05/10/2012 by vnhrc.
Hoạt động của Liên Hiệp Quốc vì quyền lợi của những người bảo vệ nhân quyền
đã phát triển từ nhận thức những điều sau đây:
- Thực hiện các tiêu chuẩn nhân quyền
quốc tế ở các quốc gia tùy thuộc rất lớn vào sự đóng góp của các cá nhân và các
nhóm (làm việc bên trong cũng như bên ngoài Nhà nước), và hỗ trợ cho người bảo
vệ nhân quyền là yếu tố cơ bản để đạt được sự tôn trọng các quyền con người;
- Trong trường hợp chính phủ, luật pháp
quốc gia, cảnh sát, tư pháp và Nhà nước như một tổng thể không cung cấp bảo vệ đầy
đủ chống lại sự vi phạm nhân quyền, thì người bảo vệ nhân quyền trở thành phòng
tuyến cuối cùng;
- Người bảo vệ nhân quyền thường là mục
tiêu của hành vi vi phạm quyền con người chính xác bởi vì công việc về quyền
con người của họ và bản thân họ cần được bảo vệ.Công nhận vai trò sinh tử của
những người bảo vệ nhân quyền và các hành vi vi phạm mà nhiều người trong số họ
phải đối mặt đã thuyết phục Liên Hiệp Quốc rằng những nỗ lực đặc biệt là cần
thiết để bảo vệ cả người bảo vệ nhân quyền và các hoạt động của họ.
Bước quan trọng
đầu tiên là chính thức định nghĩa “sự bảo vệ” các quyền con người tự nó là một
quyền và xác nhận những đảm trách công việc về quyền con người là “người bảo vệ
nhân quyền”. Ngày 09 tháng 12 Năm 1998, theo Nghị quyết 53/144, Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua Tuyên bố về Quyền và Nghĩa vụ của cá nhân,
nhóm và các tổ chức xã hội trong việc thúc đẩy và Bảo vệ nhân quyền và các
quyền tự do căn bản đã đươc thừa nhận trên toàn cầu (thường được gọi là “Tuyên ngôn về Người
bảo vệ nhân quyền”). Bước thứ hai được tiến hành vào tháng 4 năm
2000, khi Hội đồng nhân quyền Liên Hiệp Quốc yêu cầu Tổng thư ký bổ nhiệm một
đặc sứ về Người bảo vệ nhân quyền để giám sát và hỗ trợ việc thực hiện Tuyên
ngôn này.
A. Tuyên ngôn về Người bảo vệ nhân quyền
Xây dựng Tuyên ngôn về Người bảo vệ nhân quyền đã bắt đầu
vào năm 1984 và kết thúc với việc thông qua bởi Đại hội đồng vào năm 1998, nhân
dịp kỷ niệm thứ năm mươi Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Một nỗ lực tập
thể của một số tổ chức phi chính phủ về nhân quyền và một số đoàn đại biểu các
nước thành viên đã giúp để đảm bảo rằng kết quả cuối cùng là một văn bản mạnh
mẽ, rất hữu ích và mang tính thực tiễn. Có lẽ quan trọng nhất, Tuyên ngôn đề
cập không chỉ cho các quốc gia và người bảo vệ nhân quyền, mà còn cho tất cả
mọi người. Nó cho chúng ta biết rằng tất cả chúng ta đều có một vai trò thực
hiện như là những người bảo vệ nhân quyền và nhấn mạnh rằng có một sự vận động
nhân quyền trên thế giới liên quan đến tất cả chúng ta.
1. Đặc tính pháp lý
Tuyên ngôn này không phải là một thiết chế có tính ràng
buộc pháp lý. Tuy nhiên, nó có chứa một loạt các nguyên tắc và quyền được dựa
trên các tiêu chuẩn nhân quyền đã được ghi trong các văn kiện quốc tế khác có
ràng buộc pháp lý như Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị.
Hơn nữa, Tuyên bố được thông qua bởi sự đồng thuận của Đại hội đồng LHQ và do
đó nó đại diện cho một cam kết rất mạnh mẽ của các quốc gia thực hiện nó. Các
quốc gia đang ngày càng xem xét thông qua Tuyên ngôn này như một ràng buộc luật
pháp.
2. Các quy định của Tuyên ngôn
Tuyên ngôn cung cấp sự hỗ trợ và bảo vệ những người bảo
vệ nhân quyền trong bối cảnh công việc của họ. Nó không tạo ra quyền mới, thay
vào đó nó nói rõ các quyền hiện có và làm cho nó áp dụng dễ dàng hơn trong vai
trò và tình hình thực tế của những người bảo vệ nhân quyền. Thí dụ, nó lưu ý
cách tiếp cận nguồn tài trợ của các tổ chức bảo vệ nhân quyền và việc thu thập
và trao đổi thông tin về các tiêu chuẩn nhân quyền và vi phạm. Tuyên ngôn này
vạch ra một số nhiệm vụ cụ thể cho các quốc gia và trách nhiệm của tất cả mọi
người đối với việc bảo vệ nhân quyền, thêm vào đó là việc giải thích mối quan
hệ của nó với luật pháp quốc gia. Hầu hết các quy định của Tuyên ngôn được tóm
tắt trong đoạn văn sau đây. Điều quan trọng phải nhắc lại rằng những người bảo
vệ nhân quyền có nghĩa vụ theo Tuyên ngôn này cần phải tiến hành các hoạt động
một cách ôn hòa.
(a) Quyền và bảo vệ dành cho những người bảo vệ nhân
quyền
Điều 5, 6, 7, 8, 9, 11, 12 và 13 của Tuyên ngôn cung cấp
bảo vệ cụ thể cho người bảo vệ nhân quyền, bao gồm quyền:
- Tìm kiếm sự bảo vệ và thực hiện nhân quyền ở cấp quốc gia và quốc tế;
- Thực hiện các quyền con người với cá nhân và kết hợp với những người khác;
- Hình thành các hội đoàn và các tổ chức phi chính phủ;
- Gặp gỡ hoặc tụ họp một cách ôn hòa;
- Tìm kiếm, thu thập, tiếp nhận và giữ thông tin liên quan đến quyền con người;
- Phát triển và thảo luận về ý tưởng quyền con người mới và nguyên tắc và vận
động để được chấp nhận;
- Trình cơ quan chính phủ và các cơ quan, tổ chức có liên quan các kiến nghị
với những lời chỉ trích vấn đề công cộng và các đề xuất để cải thiện chức năng
của họ và để thu hút sự chú ý đến bất kỳ khía cạnh của công việc của họ mà có
thể cản trở việc thực hiện quyền con người;
- Khiếu nại về chính sách của chính phủ và các hành vi liên quan đến quyền
con người và làm cho khiếu nại được xem xét;
- Biếu tặng và cung cấp đủ tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ trợ giúp pháp lý
hoặc tư vấn khác và hỗ trợ trong việc bảo vệ các quyền con người;
- Tham dự điều trần công khai, thủ tục tố tụng và phiên xử để đánh giá tính
phù hợp của pháp luật quốc gia và nghĩa vụ nhân quyền quốc tế;
- Không bị ngăn cản tiếp xúc và thông tin liên lạc với các tổ chức phi chính
phủ và liên chính phủ;
- Hưởng lợi từ một biện pháp khắc phục có hiệu quả;
- Thực thi hợp pháp nghề nghiệp hoặc chuyên môn của người bảo vệ nhân quyền;
- Được bảo vệ hiệu quả theo quy định của pháp luật quốc gia trong việc phản ứng
chống lại hoặc phản đối, thông qua các biện pháp ôn hòa, hành vi hoặc thiếu sót
mà Nhà nước đã gây ra trong việc vi phạm các quyền con người;
- Thu hút, tiếp nhận và sử dụng các nguồn lực cho các mục đích bảo vệ quyền
con người (bao gồm cả việc nhận tài chánh từ nước ngoài).
(b) Nhiệm vụ của các quốc gia
Các nước đều có trách nhiệm để thực hiện và tôn trọng tất
cả các quy định của Tuyên ngôn. Tuy nhiên, các điều 2 , 9, 12, 14 và 15 đề cập
đặc biệt đến vai trò của các quốc gia và chỉ ra rằng mỗi quốc gia có trách
nhiệm và nghĩa vụ:
- Bảo vệ, thúc đẩy và thực hiện tất cả các quyền con người;
- Đảm bảo rằng tất cả những người thuộc thẩm quyền của mình có thể tận hưởng
tất cả các quyền xã hội, kinh tế, chính trị và các quyền tự do khác trong thực
tế;
- Lựa chọn lập pháp, hành chính và các hình thúc cần thiết khác để đảm bảo
thực hiện có hiệu quả các quyền và tự do;
- Cung cấp giải pháp khắc phục hiệu quả cho người yêu cầu bồi thường là nạn
nhân của một hành vi vi phạm quyền con người;
- Tiến hành điều tra nhanh chóng và khách quan về các cáo buộc vi phạm nhân
quyền;
- Thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết để bảo đảm bảo vệ tất cả mọi người
chống lại bất kỳ bạo lực, các mối đe dọa, trả thù, phân biệt đối xử bất lợi, áp
lực hoặc bất kỳ hành động nào khác tùy ý như là hệ quả của việc thi hành hợp
pháp các quyền được nêu trong Tuyên ngôn này;
- Để thúc đẩy sự hiểu biết của công chúng về quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa;
- Đảm bảo và hỗ trợ việc tạo ra và phát triển các tổ chức độc lập trong nước
để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, chẳng hạn như thanh tra hoặc hội đồng nhân
quyền;
- Thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy các quyền con người
ở tất cả các cấp giáo dục chính quy và đào tạo chuyên nghiệp.
(c) Trách nhiệm của tất cả mọi người
Tuyên ngôn nhấn mạnh rằng mọi người đều có nhiệm vụ hướng
tới và vào trong cộng đồng và khuyến khích tất cả chúng ta lựa chọn làm người
bảo vệ nhân quyền.
Điều 10, 11 và 18 phác thảo trách nhiệm cho tất cả mọi
người để thúc đẩy quyền con người, để bảo vệ nền dân chủ và các định chế của nó
và không vi phạm các quyền của những người khác. Điều 11 đặc biệt đề cập đến
trách nhiệm của người thực hiện nghề nghiệp chuyên môn mà có thể ảnh hưởng đến
các quyền của những người khác, và đặc biệt thích hợp cho các nhân viên cảnh
sát, luật sư, thẩm phán,
(d) Vai trò của luật pháp quốc gia
Điều 3 và 4 phát họa mối quan hệ của Tuyên ngôn này với
luật pháp quốc gia và quốc tế nhằm đảm bảo việc áp dụng các tiêu chuẩn cao nhất
có thể của pháp luật về quyền con người.
B. Đặc sứ của Tổng thư ký về người bảo vệ
nhân quyền
Trong nghị quyết số 2000/61 ngày 26/4/ 2000, Hội đồng
Nhân quyền LHQ đã yêu cầu Tổng thư ký bổ nhiệm một đặc sứ chuyên trách về người
bảo vệ nhân quyền. Ý định của Hội đồng là để cung cấp sự hỗ trợ thực hiện Tuyên
ngôn và thu thập thông tin về tình hình của những người bảo vệ nhân quyền trên
khắp thế giới. Trong tháng 8 năm 2000, bà Hina Jilani được bổ nhiệm bởi Tổng
thư ký làm vị Đặc sứ đầu tiên.
1. Nhiệm vụ chính
thức của Đặc sứ
Đặc sứ cam kết hoạt động độc lập hoàn toàn khỏi bất kỳ
quốc gia nào, không phải là nhân viên Liên Hiệp Quốc và không nhận tiền lương.
Nhiệm vụ của Đặc sứ, như quy định tại khoản 3 của Nghị quyết Hội đồng Nhân
quyền 2000/61, là để tiến hành các hoạt động chính sau đây:
(a) Để tìm kiếm, tiếp nhận, kiểm tra và phản hồi thông
tin về tình hình và các quyền của bất cứ ai, hành động riêng lẻ hoặc kết hợp
với những người khác, để thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ
bản;
(b) Thiết lập quan hệ hợp tác và tiến hành đối thoại với
Chính phủ và các tác nhân có quyền lợi khác trong việc xúc tiến và thực hiện
hiệu quả Tuyên ngôn;
(c) Kiến nghị các chiến lược hiệu quả, tốt hơn để bảo vệ
người bảo vệ nhân quyền và theo dõi các khuyến nghị đó;
Hội đồng Nhân quyền kêu gọi tất cả các chính phủ hợp tác
và hỗ trợ Đặc sứ và để cung cấp tất cả các thông tin được yêu cầu. Đặc sứ được
yêu cầu nộp báo cáo hàng năm cho Hội đồng nhân quyền và Đại hội đồng LHQ.
2. Các hoạt động
thiết thực của Đặc sứ
Nhiệm vụ chính thức của Đặc sứ rất rộng, đòi hỏi xác định
các chiến lược, các ưu tiên và các hoạt động để thực hiện nó. “Bảo vệ” người
bảo vệ nhân quyền là mối quan tâm quan trọng nhất của Đặc sứ. Bảo vệ được hiểu
là bao gồm sự bảo vệ cho bản thân người bảo vệ nhân quyền và bảo vệ quyền bảo
vệ nhân quyền của họ.
Đặc sứ tìm mọi cách để đảm bảo rằng các tiêu chuẩn được
áp dụng như nhau ở từng nước, phù hợp với nét chung toàn cầu. Một số hình thức
hoạt động rộng được thực hiện, mặc dù thường có một số chồng chéo giữa họ, với
một số hoạt động phục vụ một số mục tiêu khác nhau.
(a) Liên hệ với người bảo vệ nhân quyền
Trên hết, Đặc sứ cố gắng để có thể tiếp cận người bảo vệ
nhân quyền, nhằm:
- Sẵn sàng nhận thông tin từ người bảo vệ nhân quyền, bao gồm cả những cáo
buộc về vi phạm nhân quyền đối với họ (xem “mục (d) trường hợp cá nhân” bên
dưới), và sử dụng thông tin này trong việc xác định các mối quan tâm sẽ nêu ra
với các quốc gia;
- Đều đặn tham dự các sự kiện nhân quyền quốc gia, khu vực và quốc tế (bao gồm
cả phiên họp hàng năm của Hội đồng nhân quyền), trong đó cung cấp cơ hội tiếp
xúc với người bảo vệ nhân quyền từ khắp nơi trên thế giới.
(b) Liên hệ với các quốc gia
Đặc sứ duy trì liên lạc thường xuyên với các quốc gia.
Các cuộc tiếp xúc nói chung được thực hiện thông qua các diễn đàn như các phiên
họp hàng năm của Hội đồng nhân quyền ở Geneva và Đại hội đồng ở New York, trong
đó Đặc sứ trình bày báo cáo hàng năm cho các quốc gia, trả lời câu hỏi của họ
và có thể gặp gỡ riêng các đoàn đại biểu quốc gia để thảo luận về các vấn đề
liên quan, bao gồm cả trường hợp cá nhân.
Liên lạc cụ thể hơn được tiến hành trên cơ sở song phương
trong các cuộc họp hoặc bằng văn bản và được sử dụng bởi Đặc sứ để nêu lên các
mối bận tâm cụ thể với riêng các quốc gia và tìm kiếm sự hỗ trợ của họ, ví dụ,
trong việc giải quyết một trường hợp hoặc để có lời mời viếng thăm quốc gia đó.
(c) Liên hệ với các tác nhân quan trọng khác
Trong năm, Đặc sứ gặp gỡ nhiều tác nhân khác có liên quan
đến nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động của mình, bao gồm cả quốc hội các nước,
các tổ chức liên chính phủ khu vực và các nhóm quốc gia có cam kết nâng cao vai
trò và tình hình của người bảo vệ nhân quyền.
(d) Cá nhân trường hợp
Đặc sứ nêu ra trường hợp vi phạm nhân quyền đối với những
người bảo vệ nhân quyền với các quốc gia liên quan. Thông tin về những trường
hợp này được nhận từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm cả các cơ quan Nhà nước,
các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan của Liên Hiệp Quốc, các phương tiện
truyền thông và cá nhân người bảo vệ nhân quyền.
Khi thông tin đến, trước hết Đặc sứ tìm xác định
xem vấn đề có nằm trong nhiệm vụ của mình hay không. Thứ hai, tìm mọi nỗ
lực để xác định tính hợp lệ có thể có trong những cáo buộc vi phạm nhân quyền
và độ tin cậy của các nguồn thông tin.Thứ ba, Đặc sứ liên hệ với Chính
phủ quốc gia nơi bị cho là đã xảy ra vi phạm. Liên hệ thường được tiến hành
thông qua hoặc là một “hành động khẩn cấp” hoặc một lá thư “cáo buộc” gửi Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao của quốc gia đó và đồng thời gửi đến cơ quan đại diện
ngoại giao của họ ở Liên Hiệp Quốc, Geneva. Bức thư cung cấp các chi tiết của
nạn nhân, các mối quan tâm về quuyền con người và các sự kiện bị cáo buộc. Mục
tiêu chính của bức thư này là để đảm bảo rằng chính quyền của quốc gia liên
quan đã được thông báo về các cáo buộc càng sớm càng tốt và rằng họ có một cơ
hội để điều tra và kết thúc hoặc ngăn chặn bất kỳ hành vi vi phạm quyền con
người.
- Lá thư “hành động khẩn cấp” (“Urgent action” letters) được sử dụng để cung
cấp thông tin về một hành vi vi phạm bị cáo buộc là đang diễn ra hoặc sắp xảy
ra. Mục đích là để đảm bảo rằng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan
được thông báo càng nhanh càng tốt về các trường hợp để họ có thể can thiệp
chấm dứt hay ngăn chặn một hành vi vi phạm. Ví dụ, một mối đe dọa giết chết được
báo cáo là đã nhằm vào một luật sư nhân quyền để phản ứng lại công việc nhân
quyền của họsẽ được giải quyết thông qua một lá thư hành động khẩn cấp.
- Lá thư “cáo buộc” (“Allegation” letters) được sử dụng để cung cấp thông
tin về hành vi vi phạm được cho là đã xảy ra và hậu quả của nó lên người bảo vệ
nhân quyền đã có và không thể thay đổi được nữa. Loại của lá thư này được sử
dụng như trong trường hợp thông tin đến Đặc sứ một thời gian lâu sau khi sự lạm
dụng quyền con người đã xảy ra và đã có kết luận. Ví dụ, một người bảo vệ quyền
con người đã bị giết chết, vấn đề này sẽ được nêu lên với quốc gia đó thông qua
một bức thư cáo buộc.
Trong cả hai loại thư trên, Đặc sứ yêu cầu Chính phủ có
liên quan thực hiện mọi hành động thích hợp để điều tra và giải quyết các sự
kiện bị cáo buộc và thông tin các kết quả điều tra và hành động của mình. Thư
cáo buộc tập trung chủ yếu vào yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều
tra các sự vụ và tiến hành khởi tố hình sự của những người chịu trách nhiệm.
Các bức thư gửi tới Chính phủ là bí mật cho đến cuối năm làm báo cáo, hàng năm
Đặc sứ nộp báo cáo kết quả làm việc với các Chính phủ về các trường hợp cụ thể
cho Hội đồng Nhân.
Đặc sứ liên tục tư vấn cho báo cáo viên đặc biệt của LHQ,
người có nhiệm vụ riêng được tham gia trong một trường hợp cụ thể và thường
xuyên gửi thư quan tâm chung với những người có nhiệm vụ.
(e) Quốc gia thăm viếng
Đặc sứ có nhiệm vụ tiến hành các chuyến thăm chính thức
tới các quốc gia. Một số quốc gia đã ban hành lời mời, và trong các trường hợp
khác, Đặc sứ viết gửi Chính phủ yêu cầu lời mời được gia hạn. Những chuyến thăm
này cung cấp một cơ hội để kiểm tra chi tiết vai trò và tình hình người bảo vệ
nhân quyền trong nước, để xác định các vấn đề cụ thể và đưa ra các khuyến nghị
để giải quyết ra sao. Bởi tính chất nhiệm vụ, Đặc sứ cần phải xem xét có phê
phán tình hình của những người bảo vệ nhân quyền trong một quốc gia. Tuy nhiên,
quá trình này nhằm cung cấp một đánh giá độc lập và vô tư mà sẽ được sử dụng
cho tất cả các tác nhân trong việc tăng cường sự đóng góp của người bảo vệ nhân
quyền trong lãnh vực nhân quyền và bảo vệ họ.
Thăm viếng quốc gia thường diễn ra trong khoảng thời gian
5 đến 10 ngày, trong thời gian đó, Đặc sứ gặp người đứng đầu tiểu bang và Chính
phủ, các bộ trưởng chính phủ có liên quan, các tổ chức nhân quyền độc lập, các
cơ quan của Liên Hiệp Quốc, các phương tiện truyền thông và đích than những
người bảo vệ nhân quyền, trong số những người khác .
Các vấn đề được nêu ra trong các chuyến thăm như vậy bao
gồm: vi phạm đối với những người bảo vệ nhân quyền, sức mạnh của “môi trường”
mà trong đó người bảo vệ thực hiện công tác nhân quyền của họ, bao gồm cả quyền
tự do lập hội và ngôn luận, quyền nhận tài trợ và hỗ trợ cho người bảo vệ
được thừa nhận bởi pháp luật trong nước; và những nỗ lực được thực hiện bởi các
cơ quan có thẩm quyền để bảo vệ người bảo vệ nhân quyền khỏi bị xâm phạm.
Vài tháng sau mỗi lần thăm viếng, Đặc sứ làm một báo cáo
về chuyến thăm nêu ra, trong số những thứ khác, về mối quan tâm chính và khuyến
nghị hành động. Báo cáo này thường sau đó được Đặc sứ chính thức trình bày tại
phiên họp tiếp theo của Hội đồng nhân quyền.
(f) Hội thảo và hội nghị
Hàng năm, Đặc sứ tham dự một số sự kiện bao gồm các hội
thảo và hội nghị tổ chức xung quanh chủ đề trung tâm về những người bảo vệ nhân
quyền, hoặc xung quanh các chủ đề rộng lớn hơn liên quan đến những người bảo
vệ, chẳng hạn như dân chủ hóa. Những sự kiện này có thể được tổ chức bởi các
quốc gia, Liên Hiệp Quốc, trường đại học, các tổ chức phi chính phủ hay các tác
nhân khác.
(g) Các chiến lược
Đặc sứ có thể xác định các chủ đề được coi là có ảnh
hưởng cơ bản lên vai trò và tình hình người bảo vệ nhân quyền trên khắp thế
giới và tìm cách hỗ trợ bảo vệ thông qua hành động đặc biệt trong các lĩnh vực
đó. Một số chủ đề như vậy như làquá trình dân chủ hóa, trách nhiệm của chính
quyền địa phương và tác động của pháp luật về an ninh quốc gia hoặc chống khủng
bố lên người bảo vệ nhân quyền. Một chiến lược phù hợp để hỗ trợ người bảo
vệ là sự thành lập và tăng cường mạng lưới bảo vệ cho họ ở khu vực.
(h) Báo cáo
Báo cáo hàng năm của Đặc sứ cho Hội đồng Nhân Quyền và
Đại hội đồng LHQ, như nhiệm vụ yêu cầu, cung cấp một hồ sơ về các hoạt động của
năm, mô tả các xu hướng chính và mối quan tâm được xác định trong năm, và đưa
ra các khuyến nghị cách giải quyết như thế nào. Một số báo cáo kiểm tra chủ đề
chính của mối quan tâm, ví dụ như các tác động của pháp luật an ninh quóc gia
lên người bảo vệ nhân quyền và công việc của họ. Các báo cáo này là các chỉ số
rất hữu ích trong những vấn đề mà người bảo vệ nhân quyền phải đối mặt ở các
nước và khu vực cụ thể, cũng như các chủ đề cụ thể của mối quan tâm toàn cầu.
Các khuyến nghị được nêu trong mỗi báo cáo cung cấp cơ sở hành động cho các
nước, các cơ quan của Liên Hiệp Quốc, tự thân những người bảo vệ nhân quyền,
khu vực tư nhân và một loạt các tác nhân khác. Các báo cáo của Đặc sứ có sẵn
trên trang web của Văn phòng Cao uỷ Liên Hợp Quốc về Nhân quyền (OHCHR)
(www.ohchr.org).
Mục tiêu của tất cả các loại hình hoạt động trên là để
đóng góp vào việc bảo vệ người bảo vệ nhân quyền và thực hiện Tuyên ngôn về
người bảo vệ nhân quyền.
3. Sắp xếp hậu cần
và nguồn lực – vai trò của OHCHR
Giống như các báo cáo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc,
Đặc sứ được tiếp cận các nguồn lực hạn chế. Chiến lược và các hoạt động cần
phải được điều chỉnh cho phù hợp.
Đặc sứ nhận được sự hỗ trợ đáng kể trong việc thực hiện
các nhiệm vụ từ Văn phòng Cao Ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là thông
qua “các viên chức văn phòng” có liên quan. Đây là những viên chức của Hội đồng
nhân quyền LHQ, có trụ sở tại Geneva, những người có trách nhiệm quản lý, theo
hướng dẫn của chủ sở hữu ủy quyền, hoạt động hằng ngày theo các nhiệm vụ chuyên
đề được thành lập bởi Hội đồng Nhân quyền. Ví dụ, các nhân viên văn phòng của
Hội đồng thường xuyên nhận thông tin về cáo buộc vi phạm chống lại những người
bảo vệ nhân quyền, họ phân tích và thông tin cho Đặc sứ. Họ hỗ trợ Đặc sứ trong
việc soạn thảo báo cáo và giúp đỡ trong việc chuẩn bị và tiến hành các chuyến
thăm quốc gia. Các liên lạc bên ngoài với Đặc sứ – từ các đại sứ quán, các tổ
chức phi chính phủ và nhân viên Liên Hiệp Quốc – thường được duy trì thông qua
các viên chức văn phòng này. Các dịch vụ hành chánh của OHCHR cung cấp hỗ trợ
trong việc tổ chức và tài trợ đi lại và các hoạt động khác.
Một khoản tiền nhỏ của các quỹ được cung cấp từ ngân sách
Liên Hiệp Quốc để Đặc sứ thực hiện hai chuyến thăm quốc gia chính thức mỗi năm,
tham dự các phiên họp của Hội đồng Nhân quyền và Đại hội đồng LHQ và tham gia
vào tham vấn tại Geneva. Thỉnh thoảng, các cơ quan của Liên hợp quốc và các tổ
chức phi chính phủ cung cấp các nguồn lực bổ sung để hỗ trợ việc tổ chức các
hội thảo, các ấn phẩm của báo cáo nghiên cứu và các hoạt động chung khác theo
nhiệm vụ yêu cầu.
-------------------
No comments:
Post a Comment