Khôi Nguyễn
Posted on November
29, 2019 by editor
Gần đây, thành phố Đà Nẵng muốn lấy tên
Alexandre de Rhodes để đặt tên đường phố. Một số trí thức, trong đó có nhiều
người giảng dạy lịch sử trong môi trường đại học, viết thư phản đối, cho rằng
Alexandre de Rhodes là một nhà truyền giáo mang tư tưởng thực dân, là kẻ có tội
với Việt Nam. Lá thư của họ khiến cho thành phố Đà Nẵng rút lại ý định.
Từ
điển Annamiticum Lusitanum et Latinum của Alexandre de Rhodes xuất bản năm
1651. Nguồn: https://vietnamesetypography.com
/
Tuy vậy, những người phản đối ấy hoàn toàn dựa
theo những niềm tin có tính tưởng tượng về Alexandre de Rhodes nói riêng và
hình ảnh “Tây phương” nói chung, được kiến tạo từ trước 1975 ở miền Bắc.
Bài viết này nhắc lại một cách ngắn gọn những
tưởng tượng về lịch sử ấy để gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về sử học, giáo dục
và chính trị đương đại.
Tưởng
tượng về Alexandre de Rhodes
Năm 1971, Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam,
trong quyển “Lịch sử Việt Nam”, tập 1, trang 304, trích dẫn lời Alexandre de
Rhodes thể hiện một âm mưu có tính thực dân của mình:
“Đây là một vị trí cần được chiếm lấy và chiếm
được vị trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài
nguyên phong phú”
“Lịch sử Việt Nam”, tập 1, trang 304
Alexandre de Rhodes. Nguồn: YouTube
Uỷ ban này chú thích rằng câu trích này được
trích từ sách “Divers voyages et missions en Chine et autres royaumes de
l’Orient” (Những cuộc hành trình và truyền giáo ở Trung Quốc và các
vương quốc khác ở phương Đông) của Alexandre de Rhodes, Paris, 1653, tr.
109-110.
Tuy vậy, người ta không thể tìm thấy câu nói ấy
trong tài liệu nói trên.
Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam là một định
chế nghiên cứu cấp quốc gia. Vị thế của nó bảo đảm cho uy tín học thuật của nó.
Thành ra từ đó, người ta cứ trích dẫn và lan truyền niềm tin lệch lạc như vậy về Alexandre
de Rhodes mà không cần kiểm tra lại. Từ lâu, những nhà nghiên cứu như
Vương Đình Chữ (1996), Nguyễn Đình Đầu (2006) đã chỉ ra lỗi trích dẫn này của Uỷ
ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Nhưng niềm tin ấy vẫn chưa mất. Lá thư phản đối đặt
tên đường của nhóm “trí thức” nói trên là một ví dụ.
Cũng trong sách này, Alexandre de Rhodes
nói đến việc xin nước Pháp cung cấp nhiều “soldats” để “chinh phục toàn cõi
phương Đông, đem về quy phục Chúa Jesus”. Cao Huy Thuần coi từ “soldats” là
“binh lính” quân sự, từ đó kết tội Alexandre de Rhodes mở đường cho thực dân
xâm lược Việt Nam, dù nhà truyền giáo ấy chết trước cuộc xâm lược ấy đến hai
trăm năm, còn Nguyễn Đắc Xuyên coi “soldats” không phải là “binh lính” theo
nghĩa đen mà chỉ “chiến binh Phúc âm”, tức giáo sỹ truyền đạo. Số người hiểu
theo cách hiểu của Cao Huy Thuần đông hơn hẳn cách hiểu của Nguyễn Đắc Xuyên,
các cuộc tranh luận, đúng hơn là cãi vã, về nghĩa của từ “soldats” hầu như
không đặt từ này trong toàn bộ văn bản của “Hành trình và truyền giáo” để xem
tinh thần thực sự của khái niệm cũng như của sách này là gì, có liên quan đến
việc đánh chiếm thuộc địa hay không.
Trí tưởng tượng nói trên về Alexandre de
Rhodes sở dĩ khó có thể nhạt phai vì nó nằm trong một tưởng tượng khác, lớn
hơn, về lịch sử cận đại. Tưởng tượng về lịch sử cận đại này cũng do Uỷ Ban khoa
học xã hội Việt Nam, từ tiền thân của nó là Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, xây dựng
nên từ giữa thập niên 1950, sau khi Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản
Việt Nam) lấy được miền Bắc.
Tưởng
tượng về thế kỷ 19
Tôi có làm những cuộc “phỏng vấn” nhỏ, dành
cho những bậc thức giả, bao gồm cả những người nghiên cứu và giảng dạy lịch sử,
một câu hỏi duy nhất: Trước thế kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của
Trung Quốc đối với Việt Nam là cuộc xâm lược nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng
chỉ huy của quân đội Trung Quốc? Ai là người đánh bại đội quân xâm lược đó?
Hầu hết người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc
xâm lược của Mãn Thanh thời Hoàng đế Càn Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân
xâm lược là Tôn Sỹ Nghị, người đánh bại đội quân xâm lược đó là Hoàng đế Quang
Trung.
Chỉ có một học giả duy nhất trả lời
đúng: Cuộc xâm lược cuối cùng là vào thế kỷ 19, thời Từ Hy thái hậu của
Mãn Thanh, chỉ huy đội quân xâm lược là Phùng Tử Tài, còn người đánh bại cuộc
xâm lược đó của Trung Quốc là… thực dân Pháp.
Tại sao hầu hết những người am tường sách vở ở
Việt Nam mà tôi có dịp được hỏi lại hoàn toàn không nhớ gì về cuộc xâm lược
trong thế kỷ 19 này của Trung Quốc? Vì nó hoàn toàn bị xoá khỏi lịch sử. Nó
không được dạy trong chương trình sử ở cả bậc đại học lẫn trung học.
Câu
chuyện bị lãng quên: Nước Đại Nam trước hai “gọng kìm lịch sử” Pháp – Mãn Thanh
Cuối thế kỷ 19, Việt Nam đối diện với hai
siêu cường, Pháp và Mãn Thanh, một bên đến từ phương Tây, mang theo nền văn
minh của chủ nghĩa tư bản, một bên là thiên triều ngàn năm vẫn đang chìm đắm
trong ảo giác mình là trung tâm của thế giới.
Ngay sau khi Pháp lấy Nam Kỳ, Mãn Thanh cũng
lập kế hoạch đánh chiếm miền Bắc. Mãn Thanh quyết tâm đánh chiếm Bắc Kỳ vì Việt
Nam đã suy yếu, nhằm bảo vệ mô hình thiên triều – chư hầu ngàn năm, còn Pháp
quyết lấy nốt phần còn lại. Hai bên tất yếu bước vào một cuộc đụng đầu lịch sử,
dần dần đi đến chỗ đánh nhau ác liệt ngay trên lãnh thổ Việt Nam, qua một loạt
trận đánh như Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Tuyên Quang năm 1883.
Mãn Thanh đã quyết tâm đến mức dốc tổng lực
đánh bại Pháp trên đất liền, chiếm toàn bộ vùng trung du phía Bắc, áp sát khu vực
đồng bằng sông Hồng. Thủ tướng Pháp phải từ chức. Nhưng quân Pháp lật ngược thế
cờ bằng cách mở ra chiến trường trên biển, đánh chiếm đảo Đài Loan và huỷ diệt
Bắc Dương hạm đội của Mãn Thanh ở Phúc Châu.
Pháp – Thanh ký Hiệp ước Thiên Tân 1885. Nguồn:
Laurence Oliphant (1860).
Narrative
of the Earl of Elgin’s Mission to China and Japan in the Years 1857, ’58, ’59.
p. 279.
Mãn Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục
tiêu giữ lại vùng Bắc Kỳ, nhưng khi phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn
Thanh buộc chấp nhận mất toàn bộ chư hầu Việt Nam.
Hiệp ước Thiên Tân 1885 giữa Pháp và Mãn
Thanh đã tạo ra một bước ngoặt lịch sử cho cả Mãn Thanh và Việt Nam.
Nếu như việc phải nhượng địa Hong Kong cho nước
Anh chỉ khiến Mãn Thanh thức tỉnh về khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn
giữ vững niềm tin vào hệ thống thiên triều – chư hầu, thì đến khi mất chư hầu
Việt Nam vào tay Pháp, ý thức hệ và cấu trúc thiên triều – chư hầu của họ bị
đánh tận gốc rễ. Việc Mãn Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu trúc thiên triều
– chư hầu đã khiến Nhật Bản, lúc này đã trở thành một cường quốc, quyết định
giành lấy một chư hầu khác của Mãn Thanh là Triều Tiên. Mãn Thanh tiếp tục mất
Triều Tiên trong cuộc chiến Nhật Thanh 10 năm sau đó.
Từ đó, việc cấu trúc và ý thức hệ thiên triều
– chư hầu bị sụp đổ toàn diện trong thế kỷ 19 trở thành một trong những nội
dung chủ yếu của ý niệm “thế kỷ ô nhục” trong chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa hiện
đại.
Còn ở Việt Nam, do cuộc chiến Pháp – Thanh ảnh
hưởng quá lớn đến số phận Việt Nam, nên dù xoá cuộc chiến này khỏi Sách giáo
khoa sử cho học sinh phổ thông, ngày nay, các sử gia ở Hà Nội vẫn phải dạy học
sinh về một số điều liên quan đến cuộc chiến ấy: đội quân Cờ Đen của tướng Mãn
Thanh là Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Thiên Tân 1885.
Đó là sự kiện không thể không dạy. Quân đội
Lưu Vĩnh Phúc của Mãn Thanh đã lập hai chiến công là giết hai chỉ huy của Pháp
trong hai trận ở Cầu Giấy, còn Hiệp ước Pháp – Thanh 1885 thì mở ra trang sử mới
của Việt Nam. Nhưng, nói về Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Pháp – Thanh mà lại không
nói gì về cuộc chiến tranh quyết định quyền kiểm soát Việt Nam của hai nước
Pháp – Thanh này, các sử gia của chúng ta đã cho học sinh phổ thông học một bức
tranh lịch sử cận đại theo kiểu… Pháp xâm lược Việt Nam, rồi đột nhiên Mãn
Thanh xuất hiện ký một hiệp ước quyết định số phận chúng ta.
Lưu Vĩnh Phúc vốn là quân Thái Bình Thiên Quốc,
bị triều đình Mãn Thanh đánh bại, chạy sang Việt Nam làm thổ phỉ, gây ra vô số
tội ác cho dân chúng. Triều đình Huế không thể đánh dẹp, phải nhờ Mãn Thanh
đánh giúp. Khi triều đình Mãn Thanh cử quân đội vào Việt Nam để đụng đầu với
Pháp, quân đội triều đình Mãn Thanh đã thâu nạp luôn đội quân thổ phỉ Lưu Vĩnh
Phúc, ban cho phẩm hàm triều đình, thay vì tiêu diệt nó.
Sách giáo khoa sử lớp 7 hiện nay ở Việt Nam
dùng khái niệm “quân ta” để gọi Lưu Vĩnh Phúc. Lối giáo dục này bắt đầu từ hơn
70 năm trước, khi sử gia Trần Văn Giàu và Trần Huy Liệu ở Hà Nội bắt đầu xây dựng
bức tranh “lịch sử cận đại”. Lưu Vĩnh Phúc có tờ Hịch kêu gọi binh lính của
mình đánh Pháp, trong đó, đoạn đầu tiên, ông nói rõ mục đích của cuộc chiến: Việt
Nam là chư hầu của Mãn Thanh, nay Pháp sang chiếm mất chư hầu của ta, ta và
Pháp là kẻ thù không đội trời chung.
Sử gia Trần Văn Giàu làm gì khi trích dẫn bài
Hịch này vào bộ sử “Bắc kỳ kháng Pháp”? Ông cắt bỏ đoạn mở đầu thể hiện rõ ý thức
hệ và mục đích chiến tranh của họ Lưu. Nhờ thế, sử gia họ Trần dễ dàng gắn huân
chương “tình hữu nghị chiến đấu của hai dân tộc Việt Trung” cho Lưu Vĩnh
Phúc.
Lịch sử
của sự phân đôi phải / trái
Xoá bỏ cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc
chiến Pháp Thanh vào thế kỷ 19, các sử gia miền Bắc xây dựng thế kỷ 19 theo mô
hình phân đôi: một bên là thực dân Pháp xâm lược, nhà Nguyễn hèn nhát hàng giặc,
một bên là “dân tộc” anh hùng kháng chiến chống ngoại xâm. Trên cái nền bức
tranh phân đôi con người làm hai tuyến, bên trái là “xâm lược phương Tây” và
bên phải là “nhân dân anh hùng”, người ta lần lượt điêu khắc các nhân vật lịch
sử sao cho ăn khớp với bức tranh ấy: Alexandre de Rhodes dĩ nhiên thuộc
bên trái bức tranh, phong trào văn thân (vốn không có ý niệm về lòng ái quốc mà
chỉ chống người theo đạo Thiên chúa giáo để bảo vệ hệ thống phong kiến nơi họ
có thể tìm thấy vị trí xã hội của mình) được xếp vào bên phải.
Vẽ bức tranh thế kỷ 19 theo cách ấy, các sử
gia của Viện Sử học ở Hà Nội từ thập niên 1950 dễ dàng tiếp tục vẽ bức tranh của
giai đoạn tiếp theo như cách chúng ta thấy trong các giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam” ngày nay: “nhân dân” tuy anh hùng nhưng không có đường lối đấu
tranh đúng đắn, liên tục thất bại cho đến khi Đảng Cộng sản ra đời, mang về Việt
Nam vũ khí tối tân là con đường cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhân vật trung tâm của bức tranh. Lịch sử quốc gia thế kỷ 20 được đồng nhất với
lịch sử Đảng.
Cách học ấy bắt đầu từ giữa thập niên 1950, đến
nay đã kéo dài khoảng 4 thế hệ.
Phục hồi
ký ức?
Cuộc chiến Pháp – Thanh và sự thất bại của Việt
Nam khi bị kẹt giữa hai siêu cường ấy đã được sử gia hiện đại đầu tiên của Việt
Nam, Trần Trọng Kim, phân tích kỹ lưỡng trong “Việt Nam sử lược”, bộ sách giáo
khoa lịch sử đầu tiên của nước Việt Nam, xuất bản vào 1919-1920. Cuốn sách đã bị
cấm ở miền Bắc sau 1954 và toàn quốc sau 1975. Nếu chấp nhận phục hồi ký ức về
cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp Thanh thế kỷ 19, chúng ta sẽ phải
chấp nhận bức tranh thế kỷ ấy như người cha của nền sử học Việt Nam đã khắc họa
một cách khách quan: Đó là thế kỷ mà Việt Nam bị mắc kẹt vào hai gọng kìm Pháp
– Thanh, bị giằng xé giữa hai mô hình “chư hầu của thiên triều phương Bắc” và
“thuộc địa của thực dân phương Tây”, bị buộc phải lựa chọn giữa hai con đường
“Tây phương hoá” hay “tiếp tục nằm trong vòng ảnh hưởng của vùng văn hoá chữ
Hán”.
Điều đó có nghĩa là bức tranh lịch sử từ đầu
thế kỷ 20 cũng cần được vẽ lại toàn bộ. Trong bức tranh này, vị trí của các lực
lựợng chính trị, các phong trào xã hội, các vấn đề thuộc phạm vi tinh thần như
lịch sử tư tưởng, văn hoá, văn học nghệ thuật… cũng sẽ được tái định vị một
cách căn bản.
Trần
Trọng Kim, người cha của sử học hiện đại Việt Nam, 1883-1953
Năm 1987, sử gia Nhật Bản Tsuboi
Yoshiharu xuất bản “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”, phân tích thế
kỷ 19, trọng tâm là thời Tự Đức, như là thời đại Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu
cường. Cuốn sách được các học giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi Trân Phượng Tăng Văn Hỷ,
Vũ Văn Kính dịch ra tiếng Việt và Trần Văn Giàu là người viết lời giới thiệu.
Trần Văn Giàu đã đánh giá cách tiếp cận của Tsuboi là “mới mẻ” mà “quên” mất rằng,
cách hiểu ấy về thế kỷ 19 đã ra đời ngay từ đầu thế kỷ 20, trước sử gia Nhật Bản
ấy đến bảy thập niên, trong “Việt Nam sử
lược”, cuốn sách mà chính các sử gia kiêm chính trị gia ở Hà Nội đã cấm
đoán từ thập niên 1950 để độc quyền một cách kể chuyện lịch sử duy nhất.
Nhận thức về lịch sử (trả lời câu hỏi “chúng
ta đến đây từ đâu và như thế nào?”) và lựa chọn chính trị (trả lời câu hỏi
“chúng ta làm gì bây giờ?”) chỉ là hai mặt của một tờ giấy. Hiểu theo cách đó,
như ta thấy qua câu chuyện phản đối đặt tên đường cho Alexandre de Rhodes
nói trên, những lựa chọn của người Việt Nam hôm nay vẫn chìm đắm trong một
màn sương mù của tư duy được đình hình từ giữa thế kỷ trước bởi Ban nghiên cứu
Văn Sử Địa.
Lãng quên bài học thất bại khi đối diện yêu cầu
lịch sử phải lựa chọn giữa Pháp – Thanh với tư cách là hai mô hình, hai thế giới,
Việt Nam ngày nay tiếp tục đối diện câu hỏi ấy một lần nữa.
Đại học Oregon
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
*
*
Nguồn: Alexandre de Rhodes và sự tưởng
tượng về lịch sử cận đại của nền sử học Việt Nam. BY KHOIN · THÁNG MƯỜI
MỘT 27, 2019. DCVOnline minh họa bổ túc.
No comments:
Post a Comment