TS Nora Taylor & Karen Irvine
Hoàng
Hưng dịch
7-10-2012
Tin
nhà nhiếp ảnh An-My Lê, người Mỹ gốc Việt đầu tiên vừa nhận giải thưởng Mc
Arthur Fellow Program khiến tôi nhớ: lần đầu sang Mỹ, năm 2003, tôi đã ghi nhận
tác giả người Việt duy nhất có mặt trong bảo tàng MOMA (Mỹ thuật Hiện đại) ở
New York , đó chính là bà. Sau, lại biết thêm bà qua cuốn sách về Triển lãm
vòng quanh nước Mỹ của 10 nữ nghệ sĩ thị giác người Việt do TS Nora Taylor làm
curator và viết giới thiệu. Nora Taylor là người bạn rất thân thiết của mỹ
thuật VN, chị đã có nhiều năm sống ở Hà Nội, nghiên cứu mỹ thuật VN trước khi
thành TS và GS về Lịch sử MT tại Học viện Mỹ thuật Chicago. Tối hôm qua, gặp
lại chị trong buổi trình diễn của Bùi Công Khánh và trao đổi vể nghệ thuật
trình diễn Việt Nam của ba nữ nghệ sĩ thị giác Ly Hoàng Ly, Thảo Nguyên, Bảo
Linh ở Chicago, tôi muốn xin chị cung cấp cho bạn đọc của mình những hiểu biết
sâu hơn về An-My Lê. Chị đã nhiệt tình gửi ngay một đoạn viết của bản thân nói
tổng quát về tác giả này, kèm một bài viết mà chị xếp vào loại đáng tin cậy
nhất của giới chuyên môn ở Mỹ. Tôi xin dịch hầu các bạn (có
lược bớt đôi chỗ có thể không cần đi sâu với bạn đọc tiếng Việt).
Hoàng
Hưng
------------------------------------------------------
1/
Lời giới thiệu của Nora Taylor
Sinh
tại Sài Gòn năm 1960, gia đình An-My Lê sang Hoa Kỳ năm 1975. Luôn quan tâm đến
chuyện nhiếp ảnh làm sao bắt được “hiện thực”, sau khi tốt nghiệp Thạc sĩ tại
Đại học Yale, chị qua Việt Nam nhiều lần trong thập niên 1990 để xem liệu mình
có thể chụp những tấm hình phù hợp với ký ức về nơi mà mình đã bỏ đi khi còn ít
tuổi. Có lần chị giải thích rằng ký ức thường làm bằng những cảm giác, mùi, vị
hơn là những tấm hình rõ ràng.
Không
bằng lòng chỉ bắt được hình ảnh VN, chị tiếp tục dùng nhiếp ảnh như một công cụ
để vấn hỏi bộ máy chiến tranh. Chị bắt đầu bằng việc chụp hình những cuộc diễn
lại chiến tranh VN ở West Virginia. Và chị được người ta bảo rằng muốn được
phép chụp hình các diễn viên thì chị phải tham gia. Chị được phân vai một cô Việt
Cộng. Chị đồng ý tuy khá khó chịu, điều cho thấy chị quyết tâm đến thế nào thử
thách những cảm nhận về chiến tranh trong nhiếp ảnh. Kết quả thật kinh ngạc.
Những tấm hình bắt được “vẻ” mỏi mệt của những người lính như thể họ đang ở
vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng khi nhìn gần hơn, ta thấy rõ là họ đang
ngồi trong vùng rừng tùng ở dãy Appalache.
Năm
2003 khi Hoa Kỳ lâm chiến với Iraq, An-My quyết định rằng đây là một cơ hội để
chụp cuộc chiến tranh đang diễn ra, nhưng chị không được phép đi theo quân đội,
và thay vì thế, được phép chụp địa điểm mà quân đội huấn luyện ở vùng 29 Palms
(29 Cây Cọ) tại California. Kết quả là những tấm hình phong cảnh hoang mạc kỳ
lạ, giống như loạt ảnh đóng lại cuộc chiến VN trước đó, trông giống chiến tranh
nhưng chỉ là những bản sao chụp chiến tranh. Từ ngày đó, chị đã du hành tới Úc
và Nam Cực, có những thời gian dài sống trên các con tàu của hải quân Mỹ, vẫn
sử dụng ống kính cỡ lớn để chụp tư liệu về đời sống lính thủy đánh bộ trong
những phong cảnh biển khơi bất tận và khi họ đoàn tụ với người thân trên bờ.
Chị cũng là chứng nhân chuyến dừng chân đầu tiên Hạm đội Mỹ tại Việt Nam kể từ
sau chiến tranh.
2/
Dưới những đám mây chiến tranh
Triển
lãm này (năm 2006 – HH) gồm hai loạt ảnh của An-My Lê khai thác đề tài những cuộc
xung đột quân sự đã đóng khung nửa sau thế kỷ của lịch sử Hoa Kỳ: chiến tranh
VN và chiến tranh đang diễn ra ở Iraq và Afghanistan. Nghệ sĩ tiếp cận những sự
kiện ấy với góc nhìn xiên. Thay vì sáng tạo những hình ảnh phóng sự của các sự
kiện đương gây sốc, bà chụp hình những nơi chốn mà chiến tranh được tiên liệu,
xử lý và sống lại về mặt tâm lý.
Loạt
ảnh Những cuộc chiến nhỏ (1999
– 2002) miêu tả những người đàn ông vào cuối tuần diễn lại những trận đánh
trong chiến tranh VN giữa rừng Virginia. Loạt ảnh hiện thời của Lê, 29 Palms (2003 – bây
giờ), những tư liệu về một căn cứ quân sự cùng tên đóng trên hoang mạc
California, nơi những người lính tập luyện trước khi được tung sang Iraq hay
Afghanistan. Những sự sân khấu hóa chiến tranh (đóng lại hay diễn tập) cho phép
bà tạo ra một loại hình ảnh chiến tranh độc nhất mang tính bất ngờ và phát lộ.
An-My Lê bảo loạt ảnh Những
cuộc chiến nhỏ là “VN của tâm trí”… qua đó bà khảo sát cái hiệu quả
tích chứa mà những thông tin, tư liệu đa dạng của chiến tranh tác động lên ký
ức, cả cá nhân lẫn tập thể, và cuối cùng vấn hỏi rằng chúng ta nhớ lại, tôn
vinh và hình dung chiến tranh như thế nào sau khi nó đã chấm dứt.
Loạt
ảnh của Lê không cho ta cảm tưởng mạo lại cuộc chiến trong quá khứ, vì phong
cảnh rõ ràng là điển hình Bắc Mỹ với rừng phong và rừng sồi. Bản thân bà được
yêu cầu thủ các vai từ người phiên dịch đến một Việt Cộng, nhưng bà không nhại
lại các hành động của họ, và một số hình chụp bộc lộ tính kịch quá đáng đã bị
bà loại bỏ. Chiến lược tránh nhại này cho phép người xem hình thành ý kiến
riêng của mình.
Từ
đó, tính mơ hồ của tác phẩm còn dấy lên những câu hỏi về sự đáng tin cậy của
những thông tin tư liệu lịch sử có vẻ khách quan như là các bản báo cáo và ảnh
chụp vốn có ảnh hưởng lớn đến việc chiến tranh được truyền thông và nhớ đến như
thế nào. Lê sử dụng một máy ảnh cỡ lớn từ thời xa xưa mà các nhà nhiếp ảnh dùng
trong Nội chiến Bắc-Nam. Thời đó, vì thời gian rửa ảnh kéo rất dài và quy trình
phức tạp nên máy ảnh không thể bắt được cảnh hỗn mang và sự vận động của trận
đánh, do đó có nhiều bức hình là về những hậu quả trầm lặng của chiến tranh.
Các nhà nhiếp ảnh cũng chăm chú nhiều đến kỹ xảo, dàn dựng các cảnh cho giàu
tính kịch và hiệu quả thảm mỹ. Tác phẩm của họ đánh dấu sự mở đầu của lịch sử
nhiếp ảnh chiến tranh trộn sự thực với sự nhân tạo.
Với
sự phát triển của phim bắt nhanh và máy ảnh cầm tay 35 mm, chiến tranh đã được
đưa trực tiếp hàng ngày vào tận mỗi nhà, cuộc chiến tranh VN còn là cuộc chiến
đầu tiên được truyền hình. Những hình ảnh ấy đã đóng một vai trò then chốt cho
phong trào phản chiến và một số trở thành hình tượng mẫu mực cắm sâu vĩnh cửu
trong tâm trí chúng ta.
Trái
lại, cuộc chiến đang diễn ra ở Iraq về nhiều mặt lại không được nhìn thấy.
Tương đối ít nhà nhiếp ảnh được nằm tại chỗ, và nhiều hình ảnh được đưa lên
truyền thông đã bị chính phủ kiểm duyệt và lọc sạch.
Những
bức hình của Lê trong 29
Palms về nhiều mặt đã phản chiếu một cách phê phán cái nhìn bị lọc
sạch của truyền thông. Không có máu, không có sự tàn bạo, đó chỉ là sự hư cấu
và trình diễn về chiến tranh. Các lính thủy đánh bộ diễn tập vai trò của họ và
đóng vai đối thủ. Lê cảm thấy sự hiện diện của chiếc máy ảnh cũng nuôi dưỡng sự
giả tạo, nó tạo hứng cho những người đàn ông lấy dáng cho đúng vẻ “Lính thủy
đánh bộ”.
Lê
bày tỏ sự hiến mình cho kỹ thuật, tạo những bố cục làm nổi bật phong cảnh trên
đó màn kịch diễn ra, khiến con người trở thành khá vô nghĩa. Núi non và hoang
mạc ngự trị, hùng vĩ, cao cả, rộng lớn, biến các yếu tố chiến tranh thành nhỏ
bé giống như đồ chơi.
Ảnh: Tác phẩm Hành
quân đêm số 7, 2003-2004
Những
bức hình của Lê thú vị chính là ở sự mơ hồ và chúng làm nản lòng những kết luận
tiền định, vấn hỏi chúng ta thực sự biết được bao nhiêu từ những bức ảnh tài
liệu. Lê yêu cầu chúng ta đánh giá lại những hư cấu như mây che những con đường
mà chiến tranh được trải nghiệm, nhớ lại và trình bày.
Karen
Irvine,
Curator (Bảo tàng Nhiếp ảnh Đương đại MOCP)
Dịch
giả gửi trực tiếp cho BVN
----------------------------------------
Tuổi Trẻ
Thứ
Năm, 04/10/2012, 08:01 (GMT+7)
TT
- Nữ nhiếp ảnh gia gốc Việt An-My Lê vừa nhận giải thưởng MacArthur Fellowship
2012. Giải thưởng trị giá 500.000 USD này còn được gọi là “Genius grants” (giải
“Thiên tài”), là một trong những giải thưởng cao quý của Mỹ nhằm tôn vinh những
cá nhân có hoạt động sáng tạo đem lại hữu ích cho nhân loại.
Giải
“Thiên tài” năm nay được trao cho 23 cá nhân đang hoạt động ở nhiều lĩnh vực
khác nhau như khoa học, văn chương, âm nhạc, hội họa, giáo dục và phim ảnh. Bà
An-My Lê, 52 tuổi, vinh dự nhận được giải thưởng này vì những tấm ảnh của bà
“tiếp cận các chủ đề chiến tranh - phong cảnh từ những góc nhìn mới mẻ, tạo ra
những hình ảnh làm mờ đi ranh giới giữa hiện thực và hư cấu..., giàu tầng
lớp ý nghĩa” - ủy ban xét giải nhận xét.
Bà
An-My Lê, hiện sống và làm việc tại New York, sinh tại Sài Gòn năm 1960. Bà
cùng gia đình di cư qua Mỹ năm 1975. Bà lấy bằng thạc sĩ khoa học ứng dụng sinh
học của Đại học Stanford năm 1985 và bằng thạc sĩ nghệ thuật của Đại học Yale
năm 1993.
Bà
là nữ nhiếp ảnh gia hiếm hoi có những triển lãm ảnh ở các trung tâm văn hóa
nghệ thuật lớn tại Mỹ và cũng là người có duyên với các giải thưởng. Bà từng
nhận giải từ Quỹ John Simon Guggenheim Memorial Foundation (1997) và Quỹ New
York Foundation for the Arts (1996).
Ảnh
và phim của An-My Lê thường phân tích ảnh hưởng, hậu quả và biểu trưng của
chiến tranh. Dù là ảnh màu hay đen trắng, những tấm ảnh của bà thường tạo nên
một sự căng thẳng giữa phong cảnh thiên nhiên và sự biến đổi thành chiến trường
đầy bạo lực của nó.
Các
công trình nhiếp ảnh nổi tiếng của bà có thể kể đến như Việt Nam (1994-1998),
thể hiện những ký ức về một đất nước bị chiến tranh tàn phá nay được “hòa giải”
bằng phong cảnh thiên nhiên đầy sức sống; Small wars (Những cuộc chiến nhỏ)
(1999-2002) và 29 palms (29 cây cọ), mô tả cảnh lực lượng thủy quân lục chiến
Mỹ thực hiện kịch bản mô phỏng trận chiến ở Trung Đông.
Nhận
xét về đồng nghiệp Mỹ gốc Việt An-My Lê, nhiếp ảnh gia chiến trường Võ Trung
Dung, người Pháp gốc Việt, cho biết: “Công trình nhiếp ảnh của An-My về chiến
tranh khác biệt rất lớn với nghề nhiếp ảnh báo chí truyền thống như chúng tôi
đang làm. Trong các tấm ảnh của bà, ta sẽ không thấy cảnh chiến tranh, những
người cầm súng, những cảnh đau lòng. Công trình nhiếp ảnh của bà luôn là bên lề
hoặc sau cuộc chiến mà trong nghề chúng tôi gọi là “định vị cuộc chiến”. Kiểu
tư liệu hình ảnh đó nằm ở ranh giới giữa tư liệu nhiếp ảnh và dàn dựng tưởng
tượng. Những tấm ảnh của An-My không thể hiện cuộc chiến mà khơi gợi sự suy tư
về chiến tranh. Theo góc độ cá nhân, tôi không thích lắm kiểu nhiếp ảnh chiến
tranh đó nhưng tôi nghĩ rằng công việc của An-My đã góp phần giúp nhân loại suy
nghĩ về chiến tranh, về bạo lực, về tính phi lý của chiến tranh. Điều đó cũng
tốt quá đó chứ!”.
An-My
Lê
Người
thắng giải MacArthur Fellowship năm nay sẽ được tài trợ 500.000 USD trong vòng
năm năm, chia nhỏ theo từng quý, để có điều kiện theo đuổi tiếp tục công trình
của mình. Giải thưởng MacArthur Fellowship được quỹ John D. và Catherine T.
MacArthur Foundation trao hằng năm cho 20-40 công dân Mỹ, không giới hạn độ
tuổi, trong nhiều lĩnh vực. Ủy ban xét giải gồm 12 người, không công bố danh
tánh, sẽ phải làm việc cật lực để xét chọn từ hàng trăm ngàn ứng viên mỗi năm.
Trước đó từng có hai người Mỹ gốc Việt đoạt giải này vào năm 1987 và 2007.
Q.TRUNG - T.LIÊM
Tiền Phong
13:55 | 04/10/2012
TPO-
An My Lê, nữ giáo sư người Mỹ gốc Việt, vừa giành giải thưởng MacArthur, giải
thưởng còn được biết đến với tên gọi “Thiên tài” của Mỹ vì những cống hiến
trong lĩnh vực nhiếp ảnh.
Bà
nằm trong danh sách 23 người được vinh danh và nhận giải thưởng trị giá 500.000
USD/người, nhận trong 5 năm của quỹ.
Bà
An My Lê (52 tuổi) là giáo sư khoa Nhiếp ảnh, trường Đại học Bard ở
Annandale-on-Hudson, thuộc New York.
Bà
sinh ra ở Sài Gòn (Việt Nam) vào năm 1960 nhưng sang Mỹ vào năm 1975. Bà tốt
nghiệp đai học Standford nawm1985 và lấy bằng thạc sỹ nghệ thuật của Đại học
Yale năm 1993.
Từ
năm 1994 đến 1998, bà đã nhiều lần trở về Việt Nam, ghi lại những hình ảnh quê
hương đất nước trong thời bình. Kể từ đó, bà khám phá ra nhiều góc cạnh của
những cuộc chiến trong lịch sử nước Mỹ, trong đó có cuộc chiến ở Việt Nam và
Iraq.
Bà
An My Lê từng nhận được nhiều giải thưởng danh giá như học bổng từ quỹ John
Simon Guggenheim (1997) và quỹ New York danh cho nghệ thuật (1996).
Hai
tác phẩm nổi tiếng nhất của bà là bộ ảnh “Small Wars” chụp tại khu rừng ở
Virginia và “29 Palms”, mô tả cảnh lính Mỹ tập luyện trước khi được triển khai
ở Iraq.
Hiện
bà đang thực hiện dự án Events Ashore, tổng hợp các bức ảnh màu chụp từ nhiều
bờ biển và đại dương trên khắp thế giới (Tây Phi, Nhật Bản, Việt Nam, Kuwait,
Antarctica), nơi Hải quân và Thủy quân lục chiến Mỹ đóng quân và tập luyện.
Bà
cũng có những cuộc triển lãm lớn tại Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại San Francisco
(2006); Henry Art Gallery, Seattle (2007); Bảo tàng Ảnh đương đại, Chicago
(2006); Trung tâm Nghệ thuật đương đại, New York (2002).
Phan Yến
No comments:
Post a Comment