Friday,
October 05, 2012 7:14:14 PM
Mấy ngày nay, tôi cứ nghĩ đến anh Nguyễn Chí Thiện. Cứ quên đi
một lúc lại nhớ; lại nghĩ: Anh Nguyễn Chí Thiện đã đi rồi. Sáng nay, khi nghĩ
về anh, tôi chợt nhớ một câu thơ cổ, “Il est mort, le vieux orgeuil chêne de la
forêt.”
Ðã
chết rồi, cây sồi già kiêu hãnh trong rừng sâu. Tôi không còn nhớ thi sĩ nào là
tác giả vì chả bao giờ được học văn chương Pháp. Câu thơ này tôi nghe từ hồi
học lớp đệ tứ, đệ tam, khi một thầy giáo Pháp văn lấy làm thí dụ cho một bài
dạy văn phạm. Hoặc có thể do một thầy giáo dạy Việt Văn cho thí dụ khi dạy về
cách viết văn cho hay. Anh Nguyễn Chí Thiện có lẽ lại biết, vì anh đã học nhiều
tiếng Pháp hơn tôi. Nhưng anh đã mất rồi. Nếu thời nhỏ học trường Pháp chắc
nhiều bạn phải biết thi sĩ nào là tác giả câu thơ này.
Nguyễn
Chí Thiện đã qua đời. Anh đúng là hình ảnh cây sồi già kiêu hãnh trong rừng
thẳm. Nhưng nghĩ lại, không nên ví
Nguyễn Chí Thiện với một cây sồi, một loại cây miền ôn đới. Một thi sĩ Việt Nam
có thể ví anh như cây hoa gạo mọc trên đồi. “Tháng Tư hoa gạo đỏ - Mở cánh ngập
đồi xa - Máu hồng tung tóe vỡ - Chân mây thở sáng lòa.” Nhưng chắc Nguyễn Chí
Thiện không thích hình ảnh cây hoa rực đỏ, của một thi sĩ mà anh khinh. Anh là
một người giản dị, mộc mạc, không phô trương hào nhoáng như cây hoa gạo. Cây
hoa gạo cũng không thuộc loại gỗ tốt. Chắc ví anh như một cây đa thì
thích hợp hơn. Cây đa vững chãi, bền bỉ, chung thủy, bám lấy mặt đất. Ðó là
Nguyễn Chí Thiện. Ðã chết rồi, cây đa cổ thụ ở đầu làng tôi!
Chúng
tôi chưa thân đến độ nói chuyện với nhau về sự sống và cái chết. Không bao giờ
hỏi nhau đến cuộc sống riêng tư. Chưa bao giờ ngồi nhậu chung, hoặc la cà ở
quán cà phê. Mỗi năm chắc chỉ đi ăn trưa với nhau ba bốn lần, không Song Long
thì cũng Nguyễn Huệ. Mà đi ăn với anh thì buồn lắm; anh chỉ nhấp qua vài miếng
rồi ngưng, coi việc ăn uống là một điều bất đắc dĩ. Tôi chả bao giờ hỏi chuyện
về thơ của anh, mà anh cũng vậy. Chỉ có mấy lần nói đến tập hồi ký “Hỏa Lò” mà
tôi thấy rất hay. Và anh thì góp ý kiến về những bài bình luận tôi viết. Tôi
không thể kể mình là một người bạn thân của anh. Chỉ có một mối giao tình đạm
bạc theo lối người xưa: “Kính yêu từ trước đến sau - Trong khi gặp gỡ biết đâu
duyên giời.” Gặp gỡ nhau, thường chỉ nói đến những mối ưu tư cùng chia sẻ: Nước
Việt Nam, người Việt Nam, tương lai Việt Nam. Ðó là những chuyện chung, của bao
nhiêu người, không chỉ riêng chúng tôi. Anh luôn luôn có ý kiến, rất rõ ràng,
rất quả quyết, nhưng không cố chấp. Lòng anh cũng thanh thản, không bày tỏ một
nỗi thù hận, chua cay nào.
Lần
chót anh với tôi nói chuyện lâu là vì anh đọc bài của tôi in trên Ðặc San Bắc
Ninh, cách đây ba tháng. Vì bài viết về quá trình Hán hóa miền Nam Trung Quốc
đụng tới mối quan tâm chung: Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc hiện nay. Chúng tôi
đã nhiều lần bàn bạc, cùng bày tỏ niềm vui khi nói đến những đàn anh như anh Tô
Hải, những người cùng tuổi như Nguyễn Huệ Chi, hoặc các bạn trẻ hơn như Ðiếu
Cầy, Tạ Phong Tần. Và chúng tôi cùng thấy những người quá lo lắng nghĩ rằng
Việt Nam sẽ mất vào tay Trung Quốc là sai; không có gì phải lo cả. Cứ nhìn lại
lịch sử nước Việt Nam thì biết. Anh góp ý kiến với tôi về cuốn sách tôi đang
viết: Vì sao sau một ngàn năm Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam vẫn còn, nước Việt
Nam không mất. Anh cũng đồng ý, đó là một phép lạ lịch sử. Nhưng anh đề nghị cứ
gọi đó là phép lạ Việt Nam, không cần nói “lịch sử” nghe nó to, nó lớn quá. Anh
vốn là người khiêm tốn; nhưng đồng ý đó là một phép lạ.
Trong
Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim viết: “Hết thời Bắc thuộc rồi thì người Giao
Châu ta có một cái nghị lực riêng và cái tính chất riêng để độc lập, chứ không
chịu lẫn với người Tàu.” Dân tộc ta vẫn còn vì “cái nghị lực riêng và cái tính
chất riêng.” Nhưng nó là những cái gì? Anh Nguyễn Chí Thiện đồng ý là người
miền Lưỡng Quảng, Phúc Kiến, thực ra giống người mình, khác với người Hoa Bắc.
Tần Thủy Hoàng là người đầu tiên sai nửa triệu quân xuống xâm chiếm vùng Hoa
Nam và bắt đầu việc đồng hóa. Các triều Hán, triều Ðường tiếp tục, kéo dài
2,000 năm. Tất cả những người “anh em họ xa” của chúng ta nay biến thành người
Trung Hoa hết. Tại sao dân Việt Nam không mất gốc, không mất nước? Lê Thành
Khôi, Lê Mạnh Hùng đều nhắc đến một yếu tố là người mình còn giữ được tiếng
nói. Keith Taylor giải thích thêm với yếu tố tôn giáo. Nhưng tiếng nói và tín
ngưỡng ảnh hưởng đến sức đề kháng của dân tộc Việt Nam như thế nào? Nguyễn Chí
Thiện cũng nghĩ là mình nên tìm hiểu thêm những lý giải cho “cái nghị lực riêng
và cái tính chất riêng” như cụ Lệ Thần đã viết. Anh còn khuyên tôi nên viết
thêm về trường hợp những nước như Nam Hàn, Miến Ðiện, Nhật, họ cũng vẫn giữ
được độc lập như dân mình. Tôi đã làm theo ý kiến đó.
Rất tiếc, anh Nguyễn Chí Thiện đã qua
đời. Nếu anh còn sống, hôm nay tôi sẽ nói với anh một cách thành thật, rằng nước Việt Nam còn được đến bây giờ là vì tổ
tiên chúng ta từ 2,000 năm trước đã có những người cứng đầu như anh. Có những người
bướng bỉnh, nhất định làm người Việt, không chịu làm người Hán. Trong hàng
ngàn, hàng vạn người mới có một người “ngoan cường, bất khuất” như thế. Nhưng
hào kiệt đời nào cũng có. Cho nên, dân tộc Việt Nam vẫn còn đến bây giờ. Và sẽ
không bao giờ mất.
Trong
đời sống bình thường, không ai muốn đóng vai anh hùng. Sống giữa những cái sai,
cái ác, người ta vẫn lẳng lặng làm thinh. Vì người ta biết sau cùng những thứ
gian tà, độc ác sẽ chấm dứt, sẽ bị lịch sử tiêu diệt. Hoặc vì người ta nhát,
không muốn “đa sự.” Nhiều khi những người cương cường bất khuất còn làm cho
người chung quanh sợ hãi, rồi vì thế, bực mình.
Như
hồi hai mươi tuổi Nguyễn Chí Thiện thấy học sinh được dạy rằng Nhật Bản đầu
hàng sau khi bị Hồng quân Liên xô tấn công. Tất cả các thầy giáo, cô giáo cứ
phải dạy trẻ em như vậy. Họ biết là sai nhưng cứ phải bịt mũi lại mà dạy như
thế. Chỉ có Nguyễn Chí Thiện không chịu. Anh nói lại rằng Nhật đầu hàng vì bị
Mỹ thả bom nguyên tử. Nga Xô vẫn còn giữ hiệp ước bất tương xâm với Nhật suốt
thời chiến tranh, chỉ sau khi bom nguyên tử nổ rồi Stalin mới tuyên chiến với
Nhật.
Có
ai bắt anh phải cải chính cho lịch sử hay không? Nhưng Nguyễn Chí Thiện là
người như vậy. Cái gánh ở giữa đàng, anh cứ đem quàng vào cổ mình. Anh bị bắt
vào tù, nhưng sự thật vẫn là sự thật, anh giữ ý kiến, vì đó là sự thật. Hàng
vạn người cứ dạy và nghe người ta dạy những chuyện sai lầm, gian dối cho trẻ
em, ai cũng giả dại qua ải. Còn Nguyễn Chí Thiện thì không. Một chế độ chủ
trương gian trá thì cũng sẵn sàng làm tất cả những tội ác, giết người khác.
Nguyễn Chí Thiện cũng không nhịn được, phải gọi tên Cái Ác. Ở cả miền Bắc Việt
Nam có hàng vạn người như anh. Anh là người chịu nhiều cực hình hơn cả.
Trong
chúng ta lúc nào cũng có những người cứng đầu, không sợ hãi, không chịu khuất
phục. Hồi 1968 tôi đã chứng kiến một cảnh không quên được. Chúng tôi theo lệnh
động viên, vào trại Quang Trung để huấn luyện quân sự. Gần 1,000 nhà giáo, từ
tiểu học đến đại học, lần đầu tiên mặc quần áo lính. Vào lính được mấy hôm, ai
cũng biết thế nào là “kỷ luật nhà binh,” thi hành trước, hỏi lại sau. Phải tuân
lệnh, phải chào kính từ ông thượng sĩ thường vụ, ông trung úy đại đội trưởng.
Sau vài ngày tập đi đúng nhịp, tập vác súng, hạ súng, xếp súng, tập chạy, tập
chà láng nền nhà và cầu tiêu, một buổi tối tập họp, tất cả ngồi xuống đất trong
sân tiểu đoàn. Chúng tôi được gặp vị tiểu đoàn trưởng. Trước đó, mọi người chỉ
được thấy ông đứng trước cửa văn phòng, đeo kính đen, tay chắp sau lưng, nhìn
đám tân binh từ bãi tập trở về, coi đám lính mới chạy ba vòng hay năm vòng,
trước khi được tan hàng, chạy vội vào ăn cơm nhà bàn.
Tối
hôm đó, ông thiếu tá, tôi quên tên, giảng giải về quân phong, quân kỷ, đạo đức,
nghĩa vụ, vân vân. Sau gần hai tiếng đồng hồ ngồi im nghe, ai cũng mệt. Cuối
cùng, ông thiếu tá cho biết tiểu đoàn Trần Quốc Toản dự định xây một cái tượng
đài vị anh hùng áo vải trẻ tuổi. Và ông đề nghị các khóa sinh, ai sẵn lòng thì
góp mỗi người năm đồng, thêm vào quỹ xây tượng đài. Ông thiếu tá nhấn mạnh
nhiều lần: Việc đóng góp hoàn toàn tự nguyện, không bắt buộc. Tiếp theo, ông
lại giảng tiếp về quân phong, quân kỷ thêm mươi phút; sau cùng, hỏi có ai thắc
mắc gì không. Tất cả thở phào sửa soạn đứng dậy, mấy người nói lớn: “Không!”
Bỗng
nhiên có một anh giáo sư đưa tay lên: “Tôi có ý kiến!” Tất cả nhìn anh ta kinh
ngạc. Sau khi ông tiểu đoàn trưởng mời nói, anh tân binh hỏi: “Thiếu tá nói
việc đóng góp năm đồng hoàn toàn tự nguyện, có phải không ạ?” “Ðúng, hoàn toàn tự
nguyện.” “Thưa thiếu tá, nếu vậy thì tôi xin nói ngay, tôi sẽ không đóng.” Cả
tám trăm người ngạc nhiên, nhìn nhau. Nhiều câu hỏi thì thầm: “Thằng nào vậy?
Năm đồng! Chỉ đáng tô phở; làm gì nó phải nói chứ!” “Sao có thằng ngu thế nhỉ?
Ngày mai nó cho cả bọn chạy 10 vòng sân tiểu đoàn, chứ không phải ba vòng đâu!”
Lúc
đó tôi nhớ, đã ghé tai anh bạn ngồi bên nói nhỏ: Nước Việt Nam bây giờ mình vẫn
còn là vì có những thằng như nó đấy. Nếu ai cũng lẳng lặng, người ta bảo sao
nghe vậy, thì mình đã thành người Tàu từ lâu rồi!
Phải
kể cho đủ công bình: Mấy tháng sau chúng tôi không phải chạy nhiều vòng hơn;
cũng không phải vác súng nặng hay hít đất nhiều hơn. Số tiền đóng tổng cộng
khoảng 4,000 đồng cũng chừng một tháng lương giáo viên, chẳng lớn gì. Anh giáo sư
đó là Nguyễn Lan, người Thanh Hóa. Và anh Lan vẫn được đối xử bình thường, sau
ba tháng vẫn tốt nghiệp, trở về Biên Hòa dạy học.
Nghĩ
đến Nguyễn Chí Thiện lại nhớ đến Nguyễn Lan. Nước Việt Nam vẫn còn đến bây giờ
vì đã có sẵn trong dòng máu những tế bào sinh sản ra người với tính tình như
họ. Tổ tiên chúng ta đời xưa chắc chắn phải có nhiều người như vậy. Bây giờ vẫn
còn những Ðiếu Cầy, Tạ Phong Tần, Mẹ Nấm, Nguyễn Xuân Diện, vân vân. Dân Việt
Nam có “cái nghị lực riêng và cái tính chất riêng” như Trần Trọng Kim nói.
Nhưng có những người mang nặng cái nghị lực và cái tính chất riêng đó nhiều hơn
người khác. Nguyễn Chí Thiện đã mang trong dòng máu của anh rất nhiều cái nghị
lực đặc biệt đó. Có hàng vạn người cũng như anh, nhưng họ không phản ứng theo
lối của anh. Tôi nghe kể có một sĩ quan bộ đội, đi đánh Ðiện Biên Phủ trở về
thì ông bố bị tố khổ. Anh đã về làng, tỏ ý ủng hộ bọn chúng nó; anh ra tố cáo
tội bố trước “tòa án nhân dân.” Ngày kết án, anh tình nguyện sẽ bắn bố mình.
Anh cầm súng, đến bên bố nói nhỏ mấy câu, bắn chết bố, rồi quay lại bắn chết
luôn bọn côn đồ, trước khi tự bắn mình. Ðây là một hành động can đảm, đáng
kính. Nhưng chỉ là phản ứng trong phạm vi cá nhân. Nước Việt Nam cần những
người tố cáo cái ác, cái xấu làm hại cho cả dân tộc. Như Nguyễn Chí Thiện, bền
bỉ suốt nửa thế kỷ. Tổ tiên chúng ta chắc có rất nhiều người như anh, cho nên
chúng ta không mất nước. Con cháu chúng ta chắc chắn cũng như vậy. Như anh
Nguyễn Chí Thiện, chúng ta có thể tin. Nước Việt Nam không bao giờ thành một tỉnh
hay một quận của Trung Quốc!
No comments:
Post a Comment