Eric J. HOBSBAWM
(1932-2012)
Cập nhật lần cuối 04/10/2012
Một chương quan trọng trong bộ sử thế kỉ XX "THỜI
ĐẠI CỦA NHỮNG THÁI CỰC" của Eric J. Hobsbawm (vừa từ trần ngày 1.10.2012),
qua bản dịch của Nguyễn Ngọc Giao
Một chương sách của Eric J.
Hobsbawm
CÁCH MẠNG THẾ GIỚI
«Đồng thời[Boukharin] nói thêm :“ Tôi
cho rằng chúng ta đã bước vào thời kì cách mạng, nó có thểkéo dài năm mươi năm
cho đến khi cách mạng toàn thắngở khắp Châu Âu và cuối cùng trên toàn thế giới”
».
Arthur Ransome, Six Weeks in Russia in 1919
«Thật là kinh khủng khi đọc bài thơcủa Shelley (đó
là không nói tới những bài ca cách đây 3000 năm của nông dân Ai Cập) tố cáo sự
đàn áp và bóc lột. Trong tương lai, nếu còn đàn áp và bóc lột, đọc những bài
ấy, chắc người ta cũng vẫn còn nói :“ Hoá ra ngay từ thời ấy...” ».
Bertholt Brecht, Đọc bài thơ“ The Masque of
Anarchy ”
của Shelley năm 1938 (1964)
của Shelley năm 1938 (1964)
«Sau Cách mạng Pháp ở châu Âu lại nổ ra Cách mạng
Nga, và một lần nữa cả thế giới thấy rằng nếu vận mệnh của Tổ quốc thực sự được
trao tay người nghèo hèn, người vô sản, nhân dân laođộng thì bất cứ quân xâm
lược nào, dù hùng mạnh tới đâu, cũng sẽ bị quét sạch ».
Trích báo tường 19 Brigata Eusebio Giambonecủa du kích
Ý, 1944
(Pavone, 1991)
(Pavone, 1991)
Cách mạng là con đẻ của chiến tranh ở thế kỉ XX :đặc
biệt là Cách mạng Nga 1917 từ đó Liên Xô được thành lập và trong giai đoạn thứ
nhì của cuộc Chiến tranh 31 năm đã trở thành một siêu cường, nhưng nói chung,
cách mạng là hằng số chung của lịch sử thế kỉnày. Một mình chiến tranh tự nó
không nhất thiết dẫn tới khủng hoảng, sụp đổ hay cách mạng ở những nước tham
chiến. Thực ra, trước năm 1914, người ta tin ở giả định ngược lại, ít nhất đối
với những chế độvốn được danh chính ngôn thuận. Napoléon thứ nhất đã từng than
thở chua chát rằng hoàng đế Áo thua trăm trận, vua Phổ bị đại bại và mất hẳn
một nửa giang sơn mà vẫn yên vị trên ngai vàng, còn ông là con đẻ của Cách mạng
Pháp, thỉ chỉ cần thua một trận là gặp lôi thôi. Song chiến tranh tổng lực ở
Thế kỉ XX đã gây ra sự căng thẳng đối với các bộ máy Nhà nước và nhân dân các
nước tới mức ghê gớm chưa từng thấy, hầu như nó đưa đẩy các Nhà nước và các dân
tộc đếnđiểm tới hạn, thậm chí điểm đoạn tuyệt. Chỉ có Hoa Kì là nước duy nhất
đã trải qua xuyên suốt cuộc chiến tranh mà vẫn như trước, thậm chí còn hùng
mạnh hơn trước. Còn đối với tất cả các nước khác, chiến tranh kết thúc đồng
nghĩa với đảo lộn, bể dâu.
“ Cựu thế giới ” –
đối nghịch với Tân thế giới là châu Mĩ – bị lịch sử kết án, điều đó đã rõ ràng.
Xã hội cũ, nền kinh tế cũ, những chính thể cũ, nói nhưngười Trung Hoa, đã đánh
mất “mệnh trời” rồi. Nhân loại chờ đợi một cái gì khác, một “đáp án khác”.Và
năm 1914, cái “khác” ấy đã trở thành quen quen. Cácđảng xã hội, dựa vào hậu
thuẫn của giai cấp công nhân đang phát triển mạnh mẽ, tin tưởng sắt đá vào
thắng lợi cuối cùng như một tất yếu lịch sử, đã trở thành hiện thân của “đáp án
khác” tại phần lớn các nước Âu Châu. Dường như nhân dân các nước chỉ đợi một
hiệu lệnh là sẽnhất tề vùng lên, thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủnghĩa xã
hội, biến vô vàn khổ đau cực kì phi lí của chiến tranh thành cơn đau của sự
sinh nở, để tạo ra một thế giới mới. Cách mạng Nga, hay đúng hơn Cách mạng
bôn-sê-vích Tháng Mười năm 1917 phải là hiệu lệnhđó. Trong lịch sử thế kỉ XX,
nó trở thành sự kiện trung tâm như cách mạng 1789 đối với thế kỉ XIX. Thật ra,
không phải ngẫu nhiên mà lịch sử Thế kỉ ngắn nhưcuốn sách này đã phân kì, lại
trùng hợp hầu như hoàn toàn với tuổi thọ của Nhà nước ra đời từ Cách mạng Tháng
Mười.
Tuy nhiên, cách mạng Tháng Mười tác động sâu sắc và
toàn cầu hơn hẳn cuộc cách mạng “thuỷ tổ” của nó. Bởi vì, nếu các ý tưởng của
cách mạng Pháp đã trường tồn hơn chủ nghĩa bôn-sê-vích – điều này bây giờ thấy
rõ – ngược lại những hậu quả thực tếcủa 1917 so với 1789 to lớn hơn nhiều. Cách
mạng Tháng Mười đã sản sinh phong trào cách mạng có tổ chức mạnh mẽ nhất trong
lịch sử hiện đại. Sự bành trướng của phong trào này trên khắp hoàn cầu có một
không hai từsau cuộc chinh phục của Islam trong những thế kỉ đầu của đạo này.
Chỉ trong vòng từ ba chục tới bốn chục năm sau ngày Lenin đặt chân tới nhà ga
Phần Lan ởPetrograd, một phần ba nhân loại đã sống dưới những chính thể phái
sinh trực tiếp từ “Mười ngày rung chuyển Thế giới” (Reed, 1919), và mô hình tổ
chức của Lenin, Đảng Cộng sản. Phần lớn các chế độ này đã theo Liên Xô trong
làn sóng cách mạng thứ nhì nổi lên trong giai đoạn hai của cuộc chiến tranh
trường kì 1914-1945. Chương này nói về cuộc cách mạng hai giai đoạn này, song
đương nhiên tập trung vào cuộc cách mạng 1917, nguyên khởi và tác thành, đã áp
đặt phong cách đặc biệt của nó lên những cuộc cách mạng tiếp theo nó.
I
Trong suốt một thời gian dài của Thế kỉ XX “ngắn”,chủ
nghĩa cộng sản xô-viết tự khẳng định mình là hệthống khác biệt, hơn hẳn chủ
nghĩa tư bản, và có nhiệm vụ lịch sử là chiến thắng hệ thống tư bản. Trong phần
lớn thời gian của giai đoạn này, ngay trong sốnhững người phủ định tính ưu việt
của chủ nghĩa cộng sản, nhiều người cũng còn xa mới chắc mẩm rằng cộng sản có
thể sẽ không thắng cuộc. Và – ngoại trừ biệt lệ có ý nghĩa là thời gian
1933-1945 – nền chính trị quốc tế của Thế kỉ XX từ sau cách mạng Tháng Mười có
thể được lí giải thoả đáng là cuộcđấu tranh trường kì của các lực lượng bảo vệ
trật tự cũ chống lại cách mạng xã hội, được coi là bộphận, hay đồng minh, hay
lệ thuộc vào định mệnh của Liên Xô và cộng sản quốc tế.
Thế kỉ ngắn XX càng gần ngày kết thúc thì hình ảnh
cuộc đụng đầu tay đôi giữa hai hệ thống xã hội thùđịch (sau năm 1945, mỗi bên
đứng sau một siêu cường với một kho vũ khí khổng lồ có khả năng huỷ diệtđại
trà) càng trở thành phi hiện thực. Đến thập niên 1980, nó trở thành xa lạ đối
với nền chính trị thếgiới, chẳng khác nào những cuộc Thánh chiến ngày xưa. Song
chúng ta cũng có thể hiểu được nguyên uỷ sựviệc. Bởi vì, triệt để và kiên quyết
hơn hẳn cách mạng Pháp thời kì Jacobin, cách mạng Tháng Mười tự coi mình là sự
kiện “liên tôn toàn cầu” hơn là một sựkiện có tính chất quốc gia. Mục đích của
nó không phải là để mang lại tự do và chủ nghĩa xã hội cho nước Nga, mà là để
đỡ đẻ cho cách mạng vô sản thếgiới. Trong đầu óc của Lenin và các đồng chí của
mình, thắng lợi của chủ nghĩa bôn-sê-vích ở Nga chủyếu là một trận đánh trong
toàn bộ một chiến dịch nhằm mang lại toàn thắng cho chủ nghĩa bôn-sê-vích trên
quy mô toàn cầu, và nó chỉ đáng tồn tại trong ý nghĩađó thôi.
Nước Nga của Sa hoàng đã chín muồi cho một cuộc cách
mạng, hoàn toàn xứng đáng có một cuộc cách mạng, và cách mạng chắc chắn sẽ lật
đổ chế độ Sa hoàng, đó làđiều mà các nhà quan sát nhạy bén với tình hình
thếgiới từ những năm 1870 đều chấp nhận. Tới 1905-1906, khi cách mạng đã đánh
quỵ chế độ Nga hoàng, thì chẳng còn ai có thể hoài nghi điều đó một cách nghiêm
chỉnh cả. Về sau nhìn lại, có một vài sử gia cho rằng, nếu không xảy ra tai
biến là Thế chiến lần thứ nhất và Cách mạng bôn-sê-vích, rất có thể chế độ Sa
hoàng sẽtiến hoá để trở thành một xã hội công nghiệp tư bản tự do viên mãn, và
thực sự nó đã bắt đầu đi vào con đường đó, nhưng phải dùng ống kính hiển vi mới
tìm ra một lời tiên tri như vậy trước năm 1914. Thực ra, chế độ Sa hoàng sau
cuộc Cách mạng 1905 vẫn chưa hồi phục được và vẫn bất lực, do dự khi nó
phảiđương đầu với ngọn triều dâng của bất mãn xã hội. Nếu quân đội, công an và
bộ máy hành chính không tỏra kiên trung trong những tháng cuối cùng trước khi
chiến tranh bắt đầu, chắc hẳn chế độ đã đứng bên bờmột cuộc bùng nổ. Cũng tương
tự như ở nhiều nước tham chiến khác, nhiệt tình và lòng yêu nước của quần chúng
khi khai chiến đã tháo gỡ ngòi nổ của cuộc khủng hoảng chính trị, nhưng cũng
chẳng được bao lâu. Năm 1915, những vấn đề mà chính quyền Sa hoàng phải vượt
qua tỏ ra không thể nào khắc phục. Cho nên chẳng có gì ngạc nhiên và bất ngờ
khi nổ ra cuộc cách mạng tháng ba1lật
nhào chế độ quân chủ Nga, được sự hoan nghênh của toàn bộ dư luận Tây phương,
ngoại trừ những phần tử phản động và bảo thủ cố hữu.
Tuy nhiên, nếu không kể những người lãng mạn coi phong
tục tập thể của cộng đồng thôn xã Nga là con đường dẫn thẳng tới chủ nghĩa xã
hội, thì đối với mọi người, rõ ràng cách mạng Nga không phải và không thểlà
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong một nước mà nông dân đồng nghĩa với nghèo
nàn, dốt nát và lạc hậu, còn giai cấp vô sản công nghiệp, giai cấp mà Marx coi
là người có nhiệm vụ lich sử đào huyệt chôn vùi chủnghĩa tư bản, là một thiểu
số nhỏ bé, tuy về chiến lược, nó đã được định vị, rõ ràng chưa có đủ điều kiện
tiến hành một cuộc cách mạng như vậy. Ngay những người cách mạng mác-xít Nga
cũng đồng tình với quan điểm này. Cuộc lật đổ chế độ Nga hoàng và hệ thống tư
hữu địa tô sẽ dẫn tới, và chỉ có thểdẫn tới, một cuộc “cách mạng tư sản”. Đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản –vẫn theo Marx, cuộc đấu
tranh này sẽ dẫn tới kết cục tất yếu duy nhất – sẽ tiếp diễn trong một hoàn
cảnh chính trị mới. Đương nhiên nước Nga không sống biệt lập và cách mạng tại
một nước to lớn như Nga, mênh mông một dải từ hải phận Nhật Bản đến biên
thuỳnước Đức, chính phủ lại nằm trong nhóm nhỏ những“đại cường” ngự trị sân
khấu thế giới, không thể không có những hậu quả quốc tế to lớn. Gần cuốiđời
mình, bản thân Karl Marx cũng hi vọng một cuộc cách mạng ở Nga sẽ đóng vai trò
ngòi nổ, khai hoả cho cuộc cách mạng vô sản tại các nước Tây phương công nghiệp
phát triển hơn, là nơi hội đủ điều kiện cho một cuộc cách mạng vô sản xã hội
chủ nghĩa. Khi Thế giới chiến tranh lần thứ nhất kết thúc, kịch bản ấy có vẻ
như sắp trở thành hiện thực.
Chỉcó một điều phức tạp. Nước Nga chưa chín muồi cho
một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vô sản theo quan niệm của những người
mác-xít đã đành, đến một cuộc “cách mạng tư sản” tự do, nó cũng chưa sẵn sàng
nữa ! Ngay những người muốn thực hiện cách mạngở mức tư sản cũng phải ra sức
tìm cho được những phương tiện thực hiện vì họ không thể trông chờ gìđược vào
lực lượng khiêm tốn và yếu ớt của giai cấp tư sản tự do Nga – một thiểu số nhỏ
nhoi, không có nền tảng tinh thần, không được công chúng ủng hộ,và chưa hề có
truyền thống chính quyền dân chủ. Đảng Kadet (tư sản tự do) chiếm không quá 2,5
% số ghế ởQuốc hội lập hiến vừa được thành lập qua một cuộc bầu cử tự do năm
1917-1918 (và chẳng mấy chốc sẽ bịgiải tán). Thành ra, một trong hai điều này
sẽ xảy ra : hoặc là một nước Nga tư sản tự do được kiến lập thành công nhờ cuộc
khởi nghĩa của nông dân và công nhân (mà nông dân và công nhân thì chẳng màng
tới nó, giả sử họ ý thức được nó là gì) dưới sự lãnhđạo của những đảng cách
mạng mà mục tiêu đấu tranh không phải như vậy ; hoặc là, khả năng này lớn hơn,
các lực lượng khởi động cách mạng sẽ tiếp tục tiến hành, vượt khỏi giai đoạn tư
sản tự do, bước sang một giai đoạn triệt để hơn (“cách mạng thường trực”, nói
theo công thức của Marx, mà trong cuộc cách mạng 1905 Trotsky thời trẻ đã mang
ra dùng trở lại). Năm 1917, Lenin (năm 1905, Lenin không chờ đợi gì hơn là một
cuộc cách mạng tư sản dân chủ) ngay từ đầu đã nhậnđịnh rằng trong cuộc chạy đua
cách mạng ở Nga, “con ngựa” tư sản không có mảy may vận hội thắng cuộc.Đó là
một kết luận hiện thực. Tuy nhiên, đối với Lenin cũng như đối với những người
mác-xít khác, người Nga cũng như người các nước khác, nước Nga năm 1917 chưa
hội đủ các điều kiện cho một cuộc cách mạngxã hội chủ nghĩa. Cho nên, đối với
những người cách mạng mác-xít Nga, cuộc cách mạng của họ nhất thiết phải triển
khai khắp nơi.
Mà điều ấy rất có thể lắm, bởi cuộc Đại Chiếnđã kết
thúc trong sự sụp đổ chính trị và khủng hoảng cách mạng lan rộng, nhất là ở các
nước thất trận. Năm 1918, lãnh đạo của bốn cường quốc bại trận (Đức, Áo-Hung,
Thổ Nhĩ Kì và Bulgaria) đều bịtruất phế, trước đó Nga hoàng đã phải thoái vị
năm 1917 sau khi bị Đức đánh thắng. Thêm vào đó, ngay cảnhững nước Âu châu
thuộc phe chiến thắng cũng bị rúngđộng vì những bất ổn xã hội, riêng ở Ý, tình
hình gần như chín muồi cách mạng.
Như đã thấy ở trên, các xã hội Âu châu đã tham gia
chiến tranh bắt đầu nao núng dưới áp lực phi thường của chiến tranh đại chúng.
Làn sóng ái quốc trào dâng khi cuộc giao tranh mở đầu nay đã xẹp xuống. Năm
1916, nỗi chán ngán chiến tranh đã biến thành sự chống đối thầm lặng, u uất
trước cảnh tàn sát triền miên, bất phân thắng bại, dường như chẳng ai muốn chấm
dứt. Năm 1914, những người phản chiến thấy mình bất lực và trơ trọi, đến năm
1916 họ cảm thấy mình đại diện cho đa số. Biến chuyển ấy thể hiện rõ trong việc
Friedrich Adler, con trai của nhà sáng lập và lãnh đạođảng xã hội Áo, ngày 28
tháng mười 1916, đã cố ý và thản nhiên mưu sát thủ tướng Áo, bá tước Stürck,
tại một quán cà phê thành phố Wien – đó là thời kì ‘trong trắng’, chưa có nhân
viên cận vệ – như một hànhđộng công khai phản đối chiến tranh.
Tâm trạng phản chiến đương nhiên nâng cao thế lực
chính trị của những người xã hội chủ nghĩa, khiến họcàng ngày càng trở lại lập
trường của họ trước năm 1914 là chống chiến tranh. Thực ra, một số đảng xã hội
(thí dụ như ở Nga, Serbia và Anh – Công đảng độc lập ILP) chưa hề từ bỏ lập
trường này, và nơi nào đảng xã hội chủ chiến thì trong hàng ngũ của đảng, cũng
có những tiếng nói phản đối mạnh mẽ 2.
Trong khi đó, tại tất cả các cường quốc tham chiến, phong trào công nhân trong
các ngành công nghiệp chiến tranh to lớn lại trở thành trung tâm của hoạt động
công đoàn và chống chiến tranh. Trong các nhà máy, đoàn viên cơ sở, những người
ở thế mạnh trong các cuộc thương lượng với giới nghiệp chủ (những shop
stewards, đại biểu công xưởng, bên Anh, hay Betriebsobleutebên Đức) trở thành
những chiến sĩ tiên phong của cuộcđấu tranh. Công nhân cơ khí trên những con
tàu công nghệcao mới được chế tạo – đây thực sự là những nhà máy nổi – cũng
biến chuyển theo chiều hướng đó. ỞNga cũng như ở Đức, các căn cứ hải quân chủ
yếu (Cronstadt, Kiel) sẽ trở thành những trung tâm cách mạng lớn ; về sau, một
cuộc binh biến của thủy thủ Pháp trên Hắc Hải sẽ kết liễu sự can thiệp quân sự
Pháp vào cuộc nội chiến Nga 1918-1920 chống các lực lượng bôn-sê-vích. Cuộc nổi
dậy chống chiến tranh tìm thấyở đây một tâm điểm đồng thời là tác nhân của nó.
Không ngạc nhiên khi những nhân viên kiểm duyệt của đếchế Áo-Hung, đọc thư của
binh lính đã nhận thấy sựthay đổi : “Giá như Thượng đế mang lại hòa bình cho
chúng ta” trở thành “Ngán đến tận cổ rồi”, thậm chí “Nghe nói đảng xã hội sẽ
đem lại hòa bình”.
Nên không có gì phải ngạc nhiên nếu cuộc cách mạng Nga
là biến cố chính trị đầu tiên, kể từ khi chiến tranh bắt đầu, đã có tiếng vang
ngay trong cả thư từ của vợ con nông dân và công nhân, vẫn theo lời cơ quan
kiểm duyệt của triều đình Habsbourg. Và cũng không có gì lạ,nhất là từ khi cuộc
Cách mạng tháng mười đã đưa những người bôn-sê-vích của Lenin lên cầm quyền,
nếu khát vọng hòa bình gắn liền với ước mong cách mạng xã hội : trong những bức
thư bị kiểm duyệt trong thời gian từ tháng 11.1917 đến tháng 3.1918, một phần
ba chờ đợi hòa bình từ Nga, một phần ba chờ đón cách mạng, và 20% mong chờ cả
hai. Từ lâu rồi, đã rõ ràng rằng một cuộc cách mạng ở Nga sẽ gây tác động lớn
trên trường quốc tế : ngay cuộc cách mạng lần thứ nhất, 1905-1906, đã làm lung
lay những đế chế còn tồn tại, từ Áo-Hung đến Trung Quốc, qua Thổ Nhĩ Kì và Ba
Tư. Năm 1917, cả châu Âu là một đống thuốc nổxã hội chỉ đợi được châm ngòi.
II
Mệt mỏi vì chiến tranh, đứng bên bờ chiến bại và chín
muồi cách mạng, nước Nga là chế độ đầu tiên ở khu vực Đông và Trung Âu sụp đổ
dưới tác động căng thẳng của Thế chiến lần thứ nhất. Sự bùng nổ ấy, ai cũng chờ
đợi, tuy không ai có thể dự đoán ngày giờvà vận hội. Vài tuần lễ trước cuộc
cách mạng tháng hai, sống lưu vong ở Thụy Sĩ, Lenin còn tự hỏi không biết cách
mạng có sẽ bùng nổ khi ông còn sống chăng. Chế độ Nga hoàng đã sập đổ khi một
cuộc biểu tình của nữ công nhân (nhân ngày 8-3, “Ngày phụ nữ”truyền thống của
phong trào xã hội chủ nghĩa) và một cuộc đình công ở xí nghiệp kim khí Putilov
nổi tiếng vì có phong trào công nhân hùng mạnh đã dẫn tới tổng bãi công : quần
chúng lao qua sông đóng băng, tràn vào khu trung tâm thủ đô, chủ yếu để đòi
bánh mì. Sự suy yếu của chính quyền lộ rõ khi quân đội kể cả nhữngđơn vị Cô-dắc
vốn rất mực trung thành đã do dự, rồi không chịu đàn áp và cuối cùng đã “bắt
tay hữu nghị” với đám đông. Sau bốn ngày biến loạn, quânđội nổi dậy, Nga hoàng
phải thoái vị, nhường chỗcho một “chính phủ lâm thời” xu hướng liberal, phần
nào được cảm tình và sự ủng hộ của các đồng minh Tây phương chỉ lo sợ chính
quyền Nga hoàng thế cùng lực tận sẽ ngừng tham chiến và kí hòa ước riêng rẽ với
nước Đức. Thế là nền đế chế của nước Nga đã kết liễu chỉ sau bốn ngày khởi
nghĩa tự phát và không hề có người lãnh đạo 3.
Hơn thế nữa, nước Nga lúc ấy đã chín muồi cách mạng xã hội đến mức quần chúng
Petrograd đã đồng nhất sựtruất phế Nga hoàng với đại cáo tự do, bình đẳng và
dân chủ trực tiếp. Sự nghiệp của Lenin phi thường ởchỗ đã biến hóa được cuộc
nổi dậy có tính chất vô chính phủ và khó kiểm soát của quần chúng thành chính
quyền xô-viết.
Thếlà, thay vì một nước Nga liberal, hiến chế, hướng
vềphương Tây, sẵn sàng và đồng ý chống Đức, đã xuất hiện một tình thế cách mạng
: một bên là “chính phủlâm thời” bất lực, một bên là vô vàn những “xô-viết”
(hội đồng) tự phát mọc lên như nấm sau cơn mưa 4.
Tại mỗi cơ sở, “xô-viết” nắm thực chất quyền lực, ít nhất là quyền phủ quyết,
nhưng họ không biết làm gì với quyền lực ấy, và cũng có không một ý niệm gì về
khả năng sử dụng quyền lực. Các chính đảng và tổ chức cách mạng – những người
bôn-sê-vích và những người men-sê-vích dân-xã, những người xã hội cách mạng và
nhiều phe phái khuynh tả nhỏ hơn, tất cảvừa ra khỏi vòng hoạt động bí mật – tìm
cách chếngự và phối hợp các xô-viết, tranh thủ họ đi theođường lối của mình,
tuy rằng ban đầu, chỉ Lenin nhận thức được rằng đó là cơ sở cho một chính quyền
mới (“Tất cả chính quyền về tay các xô-viết”). Tuy nhiên, khi Nga hoàng bị lật
đổ, ở Nga ít ai biết phân biệt được các đảng và tổ chức cách mạng, mà có biết
thì cũng chẳng biết chọn đường lối nào. Điều duy nhất họ biết chắc là từ nay họ
không chịu quy phục bất cứ quyền uy nào, kể cả quyền uy của những người cách
mạng tỏ ra ta đây, biết rõ hơn họ là phải làm gì.
Ở các thành phố, người nghèo đòi hỏi trước tiên là
bánh mì, công nhân thì đòi tăng lương và giảm số giờlao động. Còn những người
Nga sống bằng nghề nông (80%) tất nhiên đòi ruộng đất. Và mọi người gặp nhau ở
một điểm là đòi chấm dứt chiến tranh, mặc dầu lúc đầu khối công-nông trong quân
đội phản kháng không phải vì chiến tranh mà vì chịu kỉ luật quá khắt khe và vì
bị sĩ quan đối xử tàn tệ. Những người đưa ra khẩu hiệu “bánh mì, hoà bình và
ruộng đất” ngày càng được ủng hộ rộng rãi, đặc biệt là những người bôn-sê-vích
của Lenin, tháng ba 1917 chỉ có mấy nghìn đảng viên, sang đầu hè, lên tới gần
một phần tư triệu người. Thời chiến trạnh lạnh phổ biến huyền thoại theo đó
Lenin chỉ giỏi tổ chức đảo chính, thực ra ngược lại, chủ bài duy nhất của người
bôn-sê-vích là họ nhận thức được quần chúng mong muốn gì, nghĩa là họ biết
chiều theo và lãnh đạo được quần chúng. Chẳng hạn như khi Lenin thừa nhận rằng,
trái ngược với cương lĩnh xã hội chủ nghĩa, nông dân chỉ muốn được chia ruộng
đất cho từng gia đình canh tác, thì ngay lập tức ông vận động các đồng chí
bôn-sê-vích ủng hộ hình thái kinh tế cá nhân chủ nghĩa này.
Ngược lại, chính phủ lâm thời và những người ủng hộ
chính phủ hoàn toàn không ý thức được rằng họ không có cách nào bắt nước Nga
phải tuân thủ các đạo luật và sắc lệnh mà họ ban hành. Khi các doanh nhân và
cán bộxí nghiệp tìm cách tái lập kỉ luật lao động thì họchỉ càng làm cho công
nhân trở thành triệt để hơn nữa. Và đến tháng sáu 1917, khi chính phủ muốn mở
ra, bằng mọi giá, một cuộc tiến công quân sự mới, thì quânđội ngao ngán, còn
binh sĩ nông dân thì bỏ ngũ về làngđể cùng với thân nhân tham gia chia lại
ruộng đất. Cách mạng lan truyền dọc theo tuyến đường xe lửa đưa họ từ mặt trận
về làng quê. Điều kiện chưa chín muồi để chính quyền sụp đổ ngay bấy giờ, nhưng
từmùa hè trở đi, quá trình triệt để hoá đã tăng tốc trong hàng ngũ quân đội
cũng như ở các thành phố lớn, tăng cường lợi thế cho đảng bôn-sê-vích. Cố
nhiên, nông dân ồ ạt ủng hộ những hậu duệ của đảng “dân tuý”, tức là các đảng
viên xã hội – cách mạng, nhưng trong nội bộ đảng này, đã hình thành một cánh
tả, triệt để hơn, lập trường gần gũi bôn-sê-vích, và trong một thời gian ngắn
sau cách mạng tháng mười,đã tham gia chính phủ.
Đảng bôn-sê-vích – lúc đó chủ yếu là một chínhđảng
công nhân – chiếm đa số ở các thành phố lớn,đặc biệt là ở thủ đô Petrograd và ở
Moskva, lại nhanh chóng bành trướng ảnh hưởng trong quân đội, khiến cho sự tồn
tại của chính phủ lâm thời mỗi ngày thêm bấp bênh : nhất là khi phải kêu gọi
các lực lượng cách mạng tại thủ đô để trấn áp một mưu toan đảo chính phản cách
mạng của một viên tướng bảo hoàng hồi tháng tám. Làn sóng ngầm của quần chúng
cảm tình thuộc xu hướng triệt để tất nhiên thôi thúc đảng bôn-sê-vích giành lấy
chính quyền. Thực ra, khi tới thờiđiểm, chính quyền chẳng cần phải giành lấy,
mà chỉcần... nhặt lên. Người ta vẫn truyền miệng rằng sốngười bị thương trong
khi quay cuốn phim lớn của Eisenstein, Tháng Mười, còn lớn hơn số người bị
thương trong cuộc tấn công vào Cung mùa Đông ngày 7 tháng mười một 1917. Chính
phủ lâm thời không còn ai bảo vệ, đã tan rã.
Từ khi chính phủ này sụp đổ cho đến tận ngày nay, Cách
mạng tháng Mười bị chìm ngập trong vô vàn những cuộc luận chiến, phần đông là
những cuộc luận chiến bất lương. Vấn đề đặt ra không phải như những sửgia chống
cộng chủ trương, xem phải chăng đó là một cuộc đảo chính do một người hết sức
chống dân chủlà Lenin khởi xướng, mà là : sau khi chính phủ lâm thời sụp đổ
rồi, thì ai thay thế, thì tiếp theo là gì ? Từ đầu tháng chín trở đi, Lenin tìm
cách thuyết phục những phần tử còn do dự trong đảng rằng chính quyền rất có thể
sẽ tuột luốt nếu họ không biết nắm lấy thời cơ trong khoảng khắc ngắn ngủi mà
nó nằm trong tầm tay, và không những thế, vấn đề còn đặt ra – có lẽcũng bức xúc
không kém – là : giả dụ người bôn-sê-vích giành được chính quyền rồi, liệu họ có
giữ nổi chính quyền hay không ? Thực vậy, với một nước Nga cách mạng sục sôi
như ngọn núi lửa, người nào muốn cầm quyền thử hỏi có thể làm được gì ? Ngoại
trừ những người bôn-sê-vích của Lenin ra, khôngđảng nào sẵn sàng dám một mình
cáng đáng trách nhiệmấy – và cuốn sách mỏng của Lenin cũng cho ta thấy trong
hàng ngũ bôn-sê-vích, không phải ai cũng quyết tâm như ông. Với tình hình chính
trị thuận lợi ởPetrograd, ở Moskva cũng như trong các đạo quân phía bắc, cũng
khó cưỡng lại ý tưởng phải nhanh chóng nắm lấy chính quyền, thay vì ngồi đợi
xem tình hình tiếp diễn ra sao. Lúc đó, phản cách mạng quân sự đã manh nha.
Chính quyền trong thế cùng lực cạn, có thể không chịu nhường chỗ cho các
xô-viết, mà dám hiến dâng Petrograd cho quân đội Đức đã có mặt ở biên thuỳ phía
bắc của nước Estonia hiện nay, nghĩa là chỉ còn cách thủ đô vài ba kilômét.
Phải nói thêm, Lenin là người không ngại nhìn thẳng vào những sự thật đen tối
nhất. Nếu người bôn-sê-vích bỏ lỡ thời cơ, thì “một làn sóng vô chính phủ chủ
nghĩa có cơ trở thành mạnh mẽ hơn hẳn chúng ta”. Phân tích đến cùng, đảng
bôn-sê-vích chỉ có thể tán thành luận điểm của Lenin. Nếu mộtđảng cách mạng
không nắm lấy chính quyền khi hoàn cảnh và quần chúng đòi hỏi, thì có khác gì
một đảng không cách mạng ?
Giảsử rằng chính quyền giành được ở Petrograd và
Moskva sẽ bành trướng ra toàn quõc, và giả sử chính quyền có thể đứng vững
trước nạn vô chính phủ và phản cách mạng đi nữa, thì viễn cảnh dài hạn vẫn còn
là nghi vấn. Cương lĩnh của Lenin, cụ thể là gắn chính quyền xô-viết mới (chủ
yếu là đảng bôn-sê-vích) với “công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa của nước Cộng
hoà Nga” cơ bản dựa trên giả định là cách mạng Nga sẽchuyển thành cách mạng thế
giới, hay chí ít, cách mạng châu Âu. Như Lenin thường nói, không ai có thể hình
dung sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội mà không có sự“tận huỷ của giai cấp tư
sản Nga và Âu châu”. Trong khi chờ đợi, nhiệm vụ đầu tiên, hay đúng hơn, duy
nhất, của người bôn-sê-vích là tồn tại, là “trụ”được. Chế độ mới không thể thực
hiện được điều gì gọi là xã hội chủ nghĩa được, ngoại trừ một việc là khẳng
định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu phấn đấu của mình, kiểm soát các ngân hàng và
đặt lãnh đạo các cấp dưới sự “kiểm soát của công nhân”, tức là đóng dấu chính
thức trên bất cứ những gì đã làm từ ngày cách mạng, đồng thời thôi thúc công
nhân tiếp tục sản xuất. Vả lại, cũng chẳng có thể nói gì khác với công nhân 5.
Chính quyền mới đã trụ lại được. Nó đã sống sót sau
khi bị Đức áp đặt “nền hoà bình trừng trị” ởBrest-Litovsk, và vài tháng sau đó
thì đến phiên Đức bại trận : Ba Lan, các tỉnh vùng Balte, Ukrainia và những
bộphận rộng lớn ở phía nam và tây nước Nga, và trên thực tế, cả vùng Transcaucasia
đã bị tách khỏi lãnh thổ đế chế cũ (về sau, hai vùng Ukrainia và Transcaucasia
sẽ được khôi phục). Các nước Đồng Minh không có lí do gì để hành xử hào phóng
đối với trung tâm sáchđộng của thế giới. Nhiều đạo quân và chính quyền phản
cách mạng (“bọn trắng”) đã nổi dậy chống xô-viết và được sự tài trợ của Đồng
Minh, không những thế các nước Đồng Minh còn đưa quân Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Ba
Lan, Serbia, Hi Lạp và Rumania thâm nhập lãnh thổ Nga. Vào những lúc tình hình
tồi tệ nhất trong cuộc nội chiến bạo liệt và loạn xạ của những năm 1918-1920,
lãnh thổ của nước Nga xôviết chỉ còn trơtrọi như một bộ xương nằm giữa vùng núi
U-ran và các nước vùng Balte hiện nay, không còn tiếp giáp biển, ngoại trừ mũi
đất nhỏ ở Petrograd, trông ra vịnh Phần Lan. Chủ bài lớn duy nhất của chính
quyền mới, tay không xây dựng “đại” ra hồng quân (cuối cũng đã chiến thắng), là
sự bất cập và chia rẽ của các đạo“bạch quân” nội bộ liên tục cắn xé nhau, sở
trường của các đội quân này là làm mất lòng nông dân Đại Nga, thêm vào đó là
nỗi nghi ngờ của các cường quốcđồng minh – họ lo ngại là dùng binh lính và thuỷ
thủ đánh nhau với bôn-sê-vích vì đám này có thể làm binh biến. Thế là đến cuối
năm 1920, bôn-sê-vích đã thắng.
Trái ngược với sự chờ đợi, nước Nga xô-viết đã tồn tại
được. Người bôn-sê-vích đã giữ được chính quyền, không những lâu hơn Công xã
Paris năm 1871 (nhưLenin đã thở phào và tự hào ghi nhận sau hai tháng rưỡi cầm
cự), mà còn xuyên suốt những năm tháng khủng hoảng và tai hoạ triền miên : quân
Đức xâm lấn, hoà bình –trừng trị, địa phương li khai, phản cách mạng, nội
chiến, quân đội của nhiều nước can thiệp, nạn đói và sụp đổ kinh tế. Chính
quyền mới không thể có một chiến lược hay triển vọng nào khác hơn là, ngày qua
ngày, phải chọn lựa giữa những quyết định bức thiếtđể giải quyết những vấn đề
cấp bách và những quyết định có thể dẫn tới tai hoạ tức khắc. Trong hoàn cảnh
ấy, chẳng ai có thể suy xét tới những hậu quả dài hạn có thể của những biện
pháp phải quyếtđịnh ngay bây giờ,nếu không thì cách mạng sẽ kết thúc, nói chi
đến những hậu quả có thể hay không có thể ! Và cứ nhưthế, người ta đã phải đi
từ quyết định này sang quyết định khác. Khi nước Cộng hoà xô-viết non trẻvượt
qua được những thử thách ấy, thì mới nhận ra rằng mình đã dấn thân vào một
hướng đi rất xa với hướng đi mà Lenin nghĩ tới ngày nào ở nhà ga Phần Lan.
Dù sao đi nữa, cách mạng đã sống sót, ít nhất nhờ ba
nguyên nhân. Trước tiên, với một đảng cộng sản 600 000 người được tổ chức theo
lối tập trung và có kỉluật, cách mạng Nga có một công cụ hùng mạnh vô song,
phôi thai của một bộ máy Nhà nước. Bất luận vai trò của nó ra sao trước ngày
cách mạng bùng nổ, phải nói là mô hình tổ chức mà Lenin đã truyền bá và bảo
vệkhông mệt mỏi, cuối cùng đã chứng tỏ hiệu lực. Hầu hết các chính quyền cách
mạng của Thế kỉ XX đã sửdụng mô hình tổ chức ấy, không dưới dạng này thì dạng
kia. Nguyên nhân thứ nhì là : đó hiển nhiên là chính phủ duy nhất có ý chí và
khả năng duy trì sựnhất quán của nước Nga như một quốc gia, vì vậy mà nó được
sự ủng hộ lớn lao của những phần tử yêu nước, mặc dầu về chính trị họ thù ghét
chính phủ,thí dụ như các sĩ quan quân đội – nếu không có những sĩ quan này, thì
không thể nào xây dựng được Hồng quân. Đối với những người này, cũng như đối
với nhà sử học sau này nhìn lại, thì ở thời điểm 1917-1918, vấn đề đặt ra không
phải là chọn lựa giữa một nước Nga liberal và dân chủ và một nước Nga không
liberal, mà là chọn lựa giữa sự tồn tại của nước Nga và sự tan rã, như số phận
của những đế chế cổlỗ và bại trận là đế chế Áo-Hung và Thổ Nhĩ Kì. Khác với hai
đế chế này, cách mạng Nga cơ bản đã gìn giữ được sự thống nhất lãnh thổ của
quốc gia đa dân tộc mà Nhà nước Sa hoàng đã dựng nên – ít nhất cho đến bảy mươi
tư năm về sau. Nguyên nhân thứ ba và cuối cùng, cách mạng Nga đã mang lại ruộng
đất cho nông dân. Trong giờ phút nguy kịch nhất, đa phần nông dân Đại Nga – hạt
nhân cứng của Nhà nước và quânđội mới – tin rằng với “ Bọn Đỏ ” họ có nhiều cơ
may giữ gìn được ruộng đất hơn là nếu bọn quý tộc trở lại. Đấy là lợi thế quyết
định của lực lượng bôn-sê-vích trong cuộc nội chiến 1918-1920. Thực ra, nông
dân Nga đã quá lạc quan.
III
Nhân danh cách mạng thế giới, Lenin đã đưa nước Nga
vào conđường xã hội chủ nghĩa. Khốn nỗi cách mạng thếgiới đã lỡ hẹn, buộc nước
Nga xô-viết phải sống trong nghèo khó, lạc hậu suốt một thế hệ cô lập. Sựphát
triển sau đó của nước Nga tuỳ thuộc vào những sự chọn lựa nếu không bị quy định
thì cũng bị hạn chế chặt chẽ (xem các chương 13 và 16). Tuy nhiên, trong thời
gian hai năm sau biến cố tháng Mười, cả một làn sóng cách mạng đã trào dâng
khắp thế giới, hi vọng của người bôn-sê-vích xem ra không phải là không hiện
thực : Völker hört die Signale, “Hỡi các nhân dân, hãy lắng nghe hiệu lệnh !”,
bản tiếngĐức điệp khúc bài Quốc tế ca đã mở đầu như vậy. Hiệu lệnh ấy đã vang
dội, dõng dạc, từ Petrograd, và từ năm 1918, từ Moskva, khi có quyết định dời
đô vềmột nơi an toàn hơn 6,
và chúng đã được hưởng ứng ở mọi nơi có phong trào công nhân hay xã hội chủ
nghĩa, bất luận thuộc xu hướng nào, thậm chí còn lan rộng hơn nữa. Tại Cuba là
nơi ít ai biết nước Nga nằm đâu trên bản đồ, công nhân những xưởng thuốc lá đã
thành lập những “xô-viết”.Tại Tây Ban Nha, thời kì 1917-1919 sẽ được gọi là
“hai năm bôn-sê-vích”, mặc dầu phái tả ở đây hăng háiđi theo chủ nghĩa vô chính
phủ, tức là trái nghịch hẳn với Lenin. Phong trào sinh viên cách mạng bùng nổ ở
Bắc Kinh năm 1919 và ở Cordoba (Argentina) năm 1918 rồi lan truyền khắp châu Mĩ
La tinh, tạo ra ở đây những lãnh tụ và những chính đảng mác-xít cách mạng. Một
chiến sĩ quốc gia người Ấn Độ, N. M. Roy đã nhanh chóng ngả về phía cách mạng
tại Mexico, là nơi phong trào cách mạng bảnđịa bước vào giai đoạn triệt để nhất
vào năm 1917,đương nhiên là đồng cảm với nước Nga cách mạng : Marx và Lenin trở
thành những thần tượng ở Mexico, bên cạnh hình ảnh của Moctezuma, Emiliano
Zapata và những nghĩa quân Da Đỏ khác, ngày nay còn thấy trên các bức bích hoạ
hoành tráng của các hoạ sĩ chính thức. Vài tháng sau, Roy tới Moskva, đóng vai
trò quan trọng trong việc xây dựng đường lối giải phóng các dân tộc thuộc địa
của Quốc tế Cộng sản. Phần nào qua trung gian của những đảng viên xã hội người
Hà Lan cư trú ở thuộcđịa như Henk Sneevliet, cách mạng Tháng Mười đã nhanh
chóng để lại dấu ấn trên Sarekat Islam, tổ chức quần chúng chủ yếu của phong
trào giải phóng dân tộc Indonesia. Ở Thổ Nhĩ Kì, một tờ báo địa phương nhậnđịnh
: “Một ngày kia, hành động của dân tộc Nga sẽtrở thành mặt trời chiếu sáng khắp
trần gian”. Ởsâu trong lục địa Úc, những người thợ cục mịch, chuyên nghề cạo
lông (đa số là Công giáo, gốc Ireland), rõ ràng chẳng quan tâm gì tới chủ
thuyết chính trị,chào mừng các việc thành lập các “xô viết” như là sự khai sinh
của một nhà nước công nhân. Ở Hoa Kì,đông đảo người Phần Lan, vốn là cộng đồng di
dân gắn bó nhất với chủ nghĩa xã hội, đã chuyển theo cộng sản và tổ chức rất
nhiều cuộc hội họp tại những thành phố mỏ tối tăm ở bang Minnesota : “Tên gọi
Lenin thôi là đủ làm rộn ràng lòng người [...]. Trong sựlặng im thần bí, gần
như ở trạng thái xuất thần nhập hoá của tín đồ, chúng tôi chiêm ngưỡng bất cứ
cái gì đến từ nước Nga”. Tóm lại, ở khắp mọi nơi, cách mạng Tháng Mười được coi
là sự kiện làm rung chuyển thế giới.
Ngay những người ở cận kề cuộc cách mạng – mà ở vịtrí
này, không dễ rơi vào trạng thái xuất thần nhập hoá của tín đồ – cũng giác ngộ
: có những tù binh từNga hồi hương và trở thành bôn-sê-vích tích cực, có người
sẽ trở thành lãnh tụ, như anh thợ cơ khí người xứ Croatia, Josip Broz (Tito),
như nhà báo phóng viên củaManchester Guardian, Arthur Ransome, vốn là người
không có “máu” chính trịmà chỉ say mê thuyền buồm và đã biết truyền sự đam mê
đó vào những trang truyện thiếu nhi tuyệt vời. Xa lạvới những người bôn-sê-vích
hơn nữa là nhà văn Tiệp Khắc Jaroslav Hasek – sau này là tác giả kiệt tác Những
cuộc phiêu lưu của anh lính Schwejk tội nghiệp– lần đầu tiên trong đời bỗng
nhiên hoạt động chính trị để bảo vệ một “chính nghĩa” ; và, nghe nói, kì lạ hơn
nữa, ông đã ngừng uống rượu. Hasek tham gia cuộc nội chiến với tư cách chính uỷ
trong hàng ngũ Hồng quân, sau đó tái xuất giang hồ ở Praha, Hasek trở lại hình
ảnh một tay Lưu Linh vô chính phủ cốhữu, lấy cớ là nước Nga xô-viết sau cách
mạng không còn hợp khẩu vị của mình nữa. Dầu sao, cách mạng đã là nguồn cảm
hứng của nhà văn này.
Những sự kiện xảy ra ở Nga đã gợi hứng cho các nhà
cách mạng, và quan trọng hơn nữa, cho những cuộc cách mạng. Tháng giêng 1918,
vài tuần sau cuộc tấn công vào Cung mùa Đông, giữa lúc những người bôn-sê-vích
đang ra sức làm hoà bằng bất cứ giá nào với quân đội Đứcđang tiến tới, thì một
đợt tổng bãi công và biểu tình chính trị đã lan truyền khắp Trung Âu : bắt đầu
từ Vienna, làn sóng ấy trào qua Budapest và các vùng Tchekia, lan sang Đức, để
đạt đỉnh điểm là cuộc binh biến của hải quân Áo-Hung trên biển Adriatic. Những
nghi vấn về khả năng đại bại của các cường quốc Trung Âu lần lượt tan biến hết,
quân đội của họ rốt cuộc đã tan rã. Tháng chín, những người lính nông dân
Bulgaria trở về nhà, tuyên bố thành lập chế độ cộng hoà và tiến về thủ đô Sofia
mặc dầu họ đã bịgiải giới nhờ sự giúp đỡ của quân đội Đức. Tháng mười, sau
những thất bại ở mặt trận Ý, triều đại Habsburg sụp đổ. Nhiều Nhà nước – dân
tộc được thành lập với hi vọng (có cơ sở) là các nước đồng minh thắng trận sẽ
chấp nhận để tránh hiểm hoạ cách mạng bôn-sê-vích. Và đúng như thế, khi người
bôn-sê-vích kêu gọi nhân dân các nước hãy tuyên bốhoà bình và công bố những
hiệp ước bí mật của các nước đồng minh về việc chia nhau các lãnh thổ quốc gia,
thì phản ứng đầu tiên của phương Tây là 14 điểm của tổng thống Wilson, tức là
dùng con bài dân tộc chủnghĩa để chống lại lời kêu gọi quốc tế của Lenin. Phải
thiết lập một khu vực gồm những Nhà nước –dân tộc nhỏ để đắp đập ngăn chặn vi
khuẩn đỏ.Đầu tháng mười một, thuỷ thủ và binh lính nổi dậy, lan truyền cách
mạng từ căn cứ hải quân Kiel ra toàn quốc. Chế độ Cộng hoà được tuyên bố thành
lập, hoàng đế phải bỏ sang Hà Lan, nhường chỗ quốc trưởng cho một người xuất
thân là thợ đóng đồ ngựa.
Từ hải cảng Vladivostok (bên bờ Thái Bình Dương) đến
tận sông Rhin (biên giới Đức-Pháp), làn sóng cách mạng quét sạch tất cả các chế
độ, trước hết là một cuộc khởi nghĩa chống chiến tranh. Một khi hoà bình lập
lại, tính bùng nổ của nó giảm đi một phần lớn. Vảlại, nội dung xã hội cũng nó
cũng mơ hồ, ngoại trừthành phần nông-binh (và gia đình họ) dưới đế chếcủa các
dòng họ Habsburg (Áo-Hung), Romanov (Nga) hay đếchế Ottoman hoặc các nước nhỏ ở
đông nam châu Âu. Cụthể, đối với nông dân, 4 điểm chủ yếu là : ruộngđất, nghi
ngại thành thị, nghi ngại người ngoại quốc (nhất là người Do Thái) và nghi ngại
các thứ chính phủ.Người nông dân những vùng rộng lớn ở Trung Âu và Đông Âu,
không kể nước Đức (ngoại trừ vùng Bayern), nước Áo và một số vùng Ba Lan, với
những điểm ấy, có thểnói là cách mạng, nhưng họ không phải là bôn-sê-vích. Do
đó, chính quyền các nước này phải tranh thủ họbằng cách chấp nhận ít nhiều cải
cách ruộng đất, ngay tại những nước bảo thủ, thậm chí phản cách mạng như ở
Rumania và Phần Lan. Mặt khác, tại những nước nông dân chiếm đa số, đảng xã hội
(còn bôn-sê-vích thì khỏi nói) không có mảy may khả năng thắng lợi trong một
cuộc tổng tuyển cử dân chủ. Mặc dầu những nước ấy không trở nên thành luỹ của
đảng bảo thủnông dân, đó cũng là thua kém tai hại đối với những người xã hội
dân chủ ; còn ở những nơi khác, như Nga xô-viết, điều này dẫn tới sự bãi bỏ chế
độ dân chủ qua bầu phiếu. Chính vì vậy mà sau khi đòi bầu ra Quốc hội lập hiến
(truyền thống cách mạng quen thuộc từ năm 1789), Quốc hội lập hiến vừa mới bắt
đầu họp, chỉ vài tuần sau Tháng Mười, những người bôn-sê-vích đã quyết định giải
tán cơ quan này. Còn những Nhà nước – dân tộc được thành lập theo những nguyên
tắc Wilson, tuy chúng không giải quyết được các cuộc xung đột có tính chất dân
tộc ở khu vực cách mạng, song chúng đã thu hẹp tác động của cách mạng
bôn-sê-vích. Và đó cũng chính là ý đồ của phe đồng minh khi họ lập lại hoà
bình.
Mặt khác, tác động của cách mạng Nga vào những biến
chuyển ở châu Âu những năm 1918-1919 hiển nhiên đến mức Moskva không mảy may
nghi ngờ về khả năng truyền bá cách mạng của giai cấp vô sản thế giới. Đối với
người viết sử – cũng như đối với một số người cách mạng trên thực địa – nước
Đức dưới đế chếlà một Nhà nước rất ổn định về xã hội và chính trị, với một
phong trào công nhân mạnh, nhưng rất ôn hoà, nếu không có chiến tranh, chắc
không bao giờ nghĩtới cách mạng vũ trang. Khác hẳn nước Nga của Sa hoàng hay đế
chế Áo-Hung đang lung lay, cũng khác Thổ Nhĩ Kì, vẫn được gọi là “người bệnh
của châu Âu”, hay những con người sơn cước hung hãn, súng ống đầy mình,“không
biết trên đầu có ai” ở vùng đông nam lụcđịa, Đức là nước không ai chờ đợi sẽ
xảy ra những cuộc đảo lộn. Và, đúng như thế, so với tình hình thực sự là cách
mạng ở hai nước bại trận là Nga và Áo-Hung, phần đông binh lính, thuỷ thủ và
thợ thuyền người Đức có tinh thần cách mạng vẫn rất mực ôn hoà, tôn trọng pháp
luật, giống như hình ảnh trong truyện khôi hài (có lẽ phịa) của những người
cách mạng Nga kể với nhau : “Chỉ cần trong thấy cái biển‘cấm đi trên cỏ’ là
người Đức khởi nghĩa cũng răm rắp đi trong lối đi !”.
Vậy mà chính ở đây, thuỷ thủ cách mạng đã giương cao
ngọn cờ Xô-viết trên cả nước, ban chấp hành của các xô-viết công nhân và quân
nhân Berlin đã cử ra chính phủ xã hội chủ nghĩa của nước Đức, hai cuộc cách
mạng Tháng Hai và Tháng Mười như đã nhập làm một, vì ngay khi hoàng đế thoái
vị, những người xã hội cấp tiến dường như đã nắm hết thực quyền ở thủ đô.Ảo
tưởng này là kết quả sự tê liệt toàn bộ nhưng tạm thời của những cơ cấu quyền
lực cũ – quân đội, Nhà nước, chính quyền – sau hai cú sốc của thất trận và cách
mạng. Chỉ vài ngày sau, chế độ cũ được“cộng hoà hoá” đã yên vị trở lại trên
lưng ngựa,đảng xã hội không còn là một trở ngại đáng kể :trong cuộc bầu cử tổ
chức vài tuần lễ sau cuộc cách mạng, họ không còn đa số 7.
Nó càng không phải bận tậm vì Đảng cộng sản mới vội vã ra đời, mà hai lãnh tụ,
Karl Liebnecht và Rosa Luxemburg, ít lâu sau sẽ bị bọn “binh đội tự do” ám sát.
Cuộc cách mạng Đức 1918 dầu sao cũng đã củng cố niềm
hi vọng của người cách mạng Nga, nhất là một nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
ngắn ngủi đã được tuyên bố thành lập với đầy đủ lệ bộ ở Bavaria cùng năm 1918,
và sang mùa xuân năm 1919, mặc dầu lãnh tụ bị ám sát, một nước cộng hoà xô-viết
đã được thiết lập tại Munich, thủ đô của nghệ thuật Đức, của phản –văn hoá trí
thức và của rượu bia (về mặt chính trị,nồng độ không cao cho lắm). Cuộc nổi dậy
này diễn ra cùng lúc với một nỗ lực nghiêm chỉnh hơn nhằm đưa chủ nghĩa
bôn-sê-vích “tây tiến”, đó là : Cộng hoà các “hội đồng” Hungaria Tháng Ba –
Tháng Bảy 1919 8.
Cố nhiên cả hai cuộc cách mạng, như chờ đợi, đã bị đập tan thẳng tay. Thêm vào
đó, công nhân Đức thất vọng bởi sự lừng khừng của đảng xã hội dân chủ,bỗng trở
nên quyết liệt, nhiều người đứng về phía những người xã hội chủ nghĩa độc lập,
và từ năm 1920, ủng hộ Đảng cộng sản, nhờ đó ĐCS Đức trởthành đảng cộng sản lớn
nhất ngoài Liên Xô. Lẽ nào một cuộc Cách mạng Tháng Mười lại không nổ ra ở Đức
? Trong tình huống mà những nỗ lực duy nhất nhằm tổchức cách mạng đã thất bại
năm 1919, là năm cao điểm của các biến động xã hội, và sang năm 1920 thì phong
trào cách mạng ở phương Tây rõ ràng là bước sang thoái trào, thì cho đến năm
1923, cách lãnh tụ bôn-sê-vích ởMoskva vẫn chưa từ bỏ hi vọng một cuộc cách
mạng ở Đức.
Năm 1920, người bôn-sê-vích đã phạm một sai lầm mà
ngày nay nhìn lại, có thể thấy là cốt tử : sự phân liệt của phong trào công
nhân quốc tế, mà họ đã dứtđiểm bằng cách tổ chức phong trào cộng sản quốc
tếtheo mô hình một chính đảng lêninít tiền phong với tầng lớp lãnh đạo là
“những người cộng sản chuyên nghiệp” (thoát li). Như chúng ta đã thấy, cách
mạng Tháng Mười đã dấy lên một làn sóng cảm tình trong các phong trào xã hội
chủ nghĩa quốc tế, phần đông các phong trào này trải qua cuộc chiến tranh đã
trở thành triệt để hơn và mạnh mẽ hơn. Trừ một vài biệt lệ,các đảng xã hội và
công đảng có nhiều đảng viên chủ trương gia nhập Đệ tam quốc tế, tức là Quốc
tếcộng sản, mà người bôn-sê-vích đã thành lập đểthay thế Đệ nhị quốc tế
(1889-1914) đã bị tai tiếng vì không chống lại chiến tranh và đã bị cuộc chiến
tranh phá tan 9.
Các đảng xã hội Pháp, Ý, Áo và Na Uy cũng như những người xã hội chủ nghĩa độc
lập ở Đức đã bỏphiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế cộng sản, đểlại ngoài lề
một thiểu số những người vốn thù nghịch chủ nghĩa bôn-sê-vích. Điều mà Lenin và
những người bôn-sê-vích mong muốn không phải là một phong trào quốc tế tập hợp
những người xã hội chủ nghĩa có cảm tình với cách mạng Tháng Mười, mà một đoàn
thể chiến sĩ toàn tâm toàn ý, kỉ luật, một lực lượng xung kích toàn cầu nhằm
phục vụ cuộc đấu tranh cách mạng. Đảng nào ngần ngại không muốn tổ chức theo
kiểu Lenin bị cách li hoặc loại trừ khỏi Quốc tếcộng sản vì bị coi như một “đạo
quân thứ năm”của chủ nghĩa cơ hội hay chủ nghĩa cải lương chỉ có thể làm suy
yếu tổ chức quốc tế mới, đó là không kể cái “tội” mà trước đây Marx gọi là
“chủnghĩa nghị viện ngu xuẩn”. Trong “trận đấu tranh cuối cùng” sắp sửa xảy ra,
chỉ có chỗ cho những người lính.
Luận điểm ấy chỉ có ý nghĩa với điều kiện là cách mạng
thế giới đang tiến tới và “trận cuối cùng”là triển vọng kề cận. Tình hình năm
1920 ở châu Âu còn xa mới ổn định, song rõ ràng là cách mạng bôn-sê-vích không
nằm trong nhật thứ ở phương Tây, cho dù ở Nga, chính quyền lêninít từ nay đã
được củng cố. Ở thời điểm Quốc tế cộng sản khai hội, đúng là có khả năng Hồng
quân, vừa giành thắng lợi trong cuộc nội chiến, “tây tiến” bằng vũ lực trong
khuôn khổ cuộc chiến tranh ngắn ngủi giữa Nga và Ba Lan, phát sinh từ những
tham vọng về đất đai của Ba Lan. Sau gần một thế kỉ rưỡi, Ba Lan tồn tại trở
lại như một Nhà nước và đòi phục hồi biên giới thế kỉ XVIII ăn sâu vào lãnh thổ
hiện tồn của Belorussia, Lithuania và Ukraine. Cuộc tiến quân của Liên Xô, mà
Isaac Babel đã ca ngợi trong kiệt tác Kị binh đỏ, đã được hoan nghênh một cách
rộng rãi khác thường : từ nhà văn Áo Joseph Roth (sau này sẽ làm thơ ca tụng
triều đại Habsburg) tới Mustafa Kemal, lãnh tụ tương lai của Thổ Nhĩ Kì. Nhưng
rốt cuộc không có một cuộc nổi dậy nào của công nhân ở Ba Lan, và Hồng quân
tiến tới cửa ô Warsaw thì bị đẩy lui. Từ nay, bất luận tình hình bề ngoài
cóđộng tĩnh gì đi nữa, “mặt trận phía Tây không có gì lạ”. Sự thật là triển
vọng cách mạng đã chuyển vềphương Đông, ở châu Á, nơi mà Lenin vẫn quan tâm chú
mục. Thật vậy, từ 1920 đến 1927, hi vọng cách mạng dường như đặt vào cuộc cách
mạng Trung Quốc đang tiến lên dưới sự lãnh đạo của Trung Hoa Quốc dân đảng, lúc
đó là chính đảng của phong trào giải phóng dân tộc, mà lãnh tụ Tôn Dật Tiên
(1886-1925) lại hoan nghênh mô hình Xô-viết cũng như viện trợ quân sự của Liên
Xô, và đón nhận Đảng cộng sản Trung Quốc mới thành lập như là thành viên phong
trào của ông. Từ các căn cứ địa miền nam Trung Quốc, liên minh quốc-cộng đã
quét sạch miền bắc trong cuộc tổng tiến công 1925-1927, nhờ đó, lần đầu tiên từ
ngày nền quân chủ sụp đổ năm 1911, đại bộ phận lãnh thổ quốc gia đặt dưới
sựkiểm soát của một chính quyền duy nhất, trước khi mà viên tướng cầm đầu Quốc
dân đảng, Tưởng Giới Thạch, quay lại bội phản và tàn sát những người cộng sản.
Tuy nhiên, từ trước khi xảy ra sự kiện này –chứng tỏ cả phương Đông cũng chưa
chín muồi cho một cuộc cách mạng Tháng Mười – những kì vọng đặt vào châu Á cũng
không thể nào che lấp thất bại của cách mạng ở phương Tây.
Năm 1921, sự thất bại trở thành hiển nhiên. Cách mạng
phải lùi bước ở Liên Xô mặc dù về mặt chính trị,đối phương không còn có thể lật
đổ chính quyền xô-viết được nữa (xem trang 379 bản tiếng Anh, tr. 491-492 bản
tiếng Pháp). Cách mạng không còn nằm trong“nhật thứ” (chương trình nghị sự) ở
Tây phương nữa. Đại hội lần thứ ba của Quốc tế cộng sản, tuy không hiển ngôn,
cũng đã mặc nhiên thừa nhận điềuấy khi chủ trương thành lập “mặt trận thống
nhất”với chính những người xã hội chủ nghĩa mà đại hội lần thứ nhì đã khai trừ
khỏi hàng ngũ của đạo quân cách mạng. Ý nghĩa của việc này như thế nào sẽ
làđiều còn gây ra tranh cãi và chia rẽ giữa những người cách mạng trong những
thế hệ tiếp theo. Dù sao đi nữa thì cũng đã quá muộn. Phong trào đã mãi mãi bị
chia rẽ,đa số phái tả xã hội chủ nghĩa, cá nhân hay toàn bộ đảng, đã quay trở
về với phong trào xã hội – dân chủ do những phần tử ôn hoà chống cộng chế ngự.
Cácđảng cộng sản mới vẫn ở vị trí thiểu số trong phái tả Âu châu, và ngoại trừ
một số biệt lệ (như ở Đức, Pháp và Phần Lan), đó là những thiểu số nhỏbé, tuy
rất nhiệt tình. Tình hình này sẽ không thay đổi trước những năm 1930.
IV
Bao nhiêu năm đảo lộn ấy rốt cuộc cũng đã để lại một
đất nước, rộng lớn mênh mông mà lạc hậu, đặt dưới chính quyền cộng sản, hướng
tới xây dựng một chế độ nhằm thay thế chủ nghĩa tư bản. Cùng với đất nước ấy,
phải kể một chính phủ, một phong trào quốc tế có tính kỉ luật cao, và có lẽ
không kém quan trọng, cả một thế hệ chiến sĩ cách mạng thiết tha với triển vọng
một cuộc cách mạng thế giới dưới ngọn cờ Tháng Mười và tất nhiên dưới sự lãnh
đạo của Moskva. Trong suốt nhiều năm, người ta đã hi vọng có thểdời trụ sở Quốc
tế cộng sản sang Berlin, và trong thời kì giữa hai cuộc thế chiến, ngôn ngữ
chính thức của Quốc tế là tiếng Đức, chứ không phải tiếng Nga. Đúng là phong
trào cộng sản thực ra cũng không biết làm saođưa cách mạng thế giới tiến tới
sau khi nó đã ổnđịnh ở châu Âu và thất bại ở châu Á. Những cuộc nổi dậy vũ
trang đây đó của người cộng sản (Bulgaria và Đức năm 1923, Indonesia năm 1926,
Trung Quốc năm 1927 và – một trường hợp bất thường và muộn màng –Brasil năm
1935) đều là những tai hoạ. Nhưng chẳng mấy lúc, cảnh tượng thế giới không có một
nhân tố nàođi ngược lại những hị vọng vào một cuộc “đại hồng thuỷ” - “đổi đời”
: cuộc Đại khủng hoảng và sự đi lên của Hitler càng củng cố hi vọng ấy. Song
điều này không giải thíchđược tại sao Quốc tế cộng sản đã đột nhiên khoa trương
ngôn ngữ cực đoan cách mạng và tả khuynh giáođiều giữa 1928 và 1932 bởi vì, bất
luận bản chất phong trào là như thế nào, nó không có hi vọng giành được chính
quyền, vả lại, cũng không hề chuẩn bị nắm chính quyền ở nơi nào cả. Nguyên nhân
sự thay đổiđịnh hướng (về mặt chính trị sẽ hết sức tai hại) này, phải tìm ở
tình hình chính trị trong nội bộ Đảng cộng sản Liên Xô, lúc đó đã do Stalin
nắm, và có lẽ ở ý muốn bù trừ sự bất đồng ngày càng rõ rệt giữa một bên là
quyền lợi của Liên Xô – tức là một Nhà nước, dù muốn hay không, cũng phải chung
sống với những nhà nước khác ; và bắt đầu từ năm 1920, Liên Xô bắtđầu được công
nhận trên sân khấu quốc tế – bên kia là phong trào cộng sản là mục tiêu là sách
động và lật đổ chính quyền của tất cả các nước khác.
Quyền lợi Nhà nước của Liên Xô cuối cùng đã áp đảo lợi
ích cách mạng thế giới của Quốc tế cộng sản bị Stalin biến thành công cụ đơn
thuần của chính trịnội bộ dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Đảng cộng sản Liên Xô,
một mình tự ý thanh trừng, giải tán hay cải cách các thành phần. Cách mạng thế
giới chỉ còn là mĩ từ thuộc về quá khứ, hay đúng hơn, cách mạng chỉ có thể được
chấp nhận với điều kiện : a) nó không xung khắc với quyền lợi của Nhà nước
xô-viết, và b) nếu người Liên Xô có thể trực tiếp kiểm soát. Sau năm 1944,
những chế độ cộng sản khai triển ở châu Âu, các nước phương Tây thấy đó trước
tiên là sựbành trướng thế lực của Liên Xô, họ đã hiểu đúng ý đồ của Stalin ; và
những người cộng sản lão thành cũng hiểu rõ Stalin khi họ oán trách Moskva đã
không muốn cho người cộng sản ở nơi khác giành được chính quyền, mà còn can
ngăn mọi nỗ lực của họ, ngay khi những cố gắng của họ đang mang lại kết quả,
như ởNam Tư và Trung Quốc.
Tuy nhiên, cho đến giờ phút cuối cùng, đối với ngay
cảtầng lớp quan liêu khá thối nát, Liên Xô vẫn là cái gì khác hơn là một cường
quốc như mọi cường quốc khác. Xét cho cùng, sự nghiệp giải phóng nhân loại, xây
dựng một xã hội tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản, vẫn còn là lý do tồn tại của Liên
Xô. Nếu không thì tại sao những quan chức nghiệt ngã kia ở Moskva vẫn tiếp tục
tài trợ và cung cấp vũ khí cho du kích của Đại hội quốc dân Phi châu, đồng minh
của Đảng cộng sản, mà triển vọng lật đổ được chế độ apartheid ở Nam Phi trong
suốt mấy chục năm có vẻ như rất mỏng manh, và thật sự là rất mỏng manh. (Điều
kì quặc là sau khi hai nước đoạn tuyệt rồi, chính quyền cộng sản Trung Quốc chỉ
trích Liên Xô là đã phản bội các phong trào cách mạng, nhưng trong thực tế,
Trung Quốc không thể so bì với Liên Xô trong việc ủng hộ cụ thể các phong trào
giải phóng thế giới thứ ba). Từ lâu rồi, Liên Xôđã hiểu rằng nhân loại sẽ không
đổi đời thông qua một cuộc cách mạng thế giới cảm hứng từ Moskva. Trong những
năm hoàng hôn lê thê của thời Brejnev, niềm tin thành thực của Krushev (theo đó
chủ nghĩa xã hội sẽ“chôn vùi” chủ nghĩa tư bản bằng tính ưu việt vềkinh tế của
mình) cuối cùng đã tan biến. Chính sự sói mòn hoàn toàn của niềm tin vào sự
nghiệp chính nghĩa ấy giải thích tại sao hệ thống này đã tan rã mà không hềcó
một sự kháng cự nào.
Những thắc mắc, do dự ấy hoàn toàn xa lạ với thế hệ
đầu tiên của những người mà ánh sáng của Tháng Mườiđã thúc giục họ hiến dâng cả
cuộc đời cho cách mạng thế giới. Cũng như những tín đồ đầu tiên của Kitô giáo,
phần lớn những người xã hội chủ nghĩa trước 1914 tin tưởng vào một cuộc cách
mạng “đại hồng thuỷ” sẽ phá tan tất tật mọi điều xấu xa và sẽ“đỡ đẻ” ra một xã
hội mới, không còn khổ đau, áp bức, không còn bất bình đẳng hay bất công. Niềm
tin “tận thế chủ nghĩa” ấy lại được “bảo chứng” bằng tính khoa học của chủ
nghĩa Marx và sựtất yếu của quy luật lịch sử ; cách mạng Tháng Mười chứng minh
rằng cuộc đổi đời ấy đã bắt đầu.
Đạo quân của sự nghiệp giải phóng nhân loại ấy, tất nhiên
phải nhẫn tâm và kỉ luật, quân số tổng cộng là bao nhiểu ? Có lẽ không quá vài
vạn người. Còn những nhà cách mạng “chuyên nghiệp” của phong trào quốc tế,
những con người “thay đất đổi nước xoành xoạch như thay giầy đổi dép”, như
Bertolt Brecht đã ca ngợi họ trong một bài thơ, có lẽ tổng cộng không quá vài
trăm. Không nên lẫn lộn những nhà cách mạng “thoát ly” đó với số đông mà người Ý
gọi là “nhân dân cộng sản”, vào thời số đảng viên ĐCS lên tới hàng triệu. Hàng
triệu cảm tình viên và đảng viên cơ sở,thực sự ước mơ một xã hội mới, tốt đẹp,
cho dù trên thực tế, hoạt động hàng ngày của họ cũng giống như hoạt động của
phong trào xã hội chủ nghĩa trướcđó. Cũng thế, trong sự dấn thân của họ, tính
chất chọn lựa cá nhân có phần ít hơn là gắn bó giai cấp, cộng đồng. Tuy nhiên,
tuy con số ấy không lớn, nhưng ta không thể hiểu được thế kỉ XX nếu quên đi
điềuđó.
Nếu không có chính đảng lêninít “kiểu mới”, với khung cán
bộ là những “nhà cách mạng chuyên nghiệp”,không thể tưởng tượng ra rằng chỉ
trong vòng hơn ba chục năm sau cách mạng Tháng Mười, một phần ba nhân loại đã
sống dưới những chế độ cộng sản. Sự tin tưởng và lòng trung thành triệt để đối
với bộ tham mưu của cách mạng thế giới ở Moskva khiến cho người cộng sản (đứng
về mặt xã hội học) có thể tự coi mình là thành viên của một Giáo hội “hoàn vũ”
chứkhông phải chỉ là một tông phái riêng lẻ. Các đảng cộng sản trung thành với
Moskva đã bị mất đi những lãnh tụ sau những vụ chia rẽ và thanh trừng, nhưng
ngày nào còn tồn tại một “trung ương” của phong trào, tức là cho đến năm 1956,
không có đảng nào li khai, ra khỏi phong trào, khác hẳn những nhóm mácxít li
khai, sau khi đi theo Trotski, đã liên tục chia năm xẻ bảy, cũng như những nhóm
“mácxít-lêninít” theo chủ nghĩa Mao còn chia rẽhơn nữa sau năm 1960. Ngay khi
chỉ còn một số nhỏ –năm 1943, khi Mussolini bị lật đổ, Đảng cộng sản Ý còn 5000
người, tổng cộng cả nam lẫn nữ, phần đông vừa ở tù ra hoặc mới lưu vong từ nước
ngoài về –họ cũng tương tự như những người bôn-sê-vích hồi tháng hai 1917 : nói
cách khác, họ hợp thành hạt nhân của một đội quân hàng triệu người, họ là những
nhà lãnhđạo tiềm thể của nhân dân một nước, của một Nhà nước.
Đối với thế hệ ấy, nhất là đối với những ai đã trải qua
những năm đảo điên ấy, cho dù họ còn quá trẻ đi nữa, cách mạng là sự nghiệp lớn
nhất củađời người ; số mệnh của chủ nghĩa tư bản tất chỉcòn tính từng ngày.
Lịch sử đương đại là chiều hôm trước của ngày toàn thắng, ai còn sống tới ngày
đó sẽ là những chứng nhân, cho dù trong số đó chỉ còn ít những người lính của
cách mạng (“những người chết‘nghỉ phép’” theo lời của Leviné, chiến sĩ cộng sản
Nga, ít lâu trước khi bọn người lật đổ Xô-viết Munich 1919 xử tử). Bản thân
giai cấp tư sản cũng có bao nhiêu là lí do để hoài nghi về tương lai của chính
nó, lẽ nào người chiến sĩ cách mạng lại tin là nó trường tồn ! Chính cuộc đời
của họ là một bằng chứng !
Ví dụ như hai thanh niên người Đức đã từng yêu nhau, mà
cuộc cách mạng Bavaria năm 1919 đã thay đổi cả cuộcđời: Olga Benario, con gái
một trạng sư thịnh vượng của thành phố Munich, và Otto Braun, giáo viên. Olga
đã sang Tây bán cầu tổ chức cách mạng, hoạt động bên cạnh và sau đó kết hôn với
Luis Carlos Fuentes, là ngườiđã đứng đầu một cuộc trường chinh khởi nghĩa trong
rừng rậm nội địa Brasil trước khi thuyết phục được Moskva ủng hộ của nổi dậy
năm 1935 của Brasil. Cuộc khởi nghĩa thất bại, chính quyền Brasil trao nộp Olga
cho chính quyền Hitler, cuối cùng Olga chết trong trại tập trung. Trong khi đó,
Otto may mắn hơn, làm cách mạng ởphương Đông với cương vị chuyên gia quân sự
của Quốc tế cộng sản ở Trung Quốc. Otto là người ngoại quốc duy nhất tham gia
cuộc Vạn lí trường chinh của cộng sản Trung Quốc trước khi về lại Moskva, rồi
sau đó Cộng hoà Dân chủ Đức (Kinh qua Trung Quốc, Otto trở nên nghi ngại đối
với Mao). Hai cuộc đời như vậy, thử hỏi thời nào có được, ngoại trừ nửa đầu của
thế kỉXX ?
Thành thử, đối với thế hệ sau 1917, chủ nghĩa bôn-sê-vích
đã hấp thu toàn bộ các truyền thống xã hội cách mạng khác, hoặc đã loại trừ
chúng ra khỏi phong trào cấp tiến. Trước 1914, đối với các chiến sĩcách mạng
trên đại bộ phận thế giới, chủ nghĩa vô chính phủ là một hệ tư tưởng hấp dẫn
hơn chủ nghĩa Marx. Ngoài khu vực Đông Âu, Marx được coi như “lãnh tụtinh thần”
của những chính đảng đại chúng mà Marx đã chứng minh rằng các chính đảng ấy sẽ
tiến tới thắng lợi một cách tất yếu – nhưng không phải qua con đường bùng nổ.
Trong thập niên 1930, ngoại trừ Tây Ban Nha, chủnghĩa vô chính phủ không còn là
một lực lượng chính trị quan trọng nữa, kể cả ở Châu Mĩ Latinh là nơi mà lá cờ
nửa đen nửa đỏ có khả năng huy động lớn hơn lá cờ đỏ. (Ở Tây Ban Nha, cuộc nội
chiến 1936-1939 sẽchôn vùi chủ nghĩa vô chính phủ và phát quang mảnh đất cho
cộng sản, trước đó là một lực lượng không đáng kể). Từ đó trở đi, các nhóm xã
hội cách mạng tồn tại ở ngoài vòng ảnh hưởng của Moskva cũng đều lấy Lenin và
cách mạng Tháng Mười làm hệ quy chiếu. Họ hầu như đều chọn theo một nhân vật li
khai hay đã bị khai trừ khỏi Quốc tế cộng sản. Còn Quốc tế cộng sản thì lao vào
một cuộc săn lùng phù thuỷ ngày càng quyết liệt, trong khi Stalin kiểm soát và
khoá chặt cả Đảng cộng sản Liên Xô lẫn Quốc tế cộng sản. Về mặt chính trị, hiếm
có một trung tâm bôn-sê-vích li khai nàođã làm nên công trạng gì đáng kể. Leon
Trotski, nhân vật“dị giáo” kiệt xuất và danh tiếng nhất, một trong những người
lãnh đạo cách mạng Tháng Mười và là kiến trúc sư của Hồng Quân, đã hoàn toàn
thất bại trong những hoạt động thực tiễn. Tổ chức “Đệ tứquốc tế” của Trotski có
mục đích cạnh tranh với Đệtam quốc tế đã bị Stalin khuynh loát, rốt cuộc chẳng
bao giờ nổi lên được. Năm 1940, khi ông lưu vong ởMexico, Stalin sai người sang
ám sát, ảnh hưởng chính trịcủa Trotski hoàn toàn không đáng kể.
Tóm lại, làm cách mạng ngày càng đồng nghĩa với : là học
trò của Lenin và cách mạng Tháng mười và đồng thời, là đảng viên hay cảm tình
viên của một Đảng cộng sản đi theo Moskva ; điều này lại càng đúng sau khi
Hitler nắm trọn quyền bính ở Đức, các đảng cộng sản chọn chủ trương đoàn kết
chống phát-xít, nhờ đó họ thoát ra khỏi thế cô lập giáo điều và tập hợpđược
đông đảo công nhân cũng như trí thức. Nhưng thanh niên nóng lòng lật đổ chủ
nghĩa tư bảnđã trở thành cộng sản chính thống, đồng nhất hoá công cuộc cách
mạng của mình với phong trào quốc tếlấy Moskva làm trung tâm. Chủ nghĩa Marx,
mà Tháng Mườiđã chọn làm hệ tư tưởng của thay đổi cách mạng, bây giờ là chủ
nghĩa Marx của Viện Marx-Engels-Lenin đặt tại Moskva từ nay là trung tâm truyền
bá những đại văn kiện kinh điển. Không ai khác đứng ra hay xem ra có khảnăng
làm công việc là vừa “lí giải” thế giới vừa“thay đổi” nó. Mọi việc cứ tiếp tục
như thế chođến 1956, khi sự chính thống của Stalin sụp đổ ởMoskva, và cùng với
nó, sự tan rã của phong trào cộng sản quốc tế mà trung tâm là Moskva. Kết quả
là sự tái xuất những nhà tư tưởng, những truyền thống và tổchức phái tả dị
thống trước đó bị đưa ra ngoài lềnhưng vẫn tồn tại dưới cái bóng khổng lồ của
Tháng Mười. Ai có đôi chút hiểu biết về lịch sử tư tưởng sẽ nhận ra tinh thần Bakunin,
và cả Nechaev nữa, hơn là Marx trong phong trào sinh viên năm 1968 và những năm
tiếp theo. Song những sự kiện này không dẫn tới một sự tái sinh đáng kể của lí
thuyết hay phong trào vô chính phủchủ nghĩa. Ngược lại, 1968 làm nở rộ một trào
lưu mác-xít về mặt lí luận – thường dưới những dạng có lẽ chính Marx cũng phải
ngỡ ngàng – và một loạt những phe nhóm, tông phái “mác-xít lê-nin-nít” mà điểm
tương đồng là phủ nhận Moskva và những đảng cộng sản cũ bị quy là không đủ tính
cách mạng và tính lê-nin-nít.
Điều nghịch lí là Quốc tế cộng sản giành được quyền kiểm
soát hầu như toàn bộ truyền thống xã hội cách mạng vào lúc mà hiển nhiên là nó
đã từ bỏ những chiến lược cách mạng nguyên khởi của thời kì 1917-1923, hay đúng
hơn, là nó đã suy tính tới những chiến lược chuyển giao chính quyền khác với
chiến lược 1917. Từ năm 1935 trở đi, báo chí phái tảkhông ngừng lên án các
phong trào thân Moskva là đã bỏlỡ, nếu không nói là từ bỏ, thậm chí phản bội,
những thời cơ cách mạng. Trước khi phong trào “dĩ Mạc Tư Khoa vi trung” tự hào
là “đoàn kết thành một khối nhất trí” bắt đầu tan rã từ bên trong, những lời
phê phán ấy không hề có tác dụng. Chừng nào phong trào cộng sản còn giữ được sự
đoàn kết và nhất quán, tỏ ra “miễn dịch” đối với nạn bất hoà, chia rẽ,thì đối
với đại đa số những người tin tưởng vào sự tất yếu của cách mạng thế giới, đó
là phong trào duy nhất đáng kể. Vả lại, ai có thể chối cãi rằng các nước đã
đoạn tuyệt với chủ nghĩa tư bản trong làn sóng cách mạng lần thứ nhì
(1944-1949) không phải là dưới sự chỉ đạo của những đảng cộng sản chính thống
thân Liên Xô ? Phải đợi đến năm 1956 trở đi, những người cách mạng mới thực sự
có sự chọn lựa giữa những phong trào khác nhau nhưng đều có thể tựnhận là có
hiệu quả trong hoạt động chính trị hay trong tổ chức nổi dậy. Ngay các phe phái
trốt-kít, chủnghĩa Mao và các nhóm cảm tình với cách mạng Cuba năm 1959, cũng
ít nhiều phái sinh từ chủ nghĩa Lenin. Các đảng cộng sản cũ vẫn còn là những tổ
chức hùng mạnh nhất của xu hướng cực tả, nhưng từ đây trở đi, phong trào cộng
sản không khơi lên được ngọn lửa của niềm tin.
V
Bí quyết sức mạnh của những phong trào đấu tranh vì cuộc
cách mạng thế giới nằm trong hình thái tổ chức cộng sản, “đảng kiểu mới” yêu
dấu của Lenin –một sáng tạo kì công của phong trào xã hội thế kỉXX, có thể sánh
với những dòng tu Kitô giáo của thời Trung Cổ. Bởi vì, với sự trung kiên và hy
sinh tận tuỵphi thường của các đảng viên, vượt xa kỉ luật và tinh thần đồng đội
của một đạo quân, thêm vào đó là khả năng tập trung tuyệt đối để thi hành chỉ thịcủa
đoàn thể, hiệu lực của các đảng cộng sản (kểcả những đảng nhỏ bé) to lớn gấp
bội số lượng của họ. Điều này, ngay cả những nhà quan sát ác cảm cũng bị ấn
tượng. Tuy nhiên, giữa mô hình “đảng tiền phong” này và những cuộc cách mạng vĩ
đại mà nó có mục đích thực hiện (và đôi khi đã thực hiệnđược), quan hệ “nhân
quả” chẳng có gì rõ ràng cả; hiển nhiên là mô hình đó chỉ được “áp nhận”sau khi
cách mạng đã thành công (ở một số nơi) hay trong quá trình chiến tranh. Bởi vì
các đảng lêninít chủyếu dựa trên những phần tử ưu tú (những “đội tiên phong”),
những người cầm đầu, hay đúng hơn : trước khi cách mạng thành công, nó dựa trên
những “phần tử ưu tú chống lại”, những “phản ưu tú”(counter-elites). Thế mà,
như 1917 đã cho thấy, các cuộc cách mạng xã hội tuỳ thuộc vào những gì xảy ra
trong quần chúng, trong những tình huống mà các phần tử ưu tú hay phản ưu tú
không hoàn toàn làm chủ được. Mô hình lêninít có một hấp lực lớn trên những
phần tửtrẻ tuổi thuộc thành phần ưu tú cũ, đặc biệt ở thếgiới thứ ba : những
thanh niên này gia nhập đảng cộng sản với một tỉ lệ rất cao so với số đảng viên
thuộc thành phần vô sản mà đảng ra sức kết nạp, song chỉ thành công phần nào.
Sự bành trướng của chủnghĩa cộng sản trong những năm 1930 ở Brasil chủ yếu là
nhờ sự giác ngộ của những trí thức trẻ tuổi xuất thân từ những gia đình đại địa
chủ và sĩ quan quânđội.
Mặt khác, tâm tư của “quần chúng” (kể cả những người tích
cực ủng hộ “đội tiên phong”) nhiều khi không đồng thuận với ý kiến của lãnh
đạo, đôi khi trong lúc nổi dậy của quần chúng. Thí dụ, tháng bảy 1936, cuộc
phiến loạn của các tướng lĩnh Tây Ban Nha chống lại chính phủ Mặt trận nhân dân
đã làm bùng nổcuộc cách mạng xã hội ở nhiều vùng rộng lớn khắp nước. Không có
gì lạ khi những phần tử tích cực, nhất là những người có xu hướng vô chính phủ,
đã tiến hành tập thể hoá các phương tiện sản xuất, cho dù Đảng cộng sản và
chính quyền trung ương chống lại sau đó và, mỗi khi có điều kiện, đã bãi bỏ các
quyếtđịnh tập thể hoá. Cho đến bây giờ, những người ủng hộ lập trường của hai
phe vẫn tiếp tục tranh luận vềvấn đề này. Tuy nhiên, hậu quả nổi cộm của cuộc
phiến loạn là nó đã gây ra đợt phá phách thần tượng và sát hại tu sĩ lớn nhất ở
Tây Ban Nha kể từ năm 1835 là năm, lần đầu tiên, xảy ra những hành động nhưvậy
này trong những cuộc bạo động quần chúng : nămấy, bực tức vì một cuộc đấu bò,
dân chúng thành phốBarcelona đã đốt cháy một số nhà thờ. Lần này, gần bảy nghìn
giáo sĩ, tức là từ 12 đến 13% linh mục và (nam) tu sĩ, và cả một tỉ số thấp hơn
những nữ tu,đã bị giết ; riêng ở giáo tỉnh Gerona (vùng Catalona), hơn sáu
nghìn tranh tượng thờ đã bị phá huỷ.
Trong vụ việc kinh khủng này, hai điều cần nói rõ : những
người lãnh đạo và phát ngôn của phái tả cách mạng Tây Ban Nha, tuy chống giáo
hội, đã lên án những hành động này, kể cả những người vô chính phủ mà mọi người
đều biết rõ họ căm thù các linh mục tới mức nào ; tuy nhiên, đối với những
người đã gây ra, và đối với cả số đông những người chứng kiến các hành động ấy,
ý nghĩa cách mạng trước hết là thế :lật đổ trật tự và các giá trị của xã hội,
không phải chỉ lật đổ trong một khoảnh khắc tượng trưng, mà lật đổ một cách
vĩnh viễn. Mặc lãnh đạo muốn nói gì thì nói – và họnhắc đi nhắc lại : kẻ thù
chính không phải là linh mục, mà là tư bản – quần chúng vẫn cảm nhận theođàng
quần chúng. (Câu hỏi đặt ra là : trong một xã hội không macho (tôn sùng nam
khí) như xã hội Tây Ban Nha, liệu quần chúng có bớt phá phách thần tượng và sát
hại đi chăng ? Lịch sử không viết bằng chữ “nếu”, song những nghiên cứu sâu sát
về thái độ của phụ nữ sẽmang lại vài tia sáng để trả lời câu hỏi ấy).
Dù sao chăng nữa, thể loại cách mạng mà cơ cấu trật tự và
quyền lực đột ngột tan biến, để cho ngườiđàn ông (và đàn bà, nếu đàn bà được xã
hội cho phép) tự tung tự tác ngoài đường phố, là một hiện tượng hiếm xảy ra
trong thế kỉ XX. Thí dụ gần đây về sự sụp đổ của một chế độ đã định vị, là cuộc
cách mạng Iran năm 1979, nhưng ngay cuộc cách mạng này cũng không hẳn là đã
thiếu vắng cơ cấu, mặc dầu nó có tính tự phát khá cao, bởi quần chúng Tehran
đồng tâm nhất trí chống lại quốc vương Shah. Nhờ những cơcấu sẵn có của giáo
hội hồi giáo Iran, chính quyền mới đã hiện diện ngay trong hoang tàn của chính
quyền cũ, dù nó cần thêm thời gian để định hình một cách hoàn chỉnh.
Bỏ sang bên cạnh vài cuộc bùng nổ có tính chất cục bộ,
cách mạng tiêu biểu theo mô hình Tháng Mười phảiđược khởi động hoặc nhờ một
cuộc đảo chính (hầu như bao giờ cũng là đảo chính quân sự), và chiếm lĩnh thủ
đô, hoặc là kết cục của một cuộc đấu tranh vũtrang lâu dài, chủ yếu ở nông
thôn. Tại những nước nghèo và lạc hậu, binh nghiệp là con đường tiến thân hứa
hẹn đối với những thanh niên có tài, có học nhưng không có tiền bạc hay quan
hệ, nên trong giới sĩquan trẻ tuổi (trong hàng ngũ hạ sĩ quan thì hiếm hơn) có
nhiều người cấp tiến hay có cảm tình với phe tả,những mưu toan đảo chính thường
xảy ra ở những nước như Ai Cập (cuộc cách mạng của nhóm Sĩ quan Tự do, năm
1952) và một số nước Trung Đông (Irak, 1958 ; Syria, từthập niên 1950 đã xảy ra
mấy lần ; Libya năm 1969). Cũng vậy, quân nhân đóng vai trò hữu cơ trong lịch
sử cách mạng Châu Mĩ Latinh, tuy rằng ít khi nào quân nhân giành lấy chính
quyền vì lí tưởng tiến bộ, thảng hoặc có thì cũng không lâu bền. Mặt khác, điều
làm cho phầnđông các nhà quan sát phải ngạc nhiên, là năm 1974, chế độ phái hữu
lâu bền nhất trên thế giới đã bị lậtđổ bởi cuộc binh biến dưới sự lãnh đạo của
những sĩ quan trẻ tuổi mà những cuộc chiến tranh thuộc địa cù cưa kéo dài đã
khiến họ thất vọng và trở thành cấp tiến : đó là cuộc “cách mạng hoa cẩm
chướng”ở Bồ Đào Nha. Chẳng bao lâu, khối liên minh giữa mộtđảng cộng sản hùng
mạnh, vừa từ vòng bí mật bước ra hoạt động công khai, và những nhóm mác-xít cấp
tiến, sẽ đổ vỡ ; Cộng đồng châu Âu thở phào sảng khoái, ít lâu sau sẽ kết nạp
Bồ Đào Nha.
Cơ cấu xã hội, truyền thống tư tưởng và chức năng chính
trị của quân lực thường đưa đẩy những quân nhân muốn làm chính trị chọn lựa
phái hữu. Những cuộcđảo chính thân cộng sản, hay chỉ là liên minh với đảng xã
hội thôi, không nằm trong đường hướng của quân nhân. Đúng là trong phong trào
giải phóng ở các nước thuộc đế quốc Pháp, những cựu chiến binh trong các lực
lượng bản địa (rất ít người trong họ được phong hàm sĩ quan) sẽ giữ một vai trò
quan trọng (đặc biệtở Algérie). Trải qua cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhì và
những năm sau đó, họ trở thành bất mãn : nạn kì thị chủng tộc đã đành, còn thêm
lí do nữa làđại đa số binh lính người thuộc địa trong các đơn vị Pháp quốc Tự
do của De Gaulle, cũng như phần đông những người ngoại quốc đã tham gia kháng
chiến vũtrang ở trong nước Pháp, rất nhanh chóng đã bị đẩy lùi vào bóng tối.
Sau ngày Giải phóng, trong các cuộc diễu binh tuần hành,
màu da của quân đội “Pháp quốc Tự do” bỗng “trắng”hẳn so với những đạo quân De
Gaulle vừa kết thúc cuộc chiến tranh trong vinh dự. Tuy nhiên, nói chung, quân
đội các nước thuộc địa của các đế chế, ngay trong trường hợp khung chỉ huy cũng
là người bản địa, thường vẫn trung thành với “mẫu quốc”, hoặc “không làm chính
trị”, kể cả trường hợp khoảng năm vạn sĩ quan ẤnĐộ tham gia Quân đội Quốc gia
Ấn Độ thời Nhật.
VI
Thế kỉ XX, phải khá muộn, người cách mạng mới phát hiện
ra rằng con đường cách mạng có thể kinh qua một cuộc chiến tranh du kích trường
kì. Điều này có lẽ vì một nguyên nhân lịch sử : hình thái đấu tranh chủ yếu là
nông thôn này thường gắn liền với những phong trào thuộc hệ tư tưởng cổ lỗ, mà
những nhà quan sát người thành thị thường hiểu nhầm là bảo thủ, thậm chí phản
động hay phản cách mạng. Thật vậy, những cuộc chiến tranh du kích tài tình nhất
trong thời kì cách mạng và thời kì Napoléon ở Pháp đều là những cuộc chiến
tranh chống lại nước Pháp, chống lại cách mạng. Bản thân từ “guerilla” (du
kích) chỉ được hội nhập ngôn ngữ mác-xít sau cách mạng Cuba năm 1959. Trong
thời nội chiến ở Nga, người bôn-sê-vích triển khai cả những cuộc hành quân
không chính quy lẫn những cuộc hành quân chính quy, họ dùng chữ “partisan” và
từ này đã trởthành kinh điển để gọi tên những người kháng chiến theo kiểu Liên
Xô trong cuộc Đại chiến thế giới lần thứ nhì. Bây giờ nhìn lại, ta có thể ngạc
nhiên, không hiểu tại sao du kích hầu như không hề được sử dụng trong cuộc
chiến tranh Tây Ban Nha trong khi có khả năngđánh du kích trong các vùng Cộng
hoà bị phiến quân Franco chiếm đóng. Sau Thế chiến lần thứ hai, từ bên ngoài,
người cộng sản Tây Ban Nha đã tổ chức những hạt nhân du kích khá quan trọng. Rõ
ràng là trước cuộc chiến tranh thế giới này, du kích không nằm trong “cẩm nang”
của hàng ngũ cách mạng.
Ngoại lệ là Trung Quốc, tại đó một số người cộng sản (chứ
không phải tất cả, một số thôi) đi tiên phong trong việc triển khai chiến lược
mới này. Họ bắtđầu sau khi Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch trởmặt tấn công
đồng minh cộng sản năm 1927 và sau thất bại thảm hại của cuộc nổi dậy của cộng
sản ởcác thành phố (như ở Quảng Châu năm 1927). Người chủxướng chiến lược này –
nhờ đó cuối cùng sẽ cầmđầu Trung Quốc cộng sản – là Mao Trạch Đông đã thấy rằng
sau hơn mười lăm năm cách mạng, nhiều vùng rộng lớn của Trung Quốc đã tuột ra
khỏi vòng kiểm soát của chính quyền trung ương. Bất cứ người Trung Hoa nào
đãđọc sách cổ cũng thấy rõ sự tương đồng giữa việc thành lập vùng giải phóng
đầu tiên của quân du kích ởvùng núi rừng Giang Tây năm 1927 với căn cứ Lương
Sơn Bạc của 108 anh hùng Thuỷ Hử, mà chàng thanh niên Mao đã kêu gọi bạn bè
sinh viên noi gương từ năm 1917.
Dù anh dũng và phong phú tới đâu, chiến lược Trung Quốc
xem ra không thích hợp với những nước có mạng lưới giao thông quốc nội hoặc có
chính quyền hiện đại quen quản lý toàn bộ lãnh thổ bất kể khoảng cách và
trởngại vật chất. Về ngắn hạn, nó cũng không có hiệu quả ngay cả ở Trung Quốc :
sau mấy chiến dịch, chính quyền trung ương đã buộc cộng sản phải rút khỏi những
vùng xô-viết ở miền trung tâm, rút lui bằng cuộc Vạn lí trường chinh nổi tiếng,
lên vùng biên giới tây-bắc dân cư thưa thớt.
Cuối thập niên 1920, sau khi những “trung uý” nghĩa quân
Brasil như Luís Carlos Prestes “quá độ” từ rừng rú sang chủ nghĩa cộng sản,
không còn nhóm phái tả nàođáng kể đã chọn con đường du kích. Biệt lệ duy nhất
là cuộc chiến đấu của tướng César Augusto Sandino chống lại lính thuỷ đánh bộ
Mĩ tại Nicaragua (1927-1933), năm mươi năm sau còn nêu gương cho cuộc cách mạng
Sandinista (mặc dầu Quốc tế cộng sản đã tạo dựng một cách khiên cưỡng một hình
ảnh tương tự cho Lampião, tay lục lâm thảo khấu trứ danh ở Brasil, đề tài của
cả nghìn cuốn sách bán rong). Ngay Mao Trạch Đông cũng chỉ trởthành “lãnh tụ”
đối với những người cách mạng trên thế giới sau ngày cách mạng Cuba thắng lợi
(1959).
Tuy nhiên, Chiến tranh Thế giới lần thứ nhì cũng đãđóng
vai trò kích thích tố nhanh nhạy và phổ biến đểbước vào con đường du kích tiến
tới cách mạng do sựcần thiết kháng cự lại quân đội của Hitler và đồng minh
chiếm đóng phần lớn lục địa châu Âu, trong đó có cả một phần lớn lãnh thổ của
Liên Xô nằm trong châu Âu. Cuộc kháng chiến, nhất là kháng chiến vũtrang, đã
huy động các phong trào cộng sản sau khi Hitler tấn công Liên Xô. Cuối cùng,
khi quân đội quốc xã bị đánh bại, với sự hỗ trợ ít nhiều tuỳ nơi của các phong
trào kháng chiến bản địa (xem chương 5), chính quyền ở các nước bị Đức chiếm
đóng và những chính quyền phát-xít sụp đổ, trong khi những lực lượng xã hội
cách mạng (do cộng sản nắm) giành được chính quyền, hoặc tìm cách giành chính
quyền tại những nước có phong trào kháng chiến cộng sản hiệu quả (Nam
Tư,Albania, và cả Hi Lạp nếu không có viện trợ quân sựcủa Anh và cuối cùng của
Mĩ ngăn chận). Có lẽ cộng sản có khả năng giành lấy chính quyền ở vùng bắc
Apennin nước Ý – song cũng chẳng giữ được lâu ; tại sao họ không làm, vấn đề
này phái tả cách mạng đến nay vẫn còn tranh luận. Các chế độ cộng sản được
thiết lập sau 1945 ở Đông Á và Đông Nam Á (Trung Quốc, một phần Triều Tiên và
một phần Đông Dương thuộc Pháp) cũng có thể coi là thành quả của cuộc kháng
chiến (chống phát xít). Ngay ở Trung Quốc, các đội hồng quân của Mao tiến mạnh
đến nắm chính quyền cũng chỉ bắtđầu sau khi quân đội Nhật chiếm đại bộ phận
lãnh thổ Trung Quốc năm 1937. Như vậy là đợt sóng cách mạng xã hội trên thế
giới lần thứ hai đã bắt đầu sau Thế giới chiến tranh lần thứ nhì, giống như đợt
sóng thứ nhất đã phát sinh từ Đại chiến lần thứ nhất, nhưng cung cách thì khác
hẳn. Lần này, cách mạng lên nắm chính quyền là nhờ đã tham gia – chứ không phải
từchối – cuộc chiến.
Bản chất và đường lối chính trị của các chính quyền cách
mạng mới sẽ được đề cập ở chỗ khác. Ở đây, chúng tôi chỉ quan tâm tới bản thân
cuộc cách mạng. Các cuộc cách mạng giữa thế kỉXX diễn ra vào lúc kết thúc thắng
lợi những cuộc chiến tranh trường kì, khác với kịch bản kinh điển 1789 hay
Tháng Mười 1917, và cũng khác với sự tan rã từng bước một của những chế độ cũ
như đế chế Trung Hoa hay nước Mexico của Porfirio Díaz, trên hai phương diện.
Trước hết– và về mặt này chúng cũng giống những cuộc đảo chính quân sự thành
công – không có nghi vấn gì vềngười tiến hành cách mạng hay về người nắm quyền
hành : đó là nhóm, hay những nhóm, chính trị liên kết với quân đội Liên Xô
chiến thắng, bởi vì một mình các lực lượng kháng chiến không đủ sức đánh
bạiĐức, Nhật và Ý (ngay ở Trung Quốc cũng thế). (Quân đội chiến thắng của các
nước phương Tây thì đương nhiên thù nghịch đối với những chính quyền do cộng
sản khống chế.) Giữa chế độ cũ và chính quyền mới, không có khoảng thời gian bỏ
trống quyền hành hay thời gian chuyển tiếp. Ngược lại, trường hợp duy nhất mà
các lực lượng kháng chiến hùng hậu không giành được chính quyền ngay sau khi
chính quyền phe Trục sụp đổ là trường hợp mà những đồng minh phương Tây đặt một
chân lên những nước vừa được giải phóng (Nam Triều Tiên, Việt Nam) hoặc trường
hợp các lực lượng quốc nội chống phe Trục lại có sự chia rẽ, như ở Trung Quốc.
Tại đây, năm 1945, dưới con mắt không mấy phấn khởi của Liên Xô (điều này ai
cũng biết), người cộng sản còn phải tranh giành ảnh hưởng với chính quyền Quốc
Dân Đảng thối nát, suy yếu trông thấy, nhưng dầu sao cũng là đồng minh cùng
chiến đấu chống kẻ thù chung.
Thứ nữa, con đường tiến tới giành chính quyền bằng du
kích chiến tất nhiên ở cách xa thành thị và những trung tâm công nghiệp, là nơi
tập trung lực lượng truyền thống của phong trào công nhân xã hội chủ nghĩa, mà
ởtít những vùng sâu vùng xa. Nói cụ thể, du kích dễ tiến hành nhất là ở những
vùng bưng biền, núi rừng, những miền đất vắng vẻ, cách xa những vùng đông dân
cư.Nói như Mao, lấy nông thôn bao vây thành thị. Trong điều kiện kháng chiến ở
Châu Âu, khởi nghĩa ở thành phố(như ở Paris mùa hè 1944 hay Milano mùa xuân
1945) phải đợiđến khi chiến cuộc gần như đã kết thúc, ít nhất ởkhu vực đó, mới
có thể diễn ra được. Biến cố 1944ở Warsaw là cái giá phải trả cho một cuộc nổi
dậy quá sớm ở đô thị : trong một cuộc kháng chiến, toàn thắng không thể nào
giành được với một quả tên lửa duy nhất, dù mạnh tới đâu chăng nữa. Tóm lại,
ngay ởmột nước cách mạng, đối với đại bộ phận dân chúng, con đường từ du kích
tới cách mạng buộc phải mất thời gian dài lâu để chờ đợi một biến chuyểnđến từ
nơi khác. Các cuộc kháng chiến hữu hiệu, vớiđầy đủ cơ sở hạ tầng, chỉ là một
thiểu số nhỏbé.
Cố nhiên, trên lãnh thổ của mình, các lực lượng du kích
không thể hoạt động nếu không có sự ủng hộcủa quần chúng, đơn giản là vì, trong
một cuộc chiếnđấu trường kì, họ cần phải tuyển mộ tại chỗ :như ở Trung Quốc,
một chính đảng công nhân và trí thứcđã nhanh chóng biến thành những đạo quân
của những người xuất thân nông dân. Song quan hệ giữa họ và quần chúng còn xa
mới đơn giản như hình ảnh cá nước của Mao. Bất cứ một nhóm nào hoạt động ngoài
vòng pháp luật, bị truy lùng, nhưng biết tôn trọng phép tắc củađịa phương, cũng
có thể trông mong vào cảm tình của một bộ phận rộng rãi dân chúng thù ghét
ngoại xâm, hay trong trường hợp này, là thù ghét người của chính quyền quốc gia
trong một nước đang có chiến tranh du kích. Tuy nhiên, nông thôn cũng bị phân
hoá sâu sắc, nên có thêm bạn ở nông thôn thì đương nhiên cũng có thêm thù. Khi
lập ra những vùng xô-viết ở nông thôn những năm 1927-1928, người cộng sản Trung
Quốc mới ngạc nhiên khám phá ra rằng tranh thủ được một thôn xã có một dòng họ
đứng đầu là họ có thêm cả một mạng lưới“thôn xã đỏ” cùng dòng họ hay của những
dòng họ đồng minh, nhưng đồng thời, họ cũng bị lôi kéo vào cuộc chiến chống lại
những dòng họ thù nghịch, cũng lập thành một trận tuyến “thôn xã đen” đối
xứng.“Trong một số trường hợp, họ than phiền, đấu tranh giai cấp biến thành
trận chiến giữa làng này với làng kia. Có trường hợp quân đội của chúng tôi
phải vây hãm và triệt hạ cả làng”.Người du kích thành công là những người biết
lèo lái giữa hai dòng nước đục, nhưng, cũng như Milovan Djilas đã kể lại về
cuộc kháng chiến ở Nam Tư, chiến tranh giải phóng là một công cuộc hết sức phức
tạp chứ khôngđơn thuần là cuộc khởi nghĩa đồng tâm nhất trí của nhân dân bị trị
nổi dậy chống ngoại xâm.
VII
Những suy nghĩ ở trên không thể làm mất vui cho người
cộng sản từ nay đứng đầu chính quyền của tất cảcác nước từ bờ sông Elbe đến
biển Trung Hoa. Họ đã nghe tiếng gọi của cách mạng và cách mạng rõ ràng đã tiến
những bước dài. Trước đây chỉ có Liên Xô đơnđộc và yếu kém, nay hơn mười nước đã
hay đang trỗi lên trong đợt sóng cách mạng thế giới lần thứ nhì,đứng đầu là một
trong hai cường quốc lớn, thật sựtương xứng với hai tiếng đại cường (danh từ
siêu cường đã xuất hiện từ năm 1944). Khí thế cách mạng vẫn đi lên, phong trào
giải thực ở các thuộc địa hải ngoại của các nước đế quốc đang nở rộ. Lẽ nào nó
không mang lại những tiến bộ mới cho sự nghiệp cộng sản ? Giai cấp tư sản quốc
tế chẳng đang lo lắng cho tương lai của chủ nghĩa tư bản đó sao, ít nhất ởchâu
Âu ? Những kĩ nghệ gia họ hàng của nhà sử học trẻ Emmanuel Le Roy Ladurie,
trong khi đang xây dựng lại các nhà máy của họ, đã chẳng tự hỏi, không biết
cuộc quốc hữu hoá, thậm chí Hồng Quân nữa, có sẽ mang lại một giải pháp vĩnh
viễn cho các vấn đề của họ không ? Sau này, trở thành nhà sử học lão thành,
thuộc xu hướng bảo thủ, Le Roy Ladurie nhớ lại những tâm tư ấy năm 1949 đã thúc
đẩy ông gia nhập ĐCS. Tháng ba 1947, một thứ trưởng thương mại Hoa Kì đã chẳng
giải thích cho nội các của tổng thống Truman rằng phần lớn các nước châu Âu
đang ở bên bờvực thẳm, đến mức, chỉ một chút gì đó thôi cũng đủxô đẩy họ xuống
đáy bất cứ lúc nào, còn những nước khác cũng đang bị đe doạ nghiêm trọng ?
Đó là tâm trạng những con người, nam cũng như nữ, vừa
bước ra khỏi vòng bất hợp pháp, chiến trận, kháng chiến, nhà tù, trại tập trung
hay lưu đày, nay đang cầm cương, quyết định tiền đồ những đất nước phầnđông
đang ở trong cảnh điêu tàn. Có lẽ một vài người trong họ cũng nhận ra rằng chủ
nghĩa tư bản dễ bịlật đổ hơn khi nó suy yếu hay chỉ tồn tại trong một vài thành
luỹ. Nhưng không còn ai có thể chối cãi rằng thế giới đã quay sang “phía tả”. Ở
những ngày đầu của thời kì hậu chiến, nếu những người cộng sảnđang cầm đầu đất
nước hay đang chia sẻ quyền bính tại những Nhà nước đã biến đổi, có điều gì
phải bận tâm lo nghĩ, thì chắc chắn không phải vì tương lai của chủ nghĩa xã
hội. Quan tâm chủ yếu của họ là kiến thiết lại đất nước nghèo nàn, kiệt quệ,
điêu tàn trong lòng dân chúng nhiều khi đối nghịch, lại phảiđương đầu với nguy
cơ chiến tranh mà các cường quốc tư bản có thể tiến hành chống lại phe xã hội
chủnghĩa trước khi công cuộc tái thiết hoàn thành. Điều nghịch lí là các chính
khách và các nhà tư tưởng phương Tây cũng mất ăn mất ngủ vì mối lo tương tợ.
Cuộc chiến tranh lạnh bao trùm thế giới sau đợt sóng cách mạng lần thứ nhì, như
ta sẽ thấy, là một giao tranh giữa những cơn ác mộng. Bất luận nỗi kinh sợ
phươngĐông và nỗi kinh sợ phương Tây có cơ sở hay không, chúng cũng đã trở nên
thành tố của cuộc cách mạng thế giới mà Tháng Mười 1917 đã mở đầu. Nhưng thời
kì ấy cũng bắt đầu kết thúc, cho dù phải đợi thêm bốn mươi năm nữa mới có thể
soạn bi kí cho nó.
Song nó cũng đã làm thay đổi thế giới, tuy không như
dựkiến của Lenin hay của những người đi theo con đường của Tháng Mười. Ngoài
tây bán cầu ra, có thể đếm trên đầu ngón tay những quốc gia hiếm hoi không trải
qua một hỗn hợp cách mạng, nội chiến, kháng chiến chống ngoại xâm hay chiến
tranh giải phóng, hay một cuộc giải thực mà các nước đế quốc phải tiến hành
để“phòng ngừa” trong bối cảnh cách mạng toàn cầu. (Ởchâu Âu, ngoại lệ duy nhất
là các nước Anh, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, và có lẽ Iceland). Ngay ở tây bán cầu (là
nơi diễn ra nhiều biến chuyển bạo liệt mà châu Mĩ Latinh vẫn quen gọi là “cách
mạng”), những cuộc cách mạng xã hội -- ở Mexico, Bolivia, cách mạng Cuba và những
cuộc cách mạng tiếp nối – đã làm theo đổi cục diện Châu Mĩ Latinh.
Các cuộc cách mạng thực sự được tiến hành nhân danh chủ
nghĩa cộng sản đã cạn nguồn, mặc dù hiện nay còn quá sớm để đọc điếu văn, vì
người Trung Quốc, một phần năm nhân loại, vẫn còn sống dưới một chính quyền
cộng sản. Nhưng hiển nhiên sẽ không thể nào quay lại Chế độ Cũ, cũng như sau
cách mạng Pháp và thời Napoléon, không thể nào quay lại chế độ quân chủ,cũng
như cách nước thuộc địa cũ không thể nào quay trở lại chế độ tiền thuộc địa. Còn
các nước đã ra khỏi trải nghiệm của chủ nghĩa cộng sản, hiện tại của họ, và có
lẽ cả tương lai những nước ấy còn mang và sẽ còn mang dấu ấn của cuộc phản cách
mạngđã thay thế cách mạng. Người ta không thể xoá sạch lịch sử nước Nga hay
lịch sử thời kì xô-viết, làm như nó chưa bao giờ tồn tại. Saint-Petersburg sẽ
không bao giờ trở lại thời kì trước 1914.
Tuy nhiên, hậu quả gián tiếp của thời kì đảo lộn mà 1917
mở ra cũng sâu sắc không kém những hậu quả trực tiếp. Thời kì hậu cách mạng Nga
đã khởi động quá trình giải phóng thuộc địa và giải thực, đồng thờiđã phân bố
lại thế cờ chính trị ở châu Âu : giữa phe chống cách mạng kịch liệt (dưới dạng
phát xít hay những phong trào cùng bản chất – xem chưong 4) và xu hướng dân chủ
- xã hội. Người ta thường quên rằng, cho đến năm 1917, tất cả các công đảng và
đảng xã hội (không kể trường hợp hơi ngoại vi là Úc) đã chọn thế đứng dứt khoát
đối lập trước khi có chủ nghĩa xã hội. Ngoài khu vực Thái Bình Dương ra, những
chính phủ đầu tiên của đảng dân chủ xã hội hay có đảng này tham gia đã được
thành lập trong những năm 1917-1919 (Thuỵ Điển, Phần Lan, Đức, Áo, Bỉ) và vài
năm sau đó (Anh, Đan Mạch và Na Uy). Chúng ta dễ quên rằng sự ôn hoà của các
đảng này, cũng như việc hệ thống chính trị cũ sốt sắng tích hợp các đảng này
vào hệ thống, phần lớn cũng là phản ứng đối với chủ nghĩa bôn-sê-vích.
Tóm lại, không thể thông hiểu được lịch sử của Thếkỉ XX
nếu ta quên cách mạng Nga với những tác động trực tiếp và gián tiếp của nó. Đặc
biệt là nó đã cứu sống chủ nghĩa tư bản liberal : trước tiên là nhờnó, phương
Tây đã đại thắng Đức quốc xã trong cuộc Thế chiến lần thứ nhì, thứ nữa, nó đã
thúc đẩy chủ nghĩa tư bản phải cải cách, và trớ trêu thay, khi thấy rõ Liên Xô
miễn dịch đối với cuộc Đại Khủng hoảng, nó đã phải từ bỏ quan điểm chính thống
vềthị trường. Điều đó, chúng ta sẽ thấy ở chương sau.
Eric J. Hobsbawm
NGUỒN : Đây là chương 2 của tác phẩm Thời đại của những thái cực / Lịch sử thế
giới 1914-1991
Nguyễn Ngọc Giao dịch từ bản nguyên tác tiếng Anh The Age of Extremes / A History of the World
1914-1991 (Vintage Books, New York, 1996) và bản dịch tiếng Pháp L'Âge des extrêmes / Histoire du Court XXe
Siècle (Editions Complexe & Le Monde Diplomatique, 2005) được
tác giả duyệt qua.
CHÚ Ý : Đểbạn đọc dễ theo dõi, chúng tôiđã lược bỏ tên
tác giả, tên sách và số trang những câu trích dẫn trong bài, cũng như những chỉ
dẫn đưa tới những chương khác của cuốn sách.
1 Nga vẫn theo lịch Gregorian cũ, so với lịch Julian thông dụng trên toàn
thế giới (Kitô giáo hoặc tây hoá) chậm 13 ngày, nên « cách mạng tháng hai
»(lịch Nga) diễn ra vào tháng ba, và « cách mạng tháng mười »nổ ra vào ngày
7.11.1917. Chính cách mạng tháng mười đã quyết định cải tổ lịch, rồi cả chính
tả tiếng Nga, điều này cho thấy tác động sâu xa của nó. Mọi người đều biết là
phải qua một cơn « địa chấn »chính trị - xã hội mới có được những đổi thay
khiêm nhường. Hậu quả dài lâu và phổ biến nhất của cách mạng Pháp là hệ thống đo
lường thập phân.
2 Năm 1917, một Đảng dân xã độc lập Đức (USPD) khá lớn đã được thành lập do
sự li khai với phe đa số của Đảng xã hội SPD vẫn tiếp tục ủng hộ chiến tranh.
3So với cách mạng tháng mười, thì tổn thất cao hơn, nhưng cũng không mấy
nặng nề :53 sĩ quan, 602 binh lính, 73 công an và 587 công dân chết hay
bịthương (W. H. Chamberlin, 1965, tập I, tr.85)
4 Có lẽ bắt nguồn từtruyền thống các cộng đồng làng xã tự quản, các «
hộiđồng »xuất hiện trong cuộc cách mạng 1905 và chẳng mấy lúc đã trở thành
những thực thể chính trị chân chính trong giới công nhân. Công nhân công đoàn
các nước đã quen với những hội đồng đại biểu do họ trực tiếp bầu ra,đáp ứng
trực năng của họ về dân chủ, nên hai chữ « xô viết »(cũng có khi được dịch là
hội đồng, nhưng thường được để nguyên) có một sức hấp dẫn lớn trên mặt quốc tế.
5 « Tôi nói với họnhư thế này : các bạn muốn làm gì thì làm, lấy gì thì lấy,
chúng tôi ủng hộ các bạn, nhưng các bạn nhớ lo sản xuất, bảo đảm sản xuất ích
dụng. Các bạn hãy làm những gì có ích. Các bạn rồi sẽ mắc sai lầm, và qua đó
các bạn sẽ học hỏi » (Lenin, Báo cáo hoạtđộng của Hộiđồng các uỷ viên nhân
dân, 11/24 tháng giêng 1918, Lenin,1970,
tr 551).
6 Dưới thời Nga hoàng, thủ đô được đặt ở St. Petersburg, đến thời Thế chiến
lần thứ nhất, cái tên nghe có vẻ Đức quá nên đã được đổi thành Petrograd. Khi
Lenin từtrần (1924), thành phố được gọi là Leningrad, đến khi Liên Xô sụp
đổ,lại mang tên cũ. Liên Xô, và những nước chư hầu ngoan ngoãn cũng theođuôi,
có tập tục khác thường là đặt địa danh theo chính trị, mà chính trị thì nhiều
khi sớm nắng chiều mưa. Chẳng hạn thành phố Tsaritsyn trên bờ sông Volga trở
thành Stalingrad. Dưới cái tên này, thành phố ấyđã đi vào lịch sử như một trận
đánh anh dũng nhất của Thế chiến lần thứnhì, nhưng sau khi Stalin chết, nó trở
thành Volgograd. Khi chúng tôi viết những dòng này, thành phố còn mang tên
Volgograd.
7Phe đa số ôn hoà của lực lượng xã hội dân chủ được gần 38 % phiếu bầu – lần
đầu tiên họgiành được tỉ số cao như vậy – còn phe xã hội độc lập, cách mạng,
được khoảng 7,5 % phiều bầu.
8 Thất bại của chính thể cộng hoà này tạo ra một đợt tị nạn chính trị và trí
thức toả ra khắp thế giới, một vài người sau này lại đi làm nên những sự nghiệp
bất ngờ, thí dụ như Sir Alexander Korda, một đại gia của ngành điện ảnh, hay
diễn viên Bela Lugosi, ngôi sao trong cuốn phim (kinh hoàng) Draculađầu
tiên.
No comments:
Post a Comment