thành phần nào đó trong xã hội, có khả năng chuyên môn đóng góp vào sự ổn định trật tự xã hội và phát triển đất nước.

Thứ tư. Những chức sắc thân hào nhân sĩ thuộc các sắc tộc thiểu số, có thành tích đấu tranh chính trị đòi CSVN thực hiện dân chủ tự do, hoặc có uy tín trong đồng bào thiểu số. Cần có tiếng nói của các sắc tộc ngay từ bước đầu, để tránh những xáo trộn có thể xảy ra nếu họ không có vị trí bình đẳng trong chánh quyền. Kế hoạch phát triển cao nguyên miền Trung miền Bắc, nhất thiết phải thực sự xem xét và tôn trọng nguyện vọng của các sắc tộc liên hệ. Cao nguyên miền Trung là mái nhà và cao nguyên miền Bắc là nóc nhà của tổ quốc, có tầm vóc quan trọng đặc biệt trong chiến lược phòng thủ quốc gia, đồng thời với phát triển kinh tế và văn hoá trong bối cảnh chung của tổ quốc.

Và thứ năm. (1) Thành phần cộng đồng tị nạn hải ngoại kể cả sắc tộc thiểu số, thật sự có thành tích trong đấu tranh dưới mọi hình thức. (2) Những vị đã hoặc đang tham gia dòng sinh hoạt chính tại Hoa Kỳ, cũng như tại các quê hương thứ hai, có thành tích và kinh nghiệm trong nhiều lãnh vực, đặc biệt là các vị trong vị thế quan trọng có khả năng làm gạch nối giữa Chánh Phủ lâm thời với các quốc gia tự do, hậu thuẫn và tích cực yểm trợ cấp thời trong kế hoạch cải thiện đời sống xã hội tại các thành phố lớn trong bước đầu, song song với những kế hoạch trung hạn dài hạn hỗ trợ Việt Nam phát triển.
Bốn thành phần đầu là lực lượng trong nước, thành phần thứ năm là lực lượng hải ngoại. Trong thời kỳ này, lực lượng trong nước là chính để ổn định tình hình, trong khi lực lượng hải ngoại hỗ trợ mạnh mẽ và chuẩn bị cho tương lai.
Chánh Phủ lâm thời cùng lúc tiến hành hai nỗ lực: “Một. Vừa tổ chức hệ thống hành chánh + quốc phòng + giáo dục, vừa khôi phục an ninh trật tự và các ngành trong xã hội sinh hoạt bình thường. Hai. Tiến hành công tác soạn thảo những văn kiện sinh hoạt chính trị, từng bước chuẩn bị tiến tới bầu cử Quốc Hội Lập Hiến khi kiểm soát được tình hình nội bộ và tình hình biên giới”.

KẾT LUẬN.
Bản Hiến Pháp là nền tảng xây dựng cơ cấu dân chủ pháp trị trong toàn bộ hệ thống tổ chức để thực hiện mục tiêu quốc gia, vì vậy mà cả hai nỗ lực trên đây, đặc biệt là nỗ lực thứ hai, cần có sự phối hợp chặt chẻ giữa lực lượng trong nước với lực lượng hải ngoại, để công tác chuẩn bị những sinh hoạt chính trị kế tiếp được hài hòa trong tinh thần phục vụ quốc gia dân tộc. Chữ lực lượng dùng ở đây, là những tổ chức và những cá nhân được tín nhiệm của hai lực lượng này.
Houston, ngày 25/2/2007.
Duyệt lại ngày 3/10/2012

* * *

Phụ bản C

Gợi ý Sách Lược Quốc Gia

Chính sách quốc gia.
(1) Việt Nam là một nước Cộng Hòa, một lãnh thổ thống nhất, một xã hội dân chủ pháp trị. (2) Chánh phủ phục vụ quyền lợi quốc gia, phục vụ nguyện vọng dân tộc. (3) Chánh phủ chủ trương hợp tác phát triển với các quốc gia trên căn bản bình đẳng, trong ý thức kết hợp hài hòa giữa nét tinh hoa văn hoá dân tộc với khoa học kỹ thuật tân tiến. (4) Chánh phủ tôn trọng các văn kiện quốc tế phù hợp với chế độ dân chủ tự do.

Chính sách đảng chính trị.
Phục vụ quyền lợi tổ quốc dân tộc. (1) Các đảng chính trị hoạt động trong tinh thần cạnh tranh dân chủ, góp phần thúc đẩy sinh hoạt xã hội ngày thêm phát triển. (2) Bước đầu, số lượng đảng chính trị dưới hai con số, từng bước sau đó còn lại không quá 5 đảng là thích hợp.

Chính sách hành chánh.
Tổ chức hệ thống hành chánh công quyền thích hợp với nhu cầu. (1) Nhân dân với viên chức là mối tương quan cần thiết giữa nhu cầu với trách nhiệm, và tác động qua lại tạo nên sức phát triển chung của xã hội. (2) Thủ tục hành chánh phải qui định rõ ràng, giúp cơ quan minh bạch khi áp dụng. (3) Mỗi cơ quan hành chánh phải có một văn kiện qui định từng trách nhiệm với những trang bị cần thiết, kể cả các loại máy văn phòng và xe thích hợp với nhu cầu, để tránh lạm dụng nhân lực và tài chánh (tương tự như bảng cấp số bên quân đội). (4) Một lực lượng Cảnh Sát được huấn luyện trên nền tảng đạo đức và tôn trọng luật pháp, để hoàn thành trách nhiệm bảo vệ an ninh và trật tự xã hội.

Chính sách quốc phòng.
Bảo vệ tổ quốc. (1) Tổ chức một quân đội tối đa 0.8% dân số, với khoảng 15% nhân viên dân sự trong tổng số quân để phục vụ trong các cơ quan đơn vị không chiến đấu. (2) Những xung đột với quốc gia lân bang, ưu tiên giải quyết bằng chính sách ngoại giao trong tinh thần hợp tác. (3) Bộ Quốc Phòng trách nhiệm chiến lược, các quân chủng trách nhiệm chiến thuật. (4) Ưu tiên bảo vệ biên giới phía bắc, vịnh Bắc Việt, đảo, quần đảo, và biên giới phía tây. (5) Quần đảo Hoàng Sa, một phần của Trường Sa, sẽ nghiên cứu chuẩn bị một hồ sơ chứng minh chủ quyền của Việt Nam, vận động đưa ra Liên Hiệp Quốc giành lại toàn bộ chủ quyền trên căn bản lịch sử và công pháp quốc tế. (6) Duyệt lại toàn bộ các dự án do nhà thầu ngoại quốc -nhất là nhà thầu Trung Cộng- đang khai thác bên trong lãnh thổ Việt Nam, phù hợp với chính sách an ninh và phát triển kinh tế thị trường.

Chính sách ngoại giao.
Trong bang giao quốc tế không có vấn đề tình cảm, mà nền tảng bang giao trên căn bản bảo vệ quyền lợi quốc gia. (1) Bang giao với các quốc gia kể cả vùng lãnh thổ thích hợp với bối cảnh một thế giới hợp tác và phát triển bền vững. (2) Chính sách ngoại giao dung hòa một cách thích đáng giữa văn hoá Việt Nam với văn hóa và khoa học kỹ thuật thế giới. (3) Tận dụng mọi cơ hội thuận lợi, vận động các chánh phủ bản xứ hỗ trợ Việt Nam xây dựng và phát triển quốc gia toàn diện. (4) Theo dõi, hướng dẫn, bảo vệ, và hỗ trợ các sinh viên Việt Nam du học các quốc gia sở tại.

Chính sách kinh tế.
Kinh tế thị trường. (1) Chuyển đổi toàn bộ kinh tế xã hội chủ nghĩa sang kinh tế thị trường. (2) Kỹ nghệ khai thác, sản xuất, chế biến, nông nghiệp, thương mãi, dịch vụ, và xuất nhập cảng, trên căn bản cạnh tranh phát triển, và tất cả tác động qua lại thúc đẩy sức phát triển chung của xã hội. (3) Xây dựng nhóm mặt hàng xuất cảng trên căn bản nhu cầu dài lâu của khách hàng ngoại quốc, thích hợp với khả năng và tiềm năng quốc gia, cộng với vận động ngoại quốc đầu tư những kỹ nghệ mà Việt Nam chưa có khả năng. (4) Kỹ nghệ dầu hỏa, nông nghiệp, điện năng, hạ tầng cơ sở, dịch vụ, ..v..v.. là những lãnh vực cần phát triển song hành. (5) Tìm kiếm các nguồn tài nguyên trong nội địa cũng như phạm vi lãnh hải và vùng biển mà công ước quốc tế cho phép. (6) Đến giai đoạn cần thiết, sức phát triển sẽ tạo dựng cơ sở kinh tế, thương mãi, dịch vụ, tại các quốc gia thích hợp.

Chính sách tài chánh.
Một phần trong sức mạnh của quốc gia. (1) Tìm biện pháp thích hợp thu hồi khối tài chánh của các cấp lãnh đạo CSVN kể cả tứ thân phụ mẫu và con cháu của họ, đã ký thác trong các ngân hàng quốc tế, để sử dụng vào những công trình xây dựng nhà ở cho thành phần đồng nghèo khổ, đồng thời nâng cao mức sống thành phần dân nghèo. (2) Thuế vụ phù hợp với mức sinh hoạt xã hội, và thay đổi theo từng bước phát triển. (3) Phục vụ kinh tế phát triển. (4) Nâng đỡ ngành tiểu thương “xương sống” của nền kinh tế tổng thể. (5) Bảo đảm mức sống tối thiểu của đồng bào. (6) Hỗ trợ mọi thành phần xã hội -nhất là tuổi trẻ- thăng tiến trong lãnh vực giáo dục trong nước, lẫn du học ngoại quốc, theo nhu cầu phát triển dài hạn của quốc gia.

Chính sách giáo dục.
Con người là yếu tố quan trọng bậc nhất trong xây dựng và phát triển đất nước. (1) Nền tảng giáo dục nhắm đào tạo những thế hệ công dân đúng nghĩa trong xã hội. (2) Phối hợp các ngành nhất là kinh tế, để đào tạo con người có kiến thức chuyên môn thích ứng nhu cầu phát triển của các ngành sinh hoạt quốc gia. (3) Những thế hệ được đào tạo có kiến thức, có căn bản về tổ chức & quản trị xã hội, có tinh thần trách nhiệm cộng đồng trong mọi sinh hoạt lợi ích xã hội.(4) Bản thân ngành giáo dục, xây dựng một đội ngũ Thầy Cô có kiến thức, phương thức giảng dạy, và uy tín. (5) Duy trì và phát triển giáo dục Việt Nam thích nghi với sức phát triển khoa học kỹ thuật thế giới hòa vào nét tinh hoa văn hoá Việt Nam. (6) Sách giáo khoa vừa dựng lại lịch sử, vừa góp phần phát triển các lãnh vực sinh hoạt xã hội trong hiện tại, và vừa thể hiện ước vọng tương lai của dân tộc. (7) Khuyến khích và hỗ trợ học sinh Việt Nam du học thích hợp với nhu cầu chuyên gia của các ngành sinh hoạt quốc gia. (8) Từng bước tiến đến cưỡng bách giáo dục hết bậc trung học”.

Chính sách luật pháp.
Nghiêm minh bình đẳng. (1) Mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, bất luận người đó là vị lãnh đạo cao nhất nước hay người dân bình thường. (2) Dân chủ pháp trị, là nền tảng cư xử giữa người dân với hành chánh công quyền. (3) Luật pháp góp phần bảo tồn và phát triển những tinh hoa văn hoá dân tộc. (4) Luật pháp đặt nặng hướng dẫn hơn là trừng trị. (5) Người Việt Nam định cư ở ngoại quốc, đương nhiên là công dân Việt Nam, được quyền có thêm một quốc tịch tại quốc gia cư trú.

Chính sách du lịch.
Du lịch, ngành kỹ nghệ không khói. (1) Mở rộng cửa đón du khách thưởng ngoạn thắng cảnh thiên nhiên, thắng cảnh nhân tạo, những sinh hoạt trong đời sống văn hoá dân tộc, những di tích trận địa, những hành vi tội ác của chế độ độc tài trong chiến tranh và sau chiến tranh, gồm cả cơ sở bảo tàng những vật chứng trong cuộc vượt biên vượt biển tìm tự do vĩ đại nhất và bi thảm nhất trong lịch sử nhân loại 1975-1995, cùng những thành công của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại trong nhiều lãnh vực tại các quốc gia định cư. Đây không phải nuôi dưỡng thù hận chế độ sụp đổ, mà là để lưu lại cho những thế hệ về sau nhận ra tính chất tàn bạo của một chủ nghĩa trên thế giới như tính chất tàn bạo của chủ nghĩa phát xít trong đệ nhị thế chiến, từ đó không phạm phải sai lầm”. (2) Thể hiện ước vọng tương lai của dân tộc Việt Nam. Ước vọng này cần có sự phối hợp của các ngành sinh hoạt quốc gia, nhất là văn hoá giáo dục, kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật.

Chính sách xã hội.
Là công dân Việt Nam, tất cả đều bình đẳng. (1) Khả năng của chánh phủ, cộng với sự vận động cá nhân cũng như các tổ chức trong nước, và vận động các tổ chức quốc tế và các chánh phủ, trợ giúp cho tất cả thương phế binh không phân biệt nguồn gốc, cai nghiện xì ke ma túy, và dạy nghề cho những thành phần mà đạo lý xã hội không chấp nhận. (2) Nuôi dưỡng người già và người tàn phế không nơi nương tựa. (3) Nuôi dưỡng trẻ mồ côi, được giáo dục hết bậc trung học phổ thông hay chuyên nghiệp. (4) Nghiên cứu một kế hoạch hoàn chỉnh và thực hiện công tác hoàn trả tất cả động sản và bất động sản còn kiểm soát được cho các sở hữu chủ hợp pháp, đã bị CSVN tịch thu dưới mọi hình thức mà còn nắm quyền quản trị, hay đã chuyển quyền quản trị cho cá nhân hay tổ chức bất cứ hình thức nào.

KẾT LUẬN

Chắc rằng, cho dù Chánh Phủ lâm thời có chuẩn bị chu đáo đến mấy đi nữa, vẫn còn nhiều khiếm khuyết khi nhìn từ nhiều phía, và sự đóng góp quan điểm từ nhiều tổ chức hoặc từ những cá nhân, sẽ giúp rất nhiều cho thời kỳ tiếp sau trong công tác tham mưu. Nhớ lại cuối tháng 4/1975, khi cộng sản chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, họ có sẳn bộ máy cai trị theo khuôn mẫu độc tài chuyên chính trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, họ chỉ cần nong rộng ra và đưa vào Nam điều hành nên ít trở ngại.
Trường hợp Chánh Phủ lâm thời tới đây, cho dù những vị lãnh đạo thuộc thành phần nào đi nữa, chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, vì xã hội đang điều hành bởi bộ máy độc tài với nền kinh tế mà họ gọi là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, bỗng chốc chuyển sang bộ máy dân chủ tự do với nền kinh tế thị trường đúng nghĩa. Nhưng nếu công tác tham mưu cung ứng được những chuẩn bị cho dù chưa chu đáo, Chánh Phủ lâm thời có thể giảm bớt được những khó khăn đáng kể. Cũng cần nhớ đến xứ Afghanistan và Iraq, vì không chuẩn bị trước nên rơi vào tình trạng các quốc gia viện trợ chọn sẳn mọi chính sách cho họ, kể cả chọn giùm nhân vật lãnh đạo.
Houston, ngày 4/3/2007
Duyệt lại ngày 8/10/2012

* * *

Phụ bản D

Gợi ý Chính Sách Từng Ngành

Chữ nghiêng là trích trong Phụ Bản C.

1. Chính sách quốc gia. “(1) Việt Nam là một nước Cộng Hòa, một lãnh thổ thống nhất, một xã hội dân chủ pháp trị. (2) Chánh phủ phục vụ quyền lợi quốc gia, phục vụ nguyện vọng dân tộc. (3) Chánh phủ chủ trương hợp tác phát triển với các quốc gia trên căn bản bình đẳng, trong ý thức kết hợp hài hòa giữa nét tinh hoa văn hoá dân tộc với khoa học kỹ thuật tân tiến. (4) Chánh phủ tôn trọng các văn kiện quốc tế phù hợp với chế độ dân chủ tự do”.

Quan niệm thực hiện. Căn cứ vào sách lược quốc gia: (1) Công bố Thông Điệp đầu tiên khi Chánh Phủ Lâm Thời ra mắt quốc dân đồng bào và ngoại giao đoàn. (2) Ban hành kế hoạch ổn định an ninh & trật tự xã hội. (3) Bảo vệ toàn vẹn biên giới và hải đảo. (4) Ban hành các kế hoạch vừa ngắn hạn vừa dài hạn, khôi phục và phát triển trên căn bản quân bình giữa các ngành sinh hoạt quốc gia. (5) Nét tinh hoa văn hóa dân tộc phải được thể hiện trong phát triển đất nước.
Quan niệm tổ chức. (1) Khi tình hình chính trị trong nước thuận lợi, Chánh Phủ Lâm Thời được thành lập. Lúc bấy giờ Ban Phối Hợp Tham Mưu cập nhật và hoàn chỉnh “Kế Hoạch Ổn Định An Ninh & Trật Tự Xã Hội”, trao cho Chánh Phủ để duyệt lại và hoàn chỉnh theo quan điểm của Chánh Phủ trước khi ban hành khi CSVN sụp đổ. (2) Chánh Phủ thành lập các Hội Đồng cố vấn về những vấn đề liên quan: Hội Đồng Cố Vấn Kinh Tế Tài Chánh, Hội Đồng Giáo Dục, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, Ủy Ban Chuẩn Bị Bầu Cử.
Quan niệm nhân sự. Mời gọi những nhà hoạt động chính trị và những chuyên gia chuyên viên không phân biệt thành phần trước hay sau năm 1975, không phân biệt trong nước hay hải ngoại, không phân biệt nơi sinh quán, nhưng nhất thiềt phải có tinh thần phục vụ quốc gia dân tộc.

2. Chính sách đảng chính trị. “Phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc. (1) Các đảng chính trị hoạt động trong tinh thần cạnh tranh dân chủ, góp phần thúc đẩy sinh hoạt xã hội ngày thêm phát triển. (2) Mong rằng, bước đầu số lượng đảng chính trị dưới hai con số, từng bước sau đó còn lại không quá 5 đảng là thích hợp”.
Quan niệm thực hiện. Nghiên cứu soạn thảo, và ban hành văn kiện lập quy tạm thời, qui định tổng quát về tổ chức và hoạt động của các đảng chính trị trong mục tiêu phục vụ quốc gia dân tộc. Đảng viên phục vụ trong các cơ quan công quyền hoàn toàn với tư cách cá nhân, dù chức vụ đó dân bầu hay chánh phủ tuyển dụng cũng vậy.

3. Chính sách hành chánh công quyền. “Tổ chức hệ thống hành chánh công quyền thích hợp với nhu cầu. (1) Nhân dân với viên chức là mối tương quan cần thiết giữa nhu cầu với trách nhiệm, và tác động qua lại tạo nên sức phát triển chung của xã hội. (2) Thủ tục hành chánh phải qui định rõ ràng, giúp cơ quan minh bạch khi áp dụng. (3) Mỗi cơ quan hành chánh phải có một văn kiện qui định từng trách nhiệm với những trang bị cần thiết, kể cả các loại máy văn phòng và xe thích hợp với nhu cầu, để tránh lạm dụng nhân lực và tài chánh (tương tự như bảng cấp số bên quân đội). (4) Một lực lượng Cảnh Sát được huấn luyện trên nền tảng đạo đức và tôn trọng luật pháp, để hoàn thành trách nhiệm bảo vệ an ninh và trật tự xã hội.”

a. Quan niệm tổ chức. (1) Trên văn kiện, giải thể toàn bộ bộ máy hành chánh cộng sản, đồng thời nhưng tạm giữ nguyên tổ chức để khi tái tổ chức đến đâu giải thể hẳn đến đó. (2) Thay thế toàn bộ các tiêu đề trên công văn, tên các địa phương, tên các cơ quan, đường phố, công viên, ..v..v.. mang tên những nhân vật cộng sản hay liên quan đến cộng sản. (3) Đề cử viên chức vào các chức vụ đứng đầu cơ quan hành chánh các cấp để nắm vững tình hình ngay từ đầu. (4) Xóa bỏ các tượng đài cộng sản hay liên quan đến cộng sản. (5) Cơ cấu hành chánh gồm: Trung ương, Miền, Tỉnh/thành phố, Quận, Xã. Tổ chức Miền và Quận là cơ quan trung gian, không do dân cử, không có ngân sách. (6) Tùy hệ thống giao thông và nét đặc thù từng địa phương về sắc tộc, văn hoá, kinh tế, địa dư, cơ quan hành chánh địa phương được phân quyền thích hợp. (7) Các đảo và quần đảo đặt trực thuộc trung ương, với các chính sách nâng đỡ phát triển đời sống xã hội.

b. Quan niệm nhân sự. (1) Kiểm kê, chọn lọc, và sử dụng nhân viên viên chức hành chánh cộng sản, nếu chưa quá tuổi phục vụ, đủ sức khỏe, và nhất là khả năng thích hợp với nhiệm vụ. (2) Kiểm kê, chọn lọc, và sử dụng nhân viên viên chức hành chánh Việt Nam Cộng Hòa cũ còn trong nước hay từ ngoại quốc trở về, nếu chưa quá tuổi phục vụ và đủ sức khỏe. (3) Hành chánh công quyền với người dân là mối tương quan thật sự cần thiết giữa nhu cầu với trách nhiệm. Nhu cầu của dân, phát sinh tổ chức hành chánh để giải quyết nhu cầu đó. Khi giải quyết được nhu cầu của dân, có nghĩa là viên chức làm tròn nhiệm vụ, và được hưởng lương do tiền thuế của dân đóng góp. Đó là sự tác động qua lại trong ý niệm hợp tác, góp phần tạo nên sức phát triển chung của xã hội, không bên nào nhờ bên nào. Lời cám ơn chỉ là thể hiện cung cách trong giao tế nhân sự chớ không mang ý nghĩa chịu ơn, cho dù bên nào cũng vậy. (4) Hệ thống trường hành chánh, là tổ chức có trách nhiệm trang bị cho học viên ý thức về cung cách này.

c. Quan niệm trang bị. Kiểm kê tất cả động sản, bất động sản, vật dụng trang bị, thuộc tài sản quốc gia. Chọn lọc và phân phối sử dụng trong số hiện có, ngoại trừ tài sản gốc tư nhân mà cộng sản chiếm đoạt dưới mọi hình thức. Những gì chưa sử dụng phải trách nhiệm gìn giữ. Trước mắt, cố gắng tránh mua sắm trang cụ nếu chưa thật sự cần thiết.

d. Quan niệm thực hiện. (1) Vừa tổ chức cơ quan đơn vị vừa kiểm kê nhân viên chức và bổ nhiệm họ, vừa kiểm kê động sản, bất động sản, vật dụng trang bị, và phân phối sử dụng, vừa điều hành công tác theo phương thức thủ tục mới để giữ cho hệ thống điều hành hành chánh không bị gián đoạn, có thể có bối rối lúc đầu nhưng nhất thiết không để ngưng trệ. Sự đánh giá trong thời kỳ này rất quan trọng, nó có khả năng dẫn đến thành công hay thất bại sau đó. Vì vậy, hành chánh trung ương cần ủy quyền thích hợp trong lãnh vực bổ nhiệm viên chức cũng như phân phối cơ sở và phương tiện sử dụng cho cấp chỉ huy hành chánh địa phương để kịp thời đáp ứng nhu cầu. Điều này cần được quan tâm đặc biệt vì có thể có kết quả trái ngược, nếu như viên chức được ủy qyền có tư tưởng phe nhóm hay cục bộ địa phương mà không đặt đúng tiêu chuẩn chọn lọc nhân viên viên chức để trao trách nhiệm thích hợp với khả năng. (2) Cơ Quan Hành Chánh Miền Bắc là tổ chức cấp Miền duy nhất, cần tổ chức ngay để điều hành công tác tổ chức và phối trí các cơ quan hành chánh địa phương xa trung ương. (3) Vì không có một tổ chức hay một thành phần nòng cốt nào, cho nên phải tổ chức một hệ thống hành chánh trên căn bản giải thể hành chánh cộng sản.

Tổ chức Cảnh Sát/Bộ Nội Vụ. “Một lực lượng Cảnh Sát được huấn luyện trên nền tảng đạo đức và tôn trọng luật pháp, để hoàn thành trách nhiệm bảo vệ an ninh và trật tự xã hội”.

Quan niệm tổ chức. Một lực lượng Cảnh Sát trên căn bản giải thể cảnh sát công an cộng sản. Tái sử dụng thành phần Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa cũ, tuyển mộ đào tạo cấp thời, và tái sử dụng cảnh sát vừa giải thể sau khi chọn lọc cẩn thận. Nhân số 0.3% dân số vào khoảng 210 ngàn người, cộng với 10% nhân viên dân sự vào khoảng 20 ngàn người nữa. Tổ chức Cảnh Sát gồm 3 lực lượng: (1) Cảnh Sát sắc phục, phụ trách an ninh trật tự xã hội. (2) Cảnh Sát không sắc phục, phụ trách an ninh chính trị bao gồm tình báo và phản tình báo. (3) Và Cảnh Sát dã chiến, lực lượng lưu động. (4) Ước tính phân phối tổng quát như sau: Cơ quan tham mưu, huấn luyện, các bộ phận hành chánh và tiếp vận 10%. Cảnh Sát sắc phục 50%. Cảnh Sát không sắc phục 20%. Và Cảnh Sát dã chiến 20%. (5) Cơ cấu tổ chức gồm: Bộ chỉ huy trung ương cùng các cơ quan đơn vị yểm trợ. Các cơ quan Cảnh Sát thủ đô. Cảnh Sát miền Bắc cạnh cơ quan hành chánh. Cảnh Sát miền Trung. Cảnh Sát miền Nam. Cảnh Sát tỉnh/thành phố, xuống đến quận. Trường Cảnh Sát đào tạo Cảnh Sát các cấp các ngành, nghiên cứu các hành vi tội phạm và cách đối phó trong thực tế để liên tục cải tiến nội dung chương trình huấn luyện.

Quan niệm nhân sự. (1) Kiểm kê, chọn lọc, và sử dụng trong số nhân viên viên chức cộng sản hiện có, nếu chưa quá tuổi phục vụ, đủ sức khỏe, và nhất là khả năng thích hợp với nhiệm vụ được giao. (2) Kiểm kê, chọn lọc, và sử dụng nhân viên viên chức Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa cũ còn trong nước hay trờ về từ hải ngoại, nếu chưa quá tuổi phục vụ và đủ sức khoẻ. (3) Tuyển mộ và đào tạo cấp thời nếu còn thiếu. (4) Nhân viên viên chức trong lực lượng Cảnh Sát, không tham gia chính trị.

Quan niệm trang bị. (1) Kiểm kê tất cả động sản, bất động sản, vũ khí và máy móc dụng cụ trang bị cho ngành này. (2) Kiểm kê vũ khí đạn dược cùng máy móc trang bị của tổ chức dân quân và các tổ chức tương tự bị giải thể. (3) Chọn lọc và phân phối sử dụng trong số hiện có. (4) Ưu tiên sử dụng dụng cụ và vật liệu do Hoa Kỳ sản xuất, để công tác quản trị tránh được những khó khăn nếu sử dụng dụng cụ thuộc nhiều chủng loại từ nhiều quốc gia khác nhau. (5) Không sử dụng những động sản hay bất động sản của tư nhân bị cộng sản chiếm đoạt bất cứ bằng hình thức nào, nhưng có trách nhiệm gìn giữ chờ lệnh hoàn trả.

Quan niệm thực hiện. (1) Khi có lệnh giải thể cảnh sát công an cộng sản, phải cử viên chức đứng đầu cơ quan đơn vị nhận chức vụ mới để nắm vững tình hình ngay từ đầu vì kế hoạch tổ chức được thực hiện qua từng giai đoạn. (2) Thay đổi toàn bộ tên các cơ quan đơn vị mang tên cộng sản hay liên quan đến cộng sản, dù lúc bấy giờ đang trong giai đoạn tổ chức hay chờ đợi tổ chức. (3) Tổ chức đến đâu giải thể hẳn đến đó. Cơ quan đơn vị chưa đến giai đoạn tổ chức, tạm thời giữ nguyên tổ chức nhưng sử dụng danh xưng mới, phiên hiệu mới. (4) Trong thời gian vừa kiểm kê, vừa tổ chức, vừa trang bị, vừa thi hành nhiệm vụ, nên công tác tiến hành tổ chức qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 từ tháng thứ nhất. Hoàn chỉnh tổ chức cơ quan Cảnh Sát trung ương, cơ quan Cảnh Sát miền Bắc, miền Trung, miền Nam, cơ quan Cảnh sát các thành phố quan trọng, và Cảnh Sát dã chiến.
Giai đoạn 2 từ tháng thứ ba: Hoàn chỉnh tổ chức cơ quan Cảnh Sát các tỉnh và các thành phố nhỏ.
Giai đoạn 3 từ tháng thứ sáu: Hoàn chỉnh tổ chức cơ quan Cảnh Sát hạ tầng cơ sở.

4. Chính sách quốc phòng. “Bảo vệ tổ quốc. (1) Tổ chức một quân đội tối đa 0.8% dân số, với khoảng 15% nhân viên dân sự trong tổng số quân để phục vụ trong các cơ quan đơn vị không chiến đấu. (2) Những xung đột với quốc gia lân bang, ưu tiên giải quyết bằng chính sách ngoại giao trong tinh thần hợp tác. (3) Bộ Quốc Phòng trách nhiệm chiến lược, các quân chủng trách nhiệm chiến thuật. (4) Ưu tiên bảo vệ biên giới phía bắc, vịnh Bắc Việt, đảo, quần đảo, và biên giới phía tây. (5) Quần đảo Hoàng Sa, một phần của Trường Sa, sẽ nghiên cứu chuẩn bị một hồ sơ chứng minh chủ quyền của Việt Nam, vận động đưa ra Liên Hiệp Quốc giành lại toàn bộ chủ quyền trên căn bản lịch sử và công pháp quốc tế. (6) Duyệt lại toàn bộ các dự án do nhà thầu ngoại quốc -nhất là nhà thầu Trung Hoa cộng sản- đang khai thác bên trong lãnh thổ Việt Nam phù hợp với chính sách an ninh và phát triển kinh tế thị trường”.

a. Quan niệm tổ chức. Giả định rằng, trong tổ chức Bộ Quốc Phòng có 5 bộ phận chánh, là:
(1) Bộ phận nghiên cứu chiến lược.
(2) Bộ phận quân sự (Bộ Tổng Tham Mưu Liên Quân).
(3) Bộ phận hành chánh tài chánh (gồm cả ngân sách).
(4) Bộ phận chuyên ngành, gồm: Quân Pháp, Quân Sản, Nhân Lực.
(5) Bộ Tham Mưu.
Bộ phận (1) (2) (3) (4) ngang nhau về tổ chức cũng như về nghi lễ, và trực tiếp với vị lãnh đạo Bộ Quốc Phòng. Bộ phận thứ (5) do vị Đổng Lý đứng đầu, gồm các cơ quan tham mưu của Bộ Quốc Phòng.
Trong hệ thống chi huy của Bộ Tồng Tham Mưu Liên Quân có: (1) Các tổ chức cấp liên quân từ tổ chức, quản trị nhân viên, huấn luyện, tình báo, hành quân, đến yểm trợ tiếp vận. (2) Bộ Tư Lệnh Quân Chủng Lục Quân. (3) Bộ Tư Lệnh Quân Chủng Không Quân. (4) Bộ Tư Lệnh Quân chủng Hải Quân. (5) Lực lượng tổng trừ bị.
Tổ chức quân đội trên căn bản giải thể quân đội cộng sản. Tái sử dụng thành phần quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cũ còn trong hạn tuổi phục vụ, và tái sử dụng quân nhân vừa giải thể sau khi chọn lọc cẩn thận. (6) Quân số trong khoảng 700-800 ngàn (tùy theo dân số khi hoàn chỉnh kế hoạch tổ chức), cộng với khoảng 140 ngàn nhân viên dân sự, tức khoảng 15% quân số. (7) Quân đội gồm Hải Quân, Lục Quân, Không Quân. Trong Lục Quân, chủ lực quân lưu động, quân địa phương hoạt động trong phạm vi lãnh thổ liên hệ. (8) Quân số và viên chức dân sự khoảng 900.000 người, gợi ý phân phối như sau: Các cơ quan tham mưu trung ương và các ngành yểm trợ liên quân 10%. Quân chủng Hải Quân chiếm 5% (kể cả Thủy Quân Lục Chiến) Không Quân chiếm 5%. Quân địa phương chiếm 40%. Lục Quân -không kể quân địa phương- gồm các binh chủng tác chiến và yểm trợ tác chiến, chiếm 32%. Các ngành yểm trợ hành chánh tiếp vận quân chủng chiếm 8%. (9) Các cơ quan đơn vị yểm trợ quân chủng, trực thuộc quân chủng.

b. Quan niệm nhân sự. (1) Kiểm kê, chọn lọc, tái sử dụng quân nhân, nhân viên dân sự của quân đội cộng sản sau khi chọn lọc, nếu chưa quá tuổi phục vụ, đủ sức khoẻ, và nhất là khả năng thích ứng với nhu cầu. (2) Kiểm kê, chọn lọc, và sử dụng quân nhân, công chức quốc phòng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa còn trong nước hay từ hải ngoại trở về, nếu chưa quá tuổi phục vụ và đủ sức khoẻ.

c. Quan niệm trang bị. (1) Kiểm kê tất cả động sản và bất động sản thuộc tài sản quân đội. (2) Kiểm kê tất cả quân trang quân dụng đạn dược. (3) Chọn lọc và sử dụng trong số hiện có, ưu tiên sử dụng quân dụng do Hoa Kỳ sản xuất. Quân dụng càng ít chủng loại càng ít khó khăn trong công tác quản trị, huấn luyện, tiếp lìệu và sửa chữa. (4) Không sử dụng cơ sở do cộng sản chiếm đoạt của tư nhân.

d. Quan niệm huấn luyện: (1) Viện Cao Đẳng Quốc Phòng, nghiên cứu chiến lược, đào tạo cán bộ lãnh đạo quân đội và lãnh đạo các ngành sinh hoạt quốc gia. (2) Trường Cao Đẳng Quân Sự, đào tạo cấp lãnh đạo chỉ huy đại đơn vị, cán bộ chỉ huy và tham mưu các cấp, nghiên cứu chiến thuật, và góp phần nghiên cứu chiến lược. (3) Trường sĩ quan hiện dịch, đào tạo sĩ quan hiện dịch với trình độ đại học, góp phần nghiên cứu chiến thuật. (4) Trường sĩ quan trừ bị, đào tạo sĩ quan trừ bị, và góp phần nghiên cứu chiến thuật. (5) Trường sĩ quan Hải Quân, Trường Sĩ Quan Không Quân, đào tạo sĩ quan và chuyên viên cho quân chủng, và nghiên cứu chiến thuật của quân chủng. (6) Các Trường đào tạo Hạ sĩ quan. (7) Các trung tâm huấn luyện đào tạo chiến binh.

e. Quan niệm thực hiện. Tạm thời giữ nguyên “quân đội nhân dân” trong khi thực hiện tổ chức, nhưng các chức vụ chỉ huy phải được bổ nhiệm ngay từ đầu để nắm vững tình hình tại chổ. Thực hiện tổ chức theo ưu tiên như sau: (1) Giai đoạn 1 từ tháng thứ nhất: Tổ chức các cơ quan đơn vị chỉ huy và yểm trợ các ngành thuộc trung ương, và các cơ quan chỉ huy cấp lãnh thổ. Tổ chức các cơ quan đơn vị chỉ huy và các ngành yểm trợ thuộc quân chủng. (2) Giai đoạn 2 từ tháng thứ ba: Tổ chức các đơn vị bộ binh địa phương, các đơn vị binh chủng, các đơn vị thuộc Hải quân và Không quân. (3) Giai đoạn 3 từ tháng thứ sáu: Tổ chức các đại đơn vị bộ binh và các đơn vị binh chủng trực thuộc. (4) Giai đoạn 4 từ tháng thứ chín: Tổ chức các đơn vị bảo vệ biên giới, hải đảo, và các đơn vị bảo vệ những khu vực trọng yếu.

5. Chính sách ngoại giao. “Trong bang giao quốc tế không có vấn đề tình cảm, mà nền tảng bang giao trên căn bản bảo vệ quyền lợi quốc gia. (1) Bang giao với các quốc gia kể cả vùng lãnh thổ thích hợp với bối cảnh một thế giới hợp tác và phát triển bền vững. (2) Chính sách ngoại giao thích hợp với văn hoá Việt Nam. (3) Tận dụng mọi cơ hội thuận lợi, vận động các chánh phủ bản xứ hỗ trợ Việt Nam xây dựng và phát triển quốc gia toàn diện. (4) Theo dõi, hướng dẫn, bảo vệ, và hỗ trợ các sinh viên Việt Nam du học các quốc gia sở tại”.

a. Quan niệm bang giao. (1) Bang giao với các quốc gia kể cả vùng lãnh thổ, nhưng thận trọng với chế độ độc tài. (2) Duyệt xét các văn kiện quốc tế mà chế độ sụp đổ đã ký để điều chỉnh thích hợp chính sách bang giao.

b. Quan niệm nhân viên. (1) Sử dụng lại số viên chức ngoại giao thời Việt Nam Cộng Hòa với 3 điều kiện: Lúc ấy còn 3 năm nữa mới đến tuổi về hưu. Đủ sức khỏe. Không hề cộng tác với chế độ sụp đổ bất cứ hình thức nào. (2) Duyệt và thay thế ngay nếu cần thiết đối với cấp lãnh đạo cơ quan ngoại giao tại ngoại quốc. (3) Tuyển chọn trong Cộng Đồng hải ngoại đang phục vụ trong hệ thống hành chánh công quyền bản xứ, hoặc có khả năng thích ứng nhu cầu. (4) Sử dụng những viên chức (không phải cấp lãnh đạo) tại các cơ quan ngoại giao của chế độ sụp đổ với 5 điều kiện: Không phải viên chức tình báo. Không bị xếp vào thành phần tham nhũng. Ít nhất, trước tuổi về hưu 5 tuổi. Đủ sức khỏe. Không họ hàng thân thích với ủy viên trung ương đảng trong 5 năm gần nhất. (5) Các cấp lãnh đạo lẫn viên chức ngoại giao chuẩn bị nhận chức tại các cơ quan ngoại giao, phải qua một lớp hướng dẫn cấp tốc về chính sách ngoại giao của chánh phủ.

6. Chính sách kinh tế. “Kinh tế thị trường. (1) Chuyển đổi toàn bộ kinh tế xã hội chủ nghĩa sang kinh tế thị trường. (2) Kỹ nghệ khai thác, sản xuất, chế biến, nông nghiệp, thương mãi, dịch vụ, và xuất nhập cảng, trên căn bản cạnh tranh phát triển, và tất cả tác động qua lại thúc đẩy sức phát triển chung của xã hội. (3) Xây dựng nhóm mặt hàng xuất cảng trên căn bản nhu cầu dài lâu của khách hàng ngoại quốc, thích hợp với khả năng và tiềm năng quốc gia. (4) Kỹ nghệ dầu hỏa, nông nghiệp, điện năng, hạ tầng cơ sở, dịch vụ, ..v..v.. là những lãnh vực cần phát triển song hành. (5) Tìm kiếm các nguồn tài nguyên trong nội địa cũng như phạm vi lãnh hải và vùng biển mà công ước quốc tế cho phép. (6) Đến giai đoạn cần thiết, sức phát triển sẽ tạo dựng cơ sở kinh tế, thương mãi, dịch vụ, tại các quốc gia thích hợp”.

a. Quan niệm phát triển chiến lược: (1) Kinh tế phát triển do thị trường quyết định. (2) Thành lập cơ quan phát triển quốc gia trực thuộc chánh phủ, với nhiệm vụ: (a) Hoạch định đường lối phát triển kinh tế dài hạn về chiều sâu (20 hay 25 năm) lẫn chiều rộng (các ngành trong xã hội) trên nền tảng khả năng và tiềm năng tài nguyên quốc gia, cộng với sự hợp tác và đầu tư quốc tế. (b) Không can thiệp vào kế hoạch của tư nhân mà chỉ nghiên cứu chiến lược phát triển quốc gia để chánh phủ cung ứng cho thị trường đầu tư trong nước lẫn ngoài nước. (c) Cung ứng chiến lược phát triển quốc gia cho nhóm tham mưu giáo dục nghiên cứu soạn thảo chiến lược giáo dục đào tạo chuyên viên chuyên gia thích ứng theo nhu cầu. (d) Kế hoạch khôi phục, tân trang, và xây dựng toàn bộ hệ thống hạ tầng cơ sở, như: Hệ thống nhiệt điện, thủy điện, hệ thống nước và thoát nước, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, hàng không, đường sắt, kho tồn trữ, bãi chứa hàng, phi cảng, giang cảng, hải cảng, ..v..v…

b. Quan niệm tư nhân hóa kinh tế quốc doanh. (1) Kiểm kê và định giá toàn bộ cơ sở, máy móc, nguyên liệu, sản phẩm. (2) Vừa sản xuất vừa tiến hành thủ tục tư nhân hóa toàn bộ, đóng cửa ngay từ đầu những công ty không khả năng cạnh tranh. (3) Những cơ sở mà CSVN tịch thu của tư nhân dưới mọi hình thức, niêm phong chờ giao cơ quan phụ trách hoàn trả.

c. Quan niệm dầu hỏa khí đốt và nông nghiệp. (1) Duyệt xét lại các thỏa ước dò tìm khai thác dầu hỏa khí đốt, thảo luận tìm biện pháp bình đẳng giữa hai bên, nếu cần. (2) Xây dựng mới hoặc tân trang các nhà máy lọc dầu có khả năng đáp ứng lượng dầu thô sản xuất. Ngoài các loại nhiên liệu và nhựa đường, sẽ cung cấp các loại nguyên liệu cho kỹ nghệ chế biến phó sản dầu hỏa. (3) Nghiên cứu kế hoạch tiếp tục phát triển kỹ nghệ dầu hỏa khí đốt, cùng lúc dò tìm và khai thác quặng mỏ các ngành kỹ nghệ khác. (4) Phát triển nông nghiệp được quan tâm đặc biệt, vì lãnh vực này cùng dầu hỏa khí đốt và dịch vụ, sẽ là tổng sản phẩm căn bản của quốc gia trong thời kỳ đầu và sau đó. (5) Bước đầu, những kỹ nghệ quốc phòng thuộc chánh phủ, từng bước tiến đến tư nhân hóa khi nền kỹ nghệ phát triển ổn định. (6) Khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển toàn diện trong mọi điều kiện thuận lợi mà chánh phủ có trách nhiệm cung ứng.

d. Quan niệm về ngoại thương. Ngoại thương là một quan tâm đặc biệt khác: (1) Mở rộng thị trường xuất cảng hiện có và tìm kiếm thị trường mới, nhất là thị trường Bắc Mỹ, Âu Châu, Úc Châu. (2) Chuyên viên tiếp thị và quảng cáo sẽ là một khoa trong bậc đại học, cung ứng cho ngành thương mãi nội địa và xuất cảng sản phẩm. (3) Cán cân xuất nhập cảng sẽ góp phần quan trọng trong tiêu chuẩn đánh giá sức sản xuất và ngoại thương quốc gia.

e. Quan niệm về nội thương. Điều hòa thị trường trong nước. (1) Cung ứng sản phẩm đến người tiêu thụ giữa các vùng các miền của đất nước là mối quan tâm hàng đầu. (2) Khuyến khích và hỗ trợ hệ thống tiểu thương phát triển. Ngành tiểu thương “xương sống của nội thương”, bởi ngành này mặc nhiên đảm nhiệm vai trò thiết yếu cho sinh hoạt nông thôn vùng đồng bằng, bản làng trên cao nguyên rừng núi, và hải đảo xa xôi.

f. Quan niệm phát triển khu Rừng Sát. Tạo điều kiện thuận lợi cho dự án xây dựng khu Rừng Sát thành khu chế xuất, nối liền Thủ Thiêm với Vũng Tàu, từ đó mở rộng hải cảng Vũng Tàu thay thế một phần hải cảng Khánh Hội, Sài Gòn. Khu chế xuất này cũng là khu du lịch với nhiều thắng cảnh thiên nhiên lẫn nhân tạo. Khu chế xuất Jurong Town của Singapore là một kinh nghiệm tốt cho công cuộc nghiên cứu thực hiện.

7. Chính sách tài chánh. “Một phần trong sức mạnh của quốc gia. (1) Tìm biện pháp thích hợp thu hồi khối tài chánh của các cấp lãnh đạo CSVN kể cả tứ thân phụ mẫu và con cháu của họ, đã ký thác trong các ngân hàng quốc tế, để sử dụng vào những công trình xây dựng nhà ở cho thành phần đồng bào nghèo khổ, đồng thời nâng cao mức sống thành phần dân nghèo. (2) Thuế vụ phù hợp với mức sinh hoạt xã hội, và thay đổi theo từng bước phát triển. (3) Phục vụ kinh tế phát triển. (4) Nâng đỡ ngành tiểu thương “xương sống” của nền kinh tế tổng thể. (5) Bảo đảm mức sống tối thiểu của đồng bào. (6) Hỗ trợ mọi thành phần xã hội -nhất là tuổi trẻ- thăng tiến trong lãnh vực giáo dục trong nước, lẫn du học ngoại quốc, theo nhu cầu phát triển dài hạn của quốc gia”.

a. Quan niệm ngân sách. Xây dựng ngân sách quốc gia trên căn bản các nguồn thuế và các nguồn thu khác, kể cả viện trợ trong bước đầu.

b. Quan niệm đổi tiền. (1) Khi chế độ độc tài sụp đổ, trữ kim và ngoại tệ trong ngân hàng quốc gia và các ngân khố có thể sẽ là không đáng kể, thậm chí là con số không, vì bản chất cướp đoạt của nhóm lãnh đạo CSVN. Trường hợp này, chánh phủ lâm thời sẽ không có tài chánh điều hành xã hội, dù rằng ngay trong giai đoạn đầu có thể sẽ nhận được những khoản viện trợ quốc tế cấp thời và những khoản tiếp trợ do Cộng Đồng Việt Nam tị nạn hải ngoại chung góp chuyển về. (2) Đổi tiền để thay thế các loại tiền đang lưu hành tại Việt Nam, với những qui định giá cả một số mặt hàng thiết yếu góp phần quan trọng ổn định xã hội.

c. Quan niệm tiền lương và hưu bổng. Chế độ tiền lương và hưu bổng sẽ góp phần quan trọng trong một xã hội ổn định. (1) Nghiên cứu chế độ tiền lương và hưu bổng của vài quốc gia như Hoa Kỳ phát triển mạnh ở Châu Mỹ, Đài Loan đang phát triển ở Á Châu, hoặc như Phi Luật Tân mới phát triển chẳng hạn, đồng thời nghiên cứu thực trạng Việt Nam lúc bấy giờ để nghiên cứu một chế độ tiền lương và hưu bổng thích hợp cho hoàn cảnh Việt Nam trong tương lai 20 – 30 năm sau. (2) Tiền lương trong ngành giáo dục phải được quan tâm, vì đây là ngành duy nhất đào tạo con người có nhân cách, có kiến thức tổng quát, kiến thức chuyên môn, và có tinh thần trách nhiệm cộng đồng. (3) Hỗ trợ tuổi trẻ thăng tiến trên đường học vấn, đặc biệt là sinh viên đại học.

d. Quan niệm ngân hàng. Ngân hàng trên căn bản tư nhân. (1) Trong giai đoạn đầu, cần phối hợp với các ngân hàng, các chủ trương mục, và các tổ chức tài chánh quốc tế, nghiên cứu biện pháp giải quyết thỏa đáng về khối tài chánh ký thác trong các ngân hàng. (2) Khuyến khích ngành nông nghiệp và tiểu thương phát triển. (3) Hỗ trợ tiểu nông gia và tiểu thương gia phát triển.

e. Quan niệm nợ ngoại quốc. Duyệt xét toàn bộ nợ ngoại quốc, nhưng khẳng định không xét đến nợ cũ từ các quốc gia cộng sản liên quan đến các loại dụng cụ chiến tranh cung cấp cho nước VNDCCH sử dụng trong chiến tranh xâm lăng VNCH và xâm lăng quốc gia láng giềng Cam Bốt (Camphchia), trừ trường hợp có lợi cho quốc gia trong bang giao quốc tế sẽ cứu xét đặc biệt.

f. Quan niệm tài sản quốc gia. (1) Truy cứu các loại tài sản bị thất thoát dưới mọi hình thức. (2) Duyệt xét và điều chỉnh cần thiết những hồ sơ bán bất động sản cho cá nhân cũng như các tổ chức trong nước lẫn ngoài nước. (3) Những mờ ám trong hằng ngàn hồ sơ mua bán đất đai chắc chắn là đầy dẫy, cần duyệt xét minh bạch và tu chỉnh cần thiết trên căn bản bảo vệ quyền lợi quốc gia trong bang giao quốc tế. (4) Thu thập các dữ kiện về khối tài sản bất chánh mà lãnh đạo CSVN các cấp đã bí mật ký thác vào các ngân hàng ngoại quốc hoặc bí mật chuyển nhượng trong thân nhân họ hàng gần xa, dựa trên công pháp quốc tế và những vận động khác trong mục đích thu hồi vào tài sản quốc gia mà trước mắt là phong tỏa các trương mục đó. Tài sản bất chánh, là tài sản không tự họ tạo nên một cách minh bạch, cũng gọi là “đồng tiên dơ”.

8. Chính sách giáo dục. “Con người là yếu tố quan trọng bậc nhất trong xây dựng và phát triển đất nước. (1) Nền tảng giáo dục nhắm đào tạo những thế hệ công dân đúng nghĩa trong xã hội. (2) Phối hợp các ngành nhất là kinh tế, để đào tạo con người có kiến thức chuyên môn thích ứng nhu cầu phát triển của các ngành sinh hoạt quốc gia. (3) Những thế hệ được đào tạo có kiến thức, có căn bản về tổ chức & quản trị xã hội, có tinh thần trách nhiệm cộng đồng trong mọi sinh hoạt lợi ích xã hội.(4) Bản thân ngành giáo dục, xây dựng một đội ngũ Thầy Cô có kiến thức, phương thức giảng dạy, và uy tín. (5) Duy trì và phát triển giáo dục Việt Nam thích nghi với sức phát triển khoa học kỹ thuật thế giới hòa vào nét tinh hoa văn hoá Việt Nam. (6) Sách giáo khoa vừa dựng lại lịch sử, vừa góp phần phát triển các lãnh vực sinh hoạt xã hội trong hiện tại, và vừa thể hiện ước vọng tương lai của dân tộc. (7) Khuyến khích và hỗ trợ học sinh Việt Nam du học thích hợp với nhu cầu chuyên gia của các ngành sinh hoạt quốc gia. (8) Từng bước tiến đến cưỡng bách giáo dục hết bậc trung học”.

a. Quan niệm tổ chức. Từng bước xây dựng hệ thống giáo dục khai phóng, nhân bản, khoa học. Quan niệm này có vẻ như quay lại ba thập niên trước, vì giáo dục xã hội chủ nghĩa đã phá tan nền nếp, nên giờ đây phải quay lại từ đầu. (1) Hệ thống giáo dục: Tiểu học 6 năm kể cả lớp mẫu giáo. Trung học 7 năm theo chế độ thi tốt nghiệp. Đại học và trên đại học, tốt nghiệp theo luận án. (2) Khi hệ thống giáo dục ổn định đội ngũ sư phạm và sách giáo khoa ở mức độ chấp nhận, sẽ áp dụng tốt nghiệp trung học theo điểm, tốt nghiệp đại học theo tín chỉ, và tốt nghiệp trên đại học theo luận án. (3) Từng bước, tạo cơ hội cho bậc đại học tự trị. (4) Cưỡng bách giáo dục đến hết bậc trung học. (5) Đại học cộng đồng trở lên, đào tạo chuyên viên chuyên gia, với giờ học uyển chuyển trong mục đích tạo cơ hội giúp sinh viên có ý chí tiến thân trau dồi kiến thức. Sự phối hợp chặt chẻ với các ngành sinh hoạt quốc gia, nhất là kinh tế tài chánh, khoa học kỹ thuật, và văn học nghệ thuật, sẽ giúp ngành giáo dục đào tạo chuyên viên chuyên gia thích hợp với nhu cầu xây dựng và phát triển xã hội, đồng thời đào tạo đội ngũ chuyên gia cho bản thân ngành giáo dục vững chắc về sư phạm, thi cử, lượng giá, sách giáo khoa, ..v..v.. (6) Khuyến khích hệ thống trường tư theo chương trình giáo dục của ngành, góp phần trách nhiệm với hệ thống trường công, trong mục đích đào tạo những thế hệ công dân đúng nghĩa cho đất nước.

b. Quan niệm nhân sự. Giáo dục là nền tảng của phát triển xã hội. Do vậy, bản thân ngành giáo dục cần một đội ngũ nhân sự, có tinh thần trách nhiệm với quốc gia dân tộc, có kiến thức khoa học kỹ thuật, có kỹ thuật lẫn nghệ thuật sư phạm, để thực hiện mục đích cao quí mà xã hội luôn kỳ vọng vào nền giáo dục trong trách nhiệm đào tạo hàng hàng lớp lớp tuổi trẻ thật sự là rường cột quốc gia. (1) Trước mắt phải chọn lọc và sử dụng tối đa nhân sự hiện có trong hệ thống giáo dục của chế độ sụp đổ để lại, cộng với số nhân sự của thời Việt Nam Cộng Hòa còn lại, và thu nhận theo hợp đồng với các giáo viên giáo sư mới. (2) Sức khỏe và khả năng được chú trọng trong công tác chọn lọc. Theo thời gian, sẽ hoàn chỉnh số nhân sự đào tạo theo chương trình bổ túc và chương trình dài hạn, để có được đội ngũ sư phạm trong mục đích chiến lược giáo dục. (3) Từng bước khôi phục lại truyền thống “tôn sư trọng đạo”, góp phần khôi phục niềm tin, khôi phục niềm hãnh diện của nhà giáo, một thành phần xứng đáng được toàn xã hội tôn trọng, nhất là lòng kính trọng của học sinh sinh viên.

c. Quan niệm sách giáo khoa. Nội dung sách giáo khoa phải truyền đạt cho những thế hệ trẻ trở thành những thế hệ công dân có phẩm cách đạo đức và kiến thức khoa học kỹ thuật cho đất nước. Những sai sót của nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng dài lâu trong xã hội. Do vậy, công tác tham mưu trong chuẩn bị, biên soạn, ấn loát, cần phải một thời gian dài khả dĩ đủ để thực hiện. Có thể tiên đoán hầu hết những loại sách giáo khoa của cộng sản sẽ không thể sử dụng. Đây là vấn đề thật sự gai góc trong giai đoạn đầu ước tính phải 5 năm trở lên.

d. Quan niệm điều hành. (1) Công tác tổ chức song song với trách nhiệm điều hành hệ thống giáo dục ngay từ ngày đầu tiên. Tổ chức đến đâu giải thể đến đó. (2) Tất cả các trường học mang tên các nhân vật, tổ chức, hay địa danh liên quan đến cộng sản, đều phải thay thế ngay trong bước đầu. (3) Các chức vụ đứng đầu (Hiệu trưởng, Viện trưởng , ..v..v..) cũng như “giáo viên giáo sư giảng sư” tại các trường tiểu học, trung học, đại học, phải được thống nhất tên gọi. (4) Bổ nhiệm các giáo viên giáo sư thích hợp với khả năng. (5) Thay thế toàn bộ các tiêu đề trên các công văn trong hệ thống giáo dục. (6) Trong thời gian đầu, có thể ủy quyền chọn lọc và bổ nhiệm nhân sự tại địa phương cho cấp lãnh đạo giáo dục địa phương, để giải quyết nhanh chóng và thích ứng tạm thời. (7) Đội ngũ sư phạm với nội dung sách giáo khoa các bậc trong hệ thống giáo dục, thật sự là vấn đề tối quan trọng mà tiểu ban tham mưu giáo dục phải nhiều công sức khi phác thảo những kế hoạch chi tiết cho từng mục tiêu.

9. Chính sách luật pháp. “Nghiêm minh bình đẳng. (1) Mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, bất luận người đó là vị lãnh đạo cao nhất nước hay người dân bình thường. (2) Dân chủ pháp trị, là nền tảng cư xử giữa người dân với hành chánh công quyền. (3) Luật pháp góp phần bảo tồn và phát triển những tinh hoa văn hoá dân tộc. (4) Luật pháp đặt nặng hướng dẫn hơn là trừng trị. (5) Người Việt Nam định cư ở ngoại quốc, đương nhiên là công dân Việt Nam, được quyền có thêm một quốc tịch tại quốc gia cư trú”.

a. Quan niệm luật pháp. Cũng như các ngành sinh hoạt quốc gia, luật pháp phải thể hiện tinh hoa của văn hoá dân tộc. (1) Luật pháp được xây dựng trên căn bản dân tộc. (2) Trong cộng đồng quốc tế thời đại ngày nay là hợp tác phát triển, từ đó dẫn đến sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia, luật pháp được xây dựng trên căn bản dân tộc, kết hợp hài hòa với luật pháp được thừa nhận trên thế giới. Trong đó, những công ước công pháp quốc tế được tổ chức Liên Hiệp Quốc hay tổ chức tương đương sau này, xây dựng trong mục đích góp phần tạo nên một thế giới hòa bình, hợp tác, và phát triển bền vững được xem là tiêu biểu.

b. Quan niệm dân chủ pháp trị. Khái niệm tổng quát là mọi sinh hoạt cá nhân, trong gia đình, trong tổ chức, bất luận là tổ chức lớn hay nhỏ, kể cả những vị lãnh đạo cũng như những cơ quan cao nhất của quốc gia, khi có bất cứ hành động nào không đúng qui định của luật pháp, đều do luật pháp xét xử mà không một cá nhân hay một cơ quan nào có thẩm quyền phán xét. Do đó, hệ thống luật pháp phải dự liệu trường hợp xảy ra từ trong mọi ngóc ngách của sinh hoạt xã hội, qui định cơ quan tư pháp có chức năng xử lý, và qui định biện pháp chế tài thích ứng. Nói chung, xã hội dân chủ pháp trị, là một xã hội đặt trên căn bản kỷ cương trong một hệ thống tư pháp độc lập, với sự tham gia tích cực của những công dân được xác nhận đủ tư cách, để tránh ảnh hưởng của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào trong hay ngoài chánh phủ.

c. Quan niệm nhân sự. Nhu cầu luật gia rất nhiều. (1) Các trường đại học luật, với những kế hoạch phối hợp trong dài hạn, đào tạo nhân sự thích ứng theo từng bước phát triển của ngành để đạt đến mục tiêu. Những sinh viên luật khoa khi tốt nghiệp, có được một hành trang kiến thức khả dĩ đủ thi hành trách nhiệm tư pháp, giữ thăng bằng trong mọi ngành sinh hoạt xã hội về chính sách dân chủ pháp trị, và những va chạm giữa mọi công dân hay những tổ chức trong hoặc ngoài chánh phủ Việt Nam, với quốc tế. (2) Xây dựng được một xã hội dân chủ pháp trị, nặng nhất là ngành giáo dục, với trách nhiệm giáo dục qua từng bước thích hợp nhu cầu với khả năng, vừa nâng cao dân trí, vừa đào tạo đội ngũ luật gia theo yêu cầu của ngành tư pháp nói riêng và nhu cầu xã hội nói chung. Tiếp đó là hệ thống luật pháp, và cơ quan thi hành.

d. Quan niệm sự bình đẳng trước pháp luật. (1) Mọi công dân Việt Nam cũng như người ngoại quốc khi phạm luật, đều bị chi phối của luật pháp một cách bình đẳng. Không một ai, kể cả vị lãnh đạo cao nhất nước, đứng bên ngoài hay bên trên luật pháp, mà luật nặng về hướng dẫn hơn là trừng trị. (2) Trong xã hội, hài nhi khi chào đời đều bình đẳng, khi đi học mọi học sinh đều bình đẳng, khi làm việc mọi người đều bình đẳng theo kiến thức của mình, khi phạm luật mọi người cũng bình đẳng trước pháp luật. (3) Trong một xã hội mà mọi người được hưởng đầy đủ các quyền tự do căn bản, với nền dân chủ pháp trị là điều kiện thuận lợi góp phần giúp công dân thành đạt mục đích mưu cầu hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình, và góp phần tạo nên một xã hội hạnh phúc.

10. Chính sách du lịch. “Du lịch, ngành kỹ nghệ không khói. (1) Mở rộng cửa đón du khách thưởng ngoạn thắng cảnh thiên nhiên, thắng cảnh nhân tạo, những sinh hoạt trong đời sống văn hoá dân tộc, những di tích trận địa, những hành vi tội ác của chế độ độc tài trong chiến tranh và sau chiến tranh, gồm cả cơ sở bảo tàng những vật chứng trong cuộc vượt biên vượt biển tìm tự do vĩ đại nhất và bi thảm nhất trong lịch sử nhân loại 1975-1995, cùng những thành công của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại trong nhiều lãnh vực tại các quốc gia định cư. Đây không phải nuôi dưỡng thù hận chế độ sụp đổ, mà là để lưu lại cho những thế hệ về sau nhận ra tính chất tàn bạo của một chủ nghĩa trên thế giới như tính chất tàn bạo của chủ nghĩa phát xít trong đệ nhị thế chiến, từ đó không phạm phải sai lầm”. (2) Thể hiện ước vọng tương lai của dân tộc Việt Nam. Ước vọng này cần có sự phối hợp của các ngành sinh hoạt quốc gia, nhất là văn hoá giáo dục, kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật”.

a. Quan niệm khách du lịch. (1) Du lịch là “một kỹ nghệ không khói” có khả năng đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc gia hằng năm (GDP), nhưng nguy cơ thua lỗ thấp hơn nhiều so với những ngành kinh doanh khác. Đành rằng thu nhập vẫn là thiết yếu, nhưng cốt lõi của mục tiêu là phải đạt được một trong những mục tiêu chính của quốc gia, bằng cách cung ứng cho du khách nhất là du khách ngoại quốc, trong một mức độ nào đó, thưởng ngoạn được cảnh trí quê hương, đồng thời hiểu sâu thêm những nét đẹp của văn hoá dân tộc Việt Nam từ nhiều ngàn năm trong lịch sử. (2) Khách du lịch, gồm: Những người trong nước, người Việt Nam từ nước ngoài về thăm quê hương, và người ngoại quốc đến Việt Nam với tư cách cá nhân du lịch, hoặc với tư cách doanh gia vừa đầu tư kinh doanh sản xuất vừa du lịch.

b. Quan niệm cách thu hút khách du lịch. (1) Du lịch được nhìn dưới khía cạnh chiến lược, bao gồm tất cả những gì phục vụ cho ngành du lịch, từ tiếp thị, bán vé (tại ngoại quốc), vận chuyển, đón tiếp (tại Việt Nam), khách sạn, đổi tiền, đến hướng dẫn, quà kỷ niệm, giải quyết những trở ngại, ..v..v.. cho khách. (2) Phát triển những cảnh trí thiên nhiên đang sử dụng, và khai thác những khu vực mới để đưa vào sử dụng trong ngành này. Những trận chiến trong lịch sử xưa và nay, được dựng lại với những địa thế, những sa bàn, những phim ảnh, cùng những vật chứng liên quan, khả dĩ đủ nói lên tính cách ác liệt cũng như tính cách quyết định chiến trường của một số trận địa mà một thời thế giới đã biết đến. (3) Phát triển cảnh trí nhân tạo đang sử dụng và những cảnh trí sẽ tạo thêm. (4) Trùng tu và bảo tồn những di tích lịch sử đã được Cơ Quan Văn Hoá Liên Hiệp Quốc công nhận, đồng thời trùng tu các cơ sở có khả năng nâng lên hàng di tích lịch sử. Các viện bảo tàng các ngành sinh hoạt quốc gia qua các thời đại, cùng các phòng trưng bày mỹ thuật xưa và nay. (5) Một hệ thống vận chuyển, hay ít nhất cũng là những phương tiện vận chuyển công cộng tốt trong thành phố, vận chuyển giữa các thành phố, và vận chuyển trên các lộ trình đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không, nối liền các thành phố với các khu du lịch trên toàn quốc, đất liền cũng như các hải đảo. (6) Công Viên Văn Hoá tại mỗi miền trình diễn âm nhạc dân tộc, trình diễn những lễ hội truyền thống dân gian, phô diễn những hoa kiểng cây trái địa phư ơng . (7) Những đạo luật của Lập Pháp cùng những nguyên tắc qui định bởi Hành Pháp, càng góp phần tạo thêm thuận lợi thu hút du khách.

c. Quan niệm tổ chức. Những cảnh trí thiên nhiên lẫn cảnh trí nhân tạo, cộng với ngành hàng không và các phi cảng tiện nghi lẫn nguyên tắc quản trị phóng khoáng, và hệ thống cơ sở khách sạn nhà hàng, có khả năng thu hút du khách. Nhưng một hệ thống cơ sở dịch vụ bán vé phi cơ và tổ chức các chuyến du lịch có hướng dẫn, càng tạo thêm thuận lợi cho du khách. Hệ thống này được thiết lập trong nước lẫn ngoài nước, nếu không thể có mặt tại nhiều quốc gia, thì ít nhất cũng cần có cơ sở dịch vụ du lịch tại các quốc gia mà chúng ta đánh giá là hằng năm có nhiều công dân tại đó xuất ngoại du lịch, nhất là du lịch các nước Á Châu. Các cơ sở này cũng là nơi “tìm kiếm thị trường”, nhưng thay vì tìm thị trường bán sản phẩm hàng hoá, thì dịch vụ này tìm du khách đến Việt Nam du lịch để bán vé phi cơ. “Sản phẩm” của hệ thống cơ sở dịch vụ là thực hiện toàn bộ nhu cầu cho từng chuyến du lịch của khách, giúp họ chỉ cần đến một nơi là đủ cho nhu cầu căn bản trong chuyến đi của họ. Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại rất kinh nghiệm trong lãnh vực này.

11. Chính sách xã hội. ”Là công dân Việt Nam, tất cả đều bình đẳng. (1) Khả năng của chánh phủ, cộng với sự vận động cá nhân cũng như các tổ chức trong nước, và vận động các tổ chức quốc tế và các chánh phủ, trợ giúp cho tất cả thương phế binh không phân biệt nguồn gốc, cai nghiện xì ke ma túy, và dạy nghề cho những thành phần mà đạo lý xã hội không chấp nhận. (2) Nuôi dưỡng người già và người tàn phế không nơi nương tựa. (3) Nuôi dưỡng trẻ mồ côi, được giáo dục hết bậc trung học phổ thông hay chuyên nghiệp . (4) Nghiên cứu một kế hoạch hoàn chỉnh và thực hiện công tác hoàn trả tất cả động sản và bất động sản còn kiểm soát được cho các sở hữu chủ hợp pháp, đã bị CSVN tịch thu dưới mọi hình thức mà còn nắm quyền quản trị, hay đã chuyển quyền quản trị cho cá nhân hay tổ chức bất cứ hình thức nào”.

a. Quan niệm về an sinh xã hội. An sinh xã hội là vấn đề rất phức tạp, bởi bản chất cộng sản đã tạo nên một xã hội mà mọi người d ù cộng sản hay không cộng sản, dù lãnh đạo hay dân thường, ngay cả ngành giáo dục, đều sống với nhau bằng lọc lừa dối trá. (1) Khả năng của chánh phủ, cộng với sự vận động cá nhân cũng như các tổ chức trong nước, và vận động các tổ chức quốc tế và các chánh phủ, trợ giúp cho tất cả thương phế binh không phân biệt nguồn gốc, cai nghiện xì ke ma túy, và dạy nghề cho những thành phần mà đạo lý xã hội không chấp nhận. (2) Nuôi dưỡng người già và người tàn phế không nơi nương tựa. (3) Nuôi dưỡng trẻ mồ côi, được giáo dục hết bậc trung học. (4) Bảo đảm cho người dân có lợi tức thấp hoặc không có lợi tức từ bản thân cũng như từ các thân nhân, có mức sống tốI thiểu. (5) Góp phần nghiên cứu để có thể chậm nhất là sau 20 năm mức sống người dân đạt đến trung bình cao (trên 3.000 mỹ kim tính theo tổng sản lượng quốc gia/đầu người/năm).

b. Quan niệm tài sản tư nhân. Tài sản tư nhân bị tịch thu là mọi loại tài sản của tư nhân mà bộ máy cầm quyền cộng sản đã chiếm đoạt bất cứ hình thức nào. (1) Loại tài sản bị CSVN tịch thu từ mùa thu 1945, chỉ xét đến những bất động sản còn kiểm chứng được. (2) Loại tài sản bị CSVN tịch thu từ đầu năm 1975, gồm cả những động sản, bất động sản, và n hững loại tài sản khác còn kiểm chứng được. Đây là vấn đề xã hội dai dẳng nhất và phức tạp nhất đối với bất cứ vấn đề nào khác trong xã hội, ngay cả định nghĩa “thế nào là chủ hợp pháp” đối với tài sản bị tịch thu hằng bốn năm chục năm trước, đã là phức tạp đáng kể trước khi bắt tay vào việc.

c. Quan niệm tổ chức. (1) Thành lập một cơ quan cấp trung ương, có trách nhiệm kiểm kê tài sản tư nhân đã bị CSVN tịch thu dưới mọi hình thức và hoàn trả cho chủ hợp pháp. Cơ quan này do Phó Thủ Tướng hoặc tương đương đứng đầu. (2) Tổ chức một cơ quan cấp địa phương tại mỗi thành phố lớn, thống thuộc hành chánh địa phương về chỉ huy và thống thuộc Cơ Quan Hoàn Trả Tài Sản Tư Nhân về chuyên môn. (3) Để tránh sự cồng kềnh về tổ chức, chỉ nên thành lập các cơ quan tại các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, Huế, Đà Nẳng, Nha Trang, Ban Mê Thuột, Sài Gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ, và Long Xuyên. Các cơ quan tại đó, cử những toán công tác đến các thành phố nhỏ trong phạm vi trách nhiệm, nếu những địa phương đó có những tài sản tư nhân bị CSVN tịch thu.

d. Quan niệm điều hành. (1) Trước khi bắt đầu cuộc kiểm kê trên toàn quốc, phải thông báo rộng rãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng trong một thời gian ước tính đủ để đồng bào hiểu rõ chính sách của chánh phủ, và hiểu rõ những gì mà những chủ nhân hợp pháp phải làm. Trong nội dung các thông báo đó, cần nói rõ những biện pháp trừng phạt những ai lợi dụng chính sách này để tranh đoạt tài sản không thật sự của họ. Sau đó, trong cùng thời gian, vừa tiếp nhận các hồ sơ của đồng bào về những tài sản của họ đã bị CSVN tịch thu, vừa tiến hành kiểm kê. (2) Phương thức điều hành căn bản để hoàn thành một hồ sơ: (a) Xét tính cách hợp pháp của người đứng tên trên hồ sơ. (b) Nếu người đứng tên là chủ hợp pháp, kiểm chứng tài sản ghi trong hồ sơ với tài sản hiện do cơ quan kiểm kê và quản trị. Nếu sai biệt thiếu hoặc thừa, yêu cầu người đứng tên xác nhận lại. (c) Tài sản nào hoàn trả ngay được thì hoàn trả, tài sản nào cần kiểm chứng thêm thì tiếp tục cho đến khi giải quyết xong với sự thỏa thuận của người chủ hợp pháp. Công tác này khó đạt được sự hoàn hảo, nhất là đối với những tài sản bị CSVN tịch thu hằng chục năm hoặc nhiều chục năm trước, và họ đã chuyển nhượng nhiều lần nhất là thời gian ngay trước và sau khi cộng sản sụp đổ, vì vậy giữa cơ quan với người chủ hợp pháp cần phải cộng tác nhau để giải quyết trên căn bản đồng thuận, nhưng phải chịu mọi chế tài của luật pháp nếu có gian dối khi bị phát hiện. Cũng cần thận trọng về phía viên chức phụ trách, vì đây là vấn đề nhạy cảm dễ gây tai tiếng không tốt ảnh hưởng đến chính sách.
Houston, ngày 25/3/2007
Duyệt lại ngày 8/10/2012
* * *

Phụ bản E

Gợi Ý Thông Điệp Đầu Tiên

Điểm 1. Việt Nam là một nước Cộng Hòa, một lãnh thổ thống nhất, một xã hội dân chủ pháp trị, một chánh phủ phục vụ quyền lợi quốc gia theo nguyện vọng dân tộc. Chủ trương hợp tác phát triển với các quốc gia trên căn bản bình đẳng, trong ý thức kết hợp hài hòa giữa nét tinh hoa văn hoá dân tộc với khoa học kỹ thuật tân tiến.

Điểm 2. Thủ đô đặt tại Sài Gòn.

Điều 3. Hủy bỏ Hiến Pháp, quốc kỳ, quốc ca, quốc huy, cùng các văn bản của chế độ sụp đổ liên quan đến nhường đất, nhường biển, nhường đảo cho ngoại quốc.

Điểm 4. Ban hành Hiến Ước Lâm Thời. Tạm thời sử dụng quốc huy, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, và quốc ca là bài Quốc Dân Hành Khúc, đến khi có một đạo luật của Quốc Hội Lập Pháp về vấn đề này.

Điểm 5. Giải tán Quốc Hội và toàn bộ các cơ cấu tổ chức kể cả cơ cấu dân cử từ trung ương đến địa phương của chế độ sụp đổ. Giải tán đảng cộng sản Việt Nam, và các đảng chính trị ngoại vi của đảng này thành lập từ ngày chế độ sụp đổ trở về trước. Toàn bộ các cơ sở và mọi tài sản của đảng cộng sản, các đảng chính trị, cùng các tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản, niêm phong chờ phán quyết của tòa án.

Điểm 6. Tất cả đảng viên cộng sản và những thành viên của các tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản tính đến ngày sụp đổ, được sống tự do và bình đẳng như tất cả công dân trong xã hội. Riêng những thành viên Bộ Chính Trị từ khóa 1 đến khóa đương nhiệm, sẽ được phán quyết bởi tòa án, ngoại trừ những thành viên đã thật sự góp phần quan trọng vào sự sụp đổ của cộng sản, nếu có.

Điểm 7. Ngăn cấm mọi hành động có tính cách trả thù cá nhân hay tổ chức.

Điểm 8. Tôn trọng các quyền: Sở hữu tư nhân. Tự do tôn giáo. Tự do lập hội. Tự do báo chí. Tự do ngôn luận. Tự do chính trị. Tự do kinh doanh. Và tự do mưu cầu hạnh phúc trong khuôn khổ luật pháp.

Điểm 9. Tôn trọng các thỏa ước cùng các văn kiện quốc tế phù hợp với chế độ tự do dân chủ. Các thỏa ước cùng các văn kiện không phù hợp với chế độ dân chủ tự do, tạm ngưng áp dụng và sẽ thảo luận sau.

Điểm 10. Toàn bộ quân nhân (cộng sản gọi là bộ đội và cán bộ), công an cảnh sát, giáo viên giáo sư, công nhân viên chức các cấp các ngành, đến nhiệm sở tiếp tục công tác thường ngày. Tất cả học sinh sinh viên, đi học bình thường.

Điểm 11. Trả tự do tất cả tù nhân chính trị không phân biệt nguồn gốc, dù có án hay chưa có án, dù đang tạm giam hay trong nhà tù hoặc trong trại cải tạo. Xóa bỏ các án chính trị ngụy trang dưới án lệnh hình sự mà khám phá được.

Điểm 12. Bảo vệ lãnh thổ lãnh hải và hải đảo, ưu tiên bằng chính trị nhưng nhất thiết không gây thiệt hại quyền lợi quốc gia.

Điểm 13. Bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội, ưu tiên bằng chính sách nhân sự trên căn bản bình đẳng giữa các thành phần trong xã hội. Luật pháp trừng phạt trong ý niệm răn dạy và hướng dẫn.

Điểm 14. Tài sản tư nhân bị cộng sản tịch thu dưới mọi hình thức từ năm 1954 đến ngày sụp đổ, sẽ hoàn trả cho chủ hợp pháp nếu truy tìm được.

Điểm 15. Tạo điều kiện thuận lợi cho dầu hỏa hơi đốt, và kỹ nghệ chế biến từ phó sản dầu hỏa phát triển đồng thời với phát triển nông nghiệp và các ngành chế biến khác, qua chính sách đầu tư nội địa và đầu tư ngoại quốc.

Điểm 16. Khuyến khích các đảng chính trị hoạt động trong tinh thần dân chủ thật sự, góp phần thúc đẩy khôi phục và phát triển các sinh hoạt xã hội. Trong thời gian chưa có Hiến Pháp, không chấp nhận đảng cộng sản hay đảng chính trị độc tài.

Điểm 17. Người Việt Nam sống ở ngoại quốc, đương nhiên là công dân Việt Nam. Chánh phủ công nhận công dân Việt Nam có quyền giữ thêm một quốc tịch nơi đang sinh sống.

Điểm 18. Hệ thống tổ chức cơ chế quốc gia sẽ thực hiện theo Hiến Pháp do Quốc Hội Lập Hiến soạn thảo, và lãnh đạo ban hành sau cuộc trưng cầu ý dân.
Houston, ngày 10/3/2007
Duyệt lại ngày 8/10/2012
* * *

Phụ bản F

Gợi ý kế hoạch ổn định xã hội khi CSVN sụp đổ.

Thời kỳ hậu cộng sản, Chánh Phủ lâm thời không có tài nguyên trong tay, từ nhân sự đến tài lực vật lực đều không, nhưng với những tiểu ban tham mưu có khả năng và tích cực, cho phép Chánh Phủ tin tưởng những khó khăn quan trọng trước mắt, thậm chí là tối quan trọng có thể được giảm bớt đáng kể. Những phác thảo như là những cái khung với một số chi tiết cần thiết, sẽ giúp công tác hoàn chỉnh được nhanh chóng và sát thực tế khi bắt tay vào việc, rút ngắn được thời gian mà lúc ấy thời gian là một trong những nhân tố dẫn đến thành công hay thất bại.

1. ƯỚC TÍNH TÌNH HÌNH

a. Ước tính tình hình Việt Nam ngay khi CSVN sụp đổ và sau đó.

Phần ước tính tình hình này dựa trên giả thuyết cộng sản Việt Nam (CSVN) sụp đổ do bạo loạn từ người dân, với nỗ lực vận động và tổ chức của thành phần lâu nay đã can đảm đứng lên đòi đảng với nhà nước thực hiện dân chủ tự do và nhân quyền đã ghi trong Hiến Pháp, với sự hỗ trợ mạnh mẽ của Cộng Đồng Người Việt tị nạn tại hải ngoại
Tình hình Việt Nam ngay khi chế độ cộng sản sụp đổ, ước tính chung sẽ hỗn loạn bởi cấp lãnh đạo các ngành trong xã hội đều là đảng viên cộng sản nên họ đã bỏ chạy, vì họ sợ những cuộc trả thù từ những cá nhân đã từng bị họ đàn áp tù đày, bị áp bức bóc lột, bị cướp đoạt tài sản, kể cả những nhân viên chức bị họ hiếp đáp trù dập, ..v..v.. Từng lãnh vực sinh hoạt trong xã hội, ước tính như sau:

(1) Ước tính về chính trị.
Có thể có hai thành phần rõ nét là những tổ chức của CSVN và lực lượng đấu tranh ôn hòa cho dân chủ.
Những tổ chức chính trị của CSVN, phần lớn sẽ phân rã để tự lo bảo vệ tài sản của chúng, một phần nhỏ vẫn cực đoan mù quáng tìm cách chống đối chánh phủ lâm thời với hy vọng mong manh sẽ cứu được chế độ, trong khi chúng không hề biết là lãnh đạo của chúng đã chạy trốn bằng những cách khác nhau, kể cả chạy trốn sang Trung Cộng, Hoa Kỳ, Châu Âu, Châu Úc, ..v..v…
Trong khi đó, lực lượng đấu tranh dân chủ sẽ kết hợp thành một tổ chức chính trị trong thời gian nhanh nhất, hầu gia tăng lực lượng điều hành bộ máy hành chánh để ổn định xã hội mặc dù còn luôm thuộm. Lực lượng này chắc chắn sẽ được đồng bào ủng hộ mạnh mẽ, nhất là những đoàn dân oan, những công nhân nông dân từ lâu bị áp bức bóc lột. Rất có thể sẽ có một lực lượng quân đội cộng sản hoặc riêng lẻ những quân nhân và cả công an cộng sản tham gia tổ chức chính trị này, do họ bất mãn với chế độ độc tài nhưng không dám công khai lên tiếng.

(2) Ước tính về kinh tế.
Tình hình kinh tế ngưng trệ ngay trước mắt do cấp lãnh đạo những cơ sở khai thác sản xuất kinh doanh thương mãi đã bỏ chạy với tài sản của họ, kể cả cướp tài sản của cơ sở mà họ đang lãnh đạo. Những kẻ lãnh đạo đó là những tên cộng sản tham nhũng vừa chia chác cho những tên lãnh đạo bên trên, cũng là để có nơi che chắn bảo vệ họ. Bởi, từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20, cái nôi của chủ nghĩa cộng là Liên Sô đã sụp đổ kéo theo những quốc gia cộng sản vùng Đông Âu cũng sụp đổ, từ đó CSVN không còn lý tưởng để bám víu nên sử dụng tham nhũng -một chính sách không thành văn- để bảo vệ đảng cộng sản mà thật ra là bảo vệ quyền lực quyền lợi của bản thân họ, nhất là gần 200 đảng viên trong “Ban Chấp Hành Trung Ương” đảng CSVN.

(3) Ước tính về giáo dục.
Học trò. Các trường học tại các thành phố lớn nhất là Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, và các thành phố trước kia thuộc Việt Nam Cộng Hòa, học sinh sinh viên vẫn đến trường nhưng không học, ngoại trừ con cháu của những tên cộng sản hàng lãnh đạo lo chạy trốn. Trước tình cảnh hỗn loạn của xã hội, học sinh sinh viên sẽ tự tổ chức một lực lượng và tự đảm trách trật tự lưu thông, ngăn chận bảo vệ tài sản các cơ sở công cộng. Dĩ nhiên là sự cố gắng của học sinh sinh viên chỉ trong một mức độ nào đó chớ không thể nào thực hiện được trọn vẹn công tác này, vì trong lúc giao thời biết bao sự kiện cướp bóc từ những thành phần nghèo khổ do bị xã hội chủ nghĩa tạo nên.
Thầy Giáo Cô Giáo. Rất có thể đa số sẽ đến trường để theo dõi tình hình, ngoại trừ số Thầy Cô gốc đảng viên cộng sản, nếu không bỏ chạy cũng là theo dõi tình hình tại nhà.

(4) Ước tính về xã hội.
Lực lượng Công An tự tan rã, có thể một phần nào đó phối hợp với lực lượng chính trị còn sót lại, tìm cách chống phá gây khó khăn cho chánh phủ lâm thời trong lúc giao thời, và có thể còn tiếp tục sau đó nhưng không thể gây nguy hiểm cho chề độ dân chủ tự do, vì người dân vốn dĩ không ưa Công An nếu không nói là căm thù chúng do bạo lực của chúng đối với đồng bào trước đây. Vì vậy mà người dân sẽ tố cáo chúng với chánh quyền mới nếu biết chúng ở đâu.
Hệ thống hành chánh không tan rã hẳn, nhưng những người đến cơ quan trong mục đích theo dõi tình hình hơn là đến để làm việc. Chính vì hành chánh không hoạt động nên người dân rất bối rối nếu có những nhu cầu cấp bách cần đến.
Không loại trừ những thành phần lâu nay sống trong khốn khổ do những tên lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước các cấp gây ra, sẽ cướp đoạt tài sản của những tên lãnh đạo dù chúng có bỏ chạy hay không, mang tính cách vừa trả thù vừa có cái gì để sống tạm trước mắt. Tình trạng này mỗi ngày mỗi thêm tệ hại đến khi chánh phủ lâm thời hình thành được lực lượng bảo vệ an ninh và trật tự xã hội.

(5) Ước tính về quân sự.
Quân đội nhân dân của cộng sản tự tan rã khi mà lãnh đạo của họ thuộc thành phần tham nhũng hay đồng lỏa trong chính sách bán đất bán biển cho Trung Cộng bỏ chạy, nhưng trong chánh phủ lâm thời có thành phần đảng viên và cựu đảng viên cộng sản đã thật sự góp phần làm cho chế độ sụp đổ nên được trọng dụng, do ảnh hưởng của thành phần này một một số đơn vị quân đội đứng về phía chánh phủ mới.
Chánh phủ sử dụng lực lượng này vào công tác bảo vệ an ninh và trật tự xã hội, đồng thời củng cố vị trí bảo vệ biên giới và hải đảo.
Lực lượng Công An cộng sản phần lớn sẽ ở nhà hoặc tìm cách lẫn tránh vì sợ trả thù do hậu quả từ những hành động áp bức đồng bào trước đó. Một thành phần nhỏ mà trước đó trách nhiệm về trật tự xã hội sẽ xuất hiện dưới trang phục thường dân góp sức vào công tác trật tự xã hội, nhất là điều hòa lưu thông do chính họ cũng bất mãn với chế độ độc tài.

b. Ước tính tình hình biên giới.


(1) Trung Cộng. Trên bộ. Đã có ít nhất là khoảng 50.000 đến 70.000 công nhân (?) hoạt động tại các công trường khai thác bauxite, điện, xi măng, hóa chất, rải rác trên khắp lãnh thổ từ biên giới Việt Nam – Trung Cộng, dọc theo duyên hải Việt Nam và vùng Cao Nguyên Miền Trung (CSVN gọi là Tây Nguyên). Với tham vọng của Trung Cộng lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam, chúng ta không mơ hồ khi nghi ngờ trong tổng số công nhân tại các công trường mà Trung Cộng trúng thầu có bao nhiêu là quân lính? Cũng có thể tất cả họ đều là quân lính? Trên biển. Đã chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa và 8 đảo trong quần đảo Trường Sa. Đã kiến tạo một phi trường ở Hoàng Sa và một phi trường khỏ khác ở Trường Sa. Lực lượng bộ chiến và tàu chiến của Trung Cộng thường xuyên túc trực hoặc luân phiên lai vãng chung quanh hai quần đảo này.
Không loại trừ giả thuyết Trung Cộng lợi dụng ngay khi CSVN sụp đổ và mọi sinh hoạt trong tình trạng rối loạn, chúng sẽ lấn chiếm thêm vùng đất biên giới nhất là những khu vực mà CSVN cho Trung Cộng thuê đất rừng, bằng cách chúng biến những nơi đó thành những căn cứ quân sự, bao quanh bởi các làng mạc và những bích chương trong khu vực này toàn là tiếng Trung Hoa, như thể những nơi đó vốn dĩ là lãnh thổ của chúng vậy. Cùng lúc, chúng lấn chiếm thêm các đảo của quần đảo Trường Sa. Với hồ sơ Biển Đông, Trung Cộng không thể khống chế được Biển Đông vì đây là đường hàng hải quốc tế mà Hoa Kỳ đã chánh thức tuyên bố là Hoa Kỳ bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ ở vùng này.
Cũng không loại trừ giả thuyết Trung Cộng thành lập một lực lượng mà chúng gọi là “chí nguyện quân” tràn sang Việt Nam dựng lại chế độ cộng sản với cơ cấu đảng lẫn cơ cấu hành chánh đều do những tên CSVN tay sai của Trung Cộng cai trị, trong khi đó đoàn “công nhân” của chúng biến thành một cánh quân của “chí nguyện quân” chiếm Cao Nguyên Miền Trung và nhiều nơi khác để tăng thêm áp lực cho công cuộc chiếm lại quyền cai trị cho CSVN dưới quyền khống chế của Trung Cộng.

(2) Lào. Trong thời CSVN cai trị từ năm 1975 đến khi sụp đổ, dường như có sự tranh chấp biên giới do CSVN với thế mạnh nên lấn chiếm một phần nhỏ lãnh thổ của Lào. Nếu sự tranh chấp đó vẫn còn, rất có thể trong tình hình này sẽ là cơ hội để chánh phủ Lào lấn chiếm lại.

(3) Cam Bốt. Rất có thể Cam Bốt cũng trong tình trạng như Lào. Không loại trừ giả thuyết là Cam Bốt sẽ lấn chiếm vài đảo trong Vịnh Thái Lan, điều mà Cam Bốt đã từng lên tiếng giành chủ quyền trên các đảo đó.

(4) Các quốc gia khác. Với các quốc gia khác như: Phi Luật Tân, Malaysia, Bruney, Đài Loan, ..v..v., có thể cũng lên tiếng giành chủ quyền trên những đảo trong quần đảo Trường Sa như họ đã từng lên tiếng, cũng có thể họ lại giành chủ quyền trên một vài đảo nữa chăng, nhưng giả thuyết này ít xảy ra.

c. Ước tính hỗ trợ từ các quốc gia bạn. (chánh phủ lẫn không chánh phủ)

(1) Hoa Kỳ. Ước tính sẽ được chánh phủ Hoa Kỳ hỗ trợ mạnh mẽ cho chánh phủ lâm thời về chính trị, và viện trợ vật chất cứu trợ xã hội. Cũng ước tính là Hoa Kỳ sẽ vận động các quốc gia hỗ trợ Việt Nam bước đầu để ổn định xã hội, và sau đó.

(2) Các quốc gia Châu Âu. Sau Hoa Kỳ, Liên Hiệp Âu Châu gồm 27 quốc gia Âu Châu sẽ hỗ trợ chánh phủ lâm thời, nhất là vật chất cứu trợ xã hội, kế tiếp là viện trợ góp phần ổn định xã hội.

(3) Australia, Đại Hàn và Nhật Bản. Ước tính sẽ là trong các quốc gia lên tiếng ủng hộ chánh phủ lâm thời sớm nhất và mạnh mẽ nhất, vì lẽ Đại Hàn và Nhật Bản đang đầu tư rất nhiều tại Việt Nam. Riêng với Đại Hàn, là quốc gia dân chủ tự do cùng thời với Việt Nam Cộng Hòa chúng ta, nên chính sách của Đại Hàn vẫn gắn bó với Việt Nam trong chế độ mới này. Ngoài Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu, Đại Hàn và Nhật Bản sẽ là quốc gia viện trợ mạnh về vật chất cho công tác ổn định xã hội trong thời kỳ đầu sau khi CSVN sụp đổ.

(4) Đài Loan. Ước tính đảo quốc Đài Loan cũng là quốc gia Á Châu viện trợ vật chất giúp ổn định xã hội. Rất có thể đảo quốc này cố gắng giữ bang giao với chánh phủ lâm thời để giành sự ủng hộ đảo quốc từ Việt Nam dưới chế độ dân chủ tự do.

(5) Thái Lan. Ước tính chánh phủ Thái Lan ủng hộ chánh phủ lâm thời chúng ta, nhưng viện trợ vật chất cứu trợ xã hội có thể không có, hoặc có cũng rất chừng mực vì tổng sản lượng quốc nội của quốc gia này kém khá xa Đại Hàn và Đài Loan.

d. Ước tính khả năng chánh phủ lâm thời.

Khả năng sẳn có của chánh phủ lâm thời hầu như không có gì, nhưng sau khi kiểm soát sơ khởi trong xã hội vừa thoát khỏi chế độc cộng sản độc tài, ước tính sẽ quản trị được: (1) Khối nhân lực trong các ngành sinh hoạt quốc gia mà trước đó thuộc hệ thống hành chánh, quân sự, cảnh sát, kinh tế, giáo dục, tài chánh, nghiên cứu khoa học, và các ngành khác thuộc quốc doanh, đặc biệt là nhân lực thời Việt Nam Cộng Hòa còn lại, tuy không nhiều. (2) Khối cơ sở thuộc chánh phủ và quốc doanh, ngoại trừ cơ sở mà trước kia là sở hữu tư nhân và sở hữu của các tôn giáo. (3) Khối tài chánh, có thể trong ngân khố quốc gia chẳng còn bao nhiêu, thậm chí là trống trơn. Tuy nhiên, tài chánh do các công ty quốc doanh ký thác vào ngân hàng tư tại Việt Nam, có thể chuyển giao cho chánh phủ lâm thời một khối lượng nào đó. (4) Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, nhất là những vị dân cử gốc Việt Nam hoặc đang làm việc trong các cơ quan Hành Pháp, có khả năng vận động các cơ quan Lập Pháp và Hành Pháp các quốc gia sở tại, hỗ trợ chính trị cũng như viện trợ vất chất ổn định xã hội trong bước đầu, và sau đó.

2. NHIỆM VỤ

Năm nhiệm vụ chính: (1) Công bố Thông Điệp trước đồng bào và ngoại giao đoàn. Thiết lập ngoại giao với các quốc gia. (2) Ổn định an ninh và trật tự xã hội, nhất là tại các thành phố lớn. Bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, và ngư dân trên Biển Đông. (3) Từng bước tổ chức và hoàn chỉnh hệ thống hành chánh và các ngành khác, đặc biệt là ngành giáo dục. Thành lập Quân Đội, Cảnh Sát, và hệ thống trường huấn luyện. (4) Thay thế tiền đồng của chế độ sụp đổ. (5) Tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến khi tình hình an ninh thuận lợi. Hiến Pháp phải thông qua trưng cầu dân ý trước khi ban hành. Tổ chức bầu cử các cơ quan dân cử từ trung ương xuống địa phương, và bàn ghao trách nhiệm cho chánh phủ dân cử.

3. THỰC HIỆN

a. Quan niệm thực hiện.

Thực hiện nhiệm vụ được quan niệm như sau: (1) Thành lập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Ổn định an ninh và trật tự xã hội. (2) Thành lập Quân Đội và Cảnh Sát bằng cách tạm thời sử dụng các thành phần quân nhân viên chức của chế độ sụp đổ có mặt tại các nhiệm sở, cùng các cựu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ để tổ chức các đơn vị. Bảo vệ lãnh thổ, biên giới, và hải đảo. (3) Hoàn chỉnh hệ thống tổ chức và quản trị hành chánh. (4) In và đổi tiền. (5) Thành lập Ủy Ban nghiên cứu và tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến.

b. Thực hiện.

Giai đoạn 1:
Thành lập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia: Nhiệm vụ: Ổn định an ninh và trật tự xã hội. Nghiên cứu, soạn thảo và ban hành văn kiện về tổ chức, điều hành của Hội Đồng. Kiểm soát, phản ứng, và đệ trình chánh phủ những phương thức ứng xử thích hợp. Các bộ phận chính trong tổ chức Hội Đồng:

(1) Ủy Ban Hành Chánh. Nhiệm vụ: Tổ chức và điều hành hệ thống hành chánh. Tổ chức lực lượng Cảnh Sát, và ổn định an ninh và trật tự xã hội. Cung cách ứng xử giữa viên chức hành chánh trong các ngành sinh hoạt quốc gia với người dân, trên căn bản “Người dân với viên chức là mối tương quan cần thiết giữa nhu cầu với trách nhiệm, và tác động qua lại tạo nên sức phát triển chung của xã hội.

(2) Ủy Ban Kinh Tế Tài Chánh. Nhiệm vụ: Hệ thống kinh tế được chuyển đổi toàn tiện từ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sang kinh tế thị trường tự do. Trước mắt, cơ sở kinh tế quốc doanh chuyển nhượng cho tư doanh, ngoại trừ ngành khai thác sản xuất quốc phòng tạm thời giao cho Bộ Quốc Phòng điều hành. Những công ty liên doanh với ngoại quốc, tạm thời tiếp tục hợp tác trong khi chờ đợi chính sách cùa chánh phủ. Đổi tiền và chính sách giá cả.

(3) Ủy Ban Quốc Phòng. Nhiệm vụ: Tổ chức Quân Đội, vàảo vệ toàn vẹn biên giới, lãnh thổ lãnh hải hiện có. Ngăn chận mọi lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải, bằng cách theo dõi mọi diễn biến hoạt động quân sự của Trung Cộng dọc biên giới, trên Biển Đông, Vịnh Bắc Việt, các diễn biến dọc biên giới với Lào và Cam Bốt. Ngăn chận họ biến thành những căn cứ quân sự hoặc làng mạc của họ, bằng cách theo dõi và phản ứng kịp thời về mọi diễn biến của nhà thầu Trung Cộng tại các công trường, nhất là công trường khai thác bauxite, các công trường liên quan đến các đập nước, và các khu vực thuê mướn trồng rừng.

(4) Ủy Ban Văn Hoá Giáo Dục. Nhiệm vụ: Hệ thống giáo dục được thay đổi toàn diện từ tổ chức, điều hành, sách giáo khoa, phương thức giảng dạy, thi cử. Trước mắt, tái sử dụng sách giáo khoa của hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa, tạo điều kiện thuận lợi cho chương trình cải cách toàn diện sau đó. Phối hợp với Ủy Ban Kinh Tế Tài Chánh, để hoạch định chương trình giáo dục đào tạo chuyên viên chuyên gia thích ứng với nhu cầu phát triển kinh tế tài chánh.

(5) Ủy Ban Chính Trị Ngoại Giao. Nhiệm vụ: Đối nội, theo dõi hoạt động của các đảng/tổ chức chính trị, đệ trình phương thức ứng xử thích hợp. Đối ngoại, thiết lập bang giao với các quốc gia, và theo dõi hoạt động chính trị quốc tế liên quan đến Việt Nam, đệ trình phương thức ứng xử thích hợp.

(6) Ủy Ban Xã Hội. Nhiệm vụ: Trước mắt, ổn định nơi ăn chốn ở cho người không nhà tại các thành phố lớn. Đệ trình phương thức tìm nguồn trợ giúp từ trong nước, từ Cộng Đồng hải ngoại, và viện trợ từ ngoại quốc cho khả năng ổn định lâu dài. Nghiên cứu kế hoạch truy tìm tài sản của đồng bào đã bị chế độ cộng sản tịch thu bất cứ hình thức nào, và hoàn trả cho sở hữu chủ hợp pháp

Giai đoạn 2:

(1) Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống tổ chức và điều hành các ngành sinh hoạt quốc gia. Đặc biệt quan tâm đến sách giáo khoa và giảng dạy ở bậc đại học.

(2) Thành lập Ủy Ban Nghiên Cứu & Tổ Chức Bầu Cử Quốc Hội Lập Hiến. Nhiệm vụ: Nghiên cứu, dự thảo văn kiện và đệ trình chánh phủ. Tổ chức & điều hành bầu cử. Công bố danh sách đắc cử.

Giai đoạn 3.

(1) Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống tổ chức và điều hành các ngành sinh hoạt quốc gia.
(2) Ban hành Hiến Pháp.
(3) Thành lập Ủy Ban Bầu Cử. Nhiệm vụ: Điều hành bầu cử lãnh đạo quốc gia và các cơ cấu dân cử trung ương xuống đến địa phương.

c. Huấn lệnh chung

Các Bộ, cơ quan, đơn vị, căn cứ vào Kế Hoạch này và Phụ Đính liên quan: Nghiên cứu, soạn thảo, và ban hành những kế hoạch trong phạm vi trách nhiệm.
Các cơ quan đơn vị cần phải: Kiểm kê tài sản quốc gia, tài sản các công ty liên doanh, gồm: Nhân viên, cơ sở, các loại văn kiện, máy móc trang bị, tài chánh, các loại xe thông dụng chở người, các loại phương tiện chuyên chở đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không, ..v..v…
Các cơ sở và các loại phương tiện nguồn gốc do chế độ độc tài tịch thu của tư nhân cũng như của tổ chức, không được sử dụng, hoặc được phép của chánh phủ tạm thời sử dụng trong khi chờ đợi chính sách trả lại sở hữu chủ.

4. HÀNH CHÁNH & QUẢN TRỊ

a. Hành chánh.
Trong khi chờ có chính sách hành chánh, tạm thời sử dụng tham mưu hành chánh và tham mưu quân sự thời Việt Nam Cộng Hòa trong điều hành tại tất cả cơ quan đơn vị, kể cả hệ thống ngoại giao.

b. Quản trị.
Tất cả hồ sơ các loại của các ngành và các cơ quan đơn vị của chế độ độc tài, phải được gìn giữ riêng để khai thác cần thiết cho kế hoạch chuyển đổi sang xã hội dân chủ tự do, và chọn lọc lưu giữ trong viện bảo tàng.
Tất cả hồ sơ các loại của các ngành và các cơ quan đơn vị của chế độ mới, phải được gìn giữ riêng trong điều hành.

5. LÃNH ĐẠO & LIÊN LẠC

a. Liên lạc.
Trong giai đoạn chuyển đổi xã hội độc tài sang dân chủ tự do, các cơ quan đơn vị thường xuyên trao đổi tin tức tốt lẫn xấu để kịp thời có phản ứng, hoặc đề nghị phương thức ứng xử thích hợp góp phần ổn định an ninh và trật tự xã hội.
Sử dụng mọi phương tiện liên lạc: Hội luận hội thảo, điện thoại điện thư, internet, văn kiện mang tay, văn kiện gởi qua đường bưu điện.

b. Lãnh đạo.
Chánh phủ là cơ quan lãnh đạo lâm thời trong giai đoạn chuyển tiếp từ chế độ cộng sản độc tài sang chế độ dân chủ tự do, sẽ chấm dứt khi vị lãnh đạo quốc gia, các cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp, và Tư Pháp, chánh thức lãnh đạo quản trị quốc gia.
Houston, ngày 22/11/2010
Duyệt lại ngày 8/10/2012


Phạm Bá Hoa

Phụ đính 1. Kế hoạch khung (KHK) gợi ý tổ chức Quân Đội.
Phụ đính 2. KHK gợi ý tổ chức Hành Chánh.
Phụ đính 3. KHK gợi ý tổ chức Cảnh Sát.
Phụ đính 4. KHK gợi ý tổ chức Giáo Dục.
Phụ đính 5. KHK gợi ý tổ chức hoàn trả tài sản cho đồng bào.
(sẽ phổ biến trong “Phác thảo SLQG 2”)



No comments:

Post a Comment

View My Stats