2:25 PM Dec-14-2013
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ
(Vũ Đình Liên
Chưa bao giờ trong lịch sử con người lại có nhiều
thay đổi như trong thời đại ngày nay. Bố có cảm tưởng con người trải cả trăm
năm chỉ trong chục năm. Thời bố mới lớn, máy tính là một cái gì cao siêu, nay
thì ở trong mỗi gia đình. Những internet, laptop, tablet, GPS quá sức phổ thông
ngày nay là những cái bố chưa bao giờ tưởng tượng ra được khi bố mới đến Canada
gần ba mươi năm trước. Có những cái rất xa rất xưa nhờ máy tính, nhờ mạng, đã
được mang lại ngay trước mắt. Nhưng ngược lại, khi con người thay đổi để thích
nghi với môi trường biến động nhanh chóng ở chung quanh, có những điều quen
thuộc trong vài chục năm trước đã trở thành xa lạ ngày nay. Một trong những cái
đó là những giá trị mà trước kia được coi là mẫu mực của người đàn bà trong xã
hội Việt Nam. Bố kể lại cho các con cuộc đời của bà nội, một người đàn bà tiêu
biểu của thế kỷ trước. Một số điều bố biết qua lời kể của bà, một số điều từ
người thân như những bà chị của bà vào Sài gòn thăm sau 1975, nhưng phần lớn
thì bố lấy ra từ ngay trí nhớ của bố.
Ông bà cố, bố
mẹ của bà nội, thuộc tầng lớp tương đối khá giả ở nông thôn miền Bắc. Ông bà cố
có độ dăm mẫu ruộng, vừa có tá điền vừa làm ruộng lấy. Ông cố có mua một hàm
Chánh Hội trong làng, gọi là có chút phẩm hàm trong làng. Tuy tương đối khá
giả, nhưng ông bà cố vốn tính cần kiệm của miền Bắc quanh năm lụt lội hạn hán
mất mùa đói khổ, nhà thường ăn cơm chấp quanh năm, nghĩa là cơm độn, độn ngô
hay độn khoai lang. Ông bà cố các con lại theo thói xưa không cho con gái đi
học, nghĩ rằng con gái đi học thì chỉ viết thư cho trai nên nhà có bốn
người con gái không ai được đi học cả. Con gái đến tuổi lớn là bước lên khung
cửi dệt vải. Chỉ có bà nội các con, thèm biết chữ vì thấy nhiều người khác đọc
sách được nên dùng tiền bòn nhặt những dịp lể Tết, hội hè, buổi tối sau khi
xong việc dệt vải, bước xuống khung cửi, mượn một tá điền một tối hai xu dạy
cho biết đọc biết viết. Chỉ sau vài tháng là bà nội con biết đọc biết viết kha
khá rồi sau đó học một mình. Bà cố cũng ngạc nhiên, bảo ông cố "Quái, con
T. này học bao giờ mà biết đọc vanh vách vậy nhỉ?"
Đến tuổi lấy
chồng, đầu tiên ông bà cố tính gả bà nội các con cho một người gia đình khá giả
trong làng nhưng bà nội cương quyết không chịu, vì chê anh này không có học.
Ông bà cố ép không được đành chịu. Sau có một bà mai giới thiệu ông nội các con
ở làng bên. Theo lời bà mai thì ông nội tuy nhà nghèo nhưng có tiếng học giỏi.
Lúc đó ông nội mới học đệ tam niên ban Thành Chung, tức tương đương lớp tám bây
giờ. Các con đừng cười, vì thời xưa ông nội các con đi học trễ, tuy học lớp tám
nhưng lúc đó cũng đã trên mười tám tuổi chứ không còn nhỏ nữa. Mẹ của ông nội
là người hiền, ông cố bố của ông nội chết khi ông nội các con, người con út,
mới lên ba tuổi. Bà cố ở vậy, buôn bán nuôi mẹ chồng và ba con trai. Khi
bà nội lấy ông nội, mãi đến khi động phòng, bà nội mới biết mặt ông nội. Chuyện
này phổ thông thời đó, nhưng chắc chắn các con ngày nay không tưởng tượng ra
được. Đại gia đình bà cố gồm cả ba con trai đã lập gia đình nên nhà cửa chật
chội, sau một năm lấy nhau thì ông bà nội các con ra ở riêng.
Bà nội là người tháo vát, sau khi ông nội đậu Thành
Chung, tức tốt nghiệp lớp chín, ngỏ ý muốn tiếp tục học thêm thay vì đi làm, bà
đã tìm cách buôn bán nuôi chồng ăn học. Bà buôn hàng gánh, gánh những mặt hàng
từ vùng Việt Minh kiểm soát, chính yếu là vải vóc dệt tay, sang vùng tề (vùng
Pháp kiểm soát) và ngược lại từ vùng tề sang vùng Việt Minh những mặt
hàng như thuốc tây, đá lửa.... Mỗi chuyến hàng gánh là gánh trên hai chục cây
số, cả đêm, tránh đồn bót vùng tề lẫn trạm kiểm soát vùng Việt Minh. Bị bắt thì
nhẹ ra hàng bị tịch thu mà nặng thì tù tội có khi mất mạng. Vì thế, gánh hàng
chỉ gánh đi ban đêm, đến sáng mới đến được nhà người quen giao hàng rồi lại đi
sắm hàng để đến tối lại gánh chuyến hàng trở về. Đầu tiên thì gánh thuê, nghĩa
là vốn người khác bỏ ra, bà nội chỉ lấy công. Một thời gian sau bà mới có đủ
vốn để sắm gánh hàng buôn riêng. Có lần bà gánh hàng, về đến nhà thì ngày hôm
sau là nằm ổ, nghĩa là sinh bác N. chị lớn nhất của bố. Sinh xong bà mượn vú
nuôi, ba ngày sau bà nội thắt bụng lại rồi đi buôn tiếp. Cảnh này gọi là:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng nước mắt nỉ non
Phải có một ý
chí rất mạnh mới làm được những điều đó. Lúc vượt cạn bà chỉ một mình xoay xở
là chính, vì ông nội đi học nơi xa, không gần nhà. Mãi đến khi ông nội đậu Tú
Tài rồi động viên vào quân trường Thủ Đức trong Nam thì bà mới lên Hà Nội, gọi
là biết chút văn minh tỉnh thành. Rồi chẳng bao lâu, hoàn cảnh đất nước chia
đôi, ông bà nội các con di cư vào Nam, bỏ lại quê hương miền Bắc chôn nhau cắt
rốn và hầu như toàn bộ đại gia đình hai bên. Ở lại miền Bắc, ông bà cố thời
gian Cải Cách Ruộng Đất bị đấu tố là địa chủ, đến cả người thân cũng không dám
giúp đỡ, sau may mắn được hạ xuống hàng phú nông, sống hơn chục năm sau rồi
mất. Sau 1975, bà nội vẫn ngậm ngùi không có dịp đền đáp công ơn dưỡng dục của
bậc sinh thành, nhưng biết sao được.
Vào trong
miền Nam, trong thời gian đầu của đệ nhất Cộng Hòa, ông nội trong quân đội
nhưng làm việc hành chánh ở Vũng Tàu nên có thời gian học thêm buổi tối cho đến
khi đậu được cử nhân Luật. Trong thời gian đó, bà tuy có năm con vẫn tìm cách
làm việc thêm kiếm tiền. Bà mướn một người giúp việc nhà, rồi làm mắm cua, mắm
cáy hàng tháng từ Vũng Tàu mang về Sài gòn bán cho những người quen. Chắc chắn
là mắm của bà nội không có tiếng như mắm Bà Giáo Thảo, nhưng đó là một nguồn
thu nhập đáng kể trong thời gian gia đình ông bà nội ở Vũng Tầu.
Ông nội là mẫu người không để ý nhiều đến vật chất,
đi làm về giao hết tiền lương cho bà tiêu pha sao thì tiêu pha, ngoài chuyện
dạy con cái học hành chỉ thích nói chuyện văn chương chuyện chính trị với bạn
bè cùng tâm tính. Do đó gánh nặng tài chánh, lo lắng chi tiêu trong gia đình
coi như ở trên vai một mình bà nội các con.
Sau 1963, cả
nhà dọn về Sài Gòn rồi một hai năm sau đó, ông nội chuyển ngành và dọn trước ra
Nha Trang làm việc. Bà nội các con và các anh chị em của bố vẫn ở lại Sài Gòn
một thời gian. Bà lấy tiền dành dụm, chạy đầu này đầu kia mua sắt thép xi măng
xây nhà. Một thiếu phụ chưa đi học, đứng ra mướn thầu khoán, chỉ huy thợ thuyền
xây một căn nhà ba tầng thì không phải dễ. Cái nào bà không biết thì hỏi những
người có kinh nghiệm. Nhà nào cũng vậy, xây ở chưa dược dăm tháng, bà thấy
thì có lời lại bán lại. Gặp thời buổi chiến tranh sôi động, nhà cửa tại
Sài Gòn lên giá nhanh chóng, bà xây nhà hai lần như vậy thì kiếm được một số
vốn khá lớn thời đó.
Khi cả nhà di
chuyển ra Nha Trang, ông bà nội các con có sang lại một nhà trong cư xá quân
đội, dĩ nhiên giá cả rẻ hơn nhiều so với bên ngoài. Lúc này người giúp việc đã
nghỉ vì vật giá leo thang, bà không kham nổi. Hơn nữa các bác các chú đã lớn có
thể phụ đỡ đần việc nhà. Ngoài việc nội trợ, bà còn mua nhà mua đất ở Nha Trang
và cả ở Cam Ranh để đầu tư, nhưng không sinh lời được như giai đoạn ở Sài Gòn.
Lúc này lương ông nội không còn đủ để chi phí trong gia đình nên bà phải lấy
tiền để dành từ trước ra phụ thêm. Bố còn nhớ trong suốt bẩy năm sống tại Nha
Trang, những lần cả gia đình đi ăn tiệm có thể đếm trên đầu ngón tay, và những
dịp như vậy cũng thường là chỉ đến tiệm phở khi có gia đình ông bà L. là
chị họ ông nội từ Sài Gòn ra chơi. Sau này bà thỉnh thoảng lại ân hận để con
cái khổ cực, nhưng bố hiểu cái ưu tư lớn nhất đeo đẳng hầu như suốt đời của bà
là có đủ tiền lo cho các bác các chú và bố học hành đến nơi đến chốn, không
phải thất học như bà.
Rồi đến cuộc đổi đời 30/04/1975. Ông nội như bao
nhiêu sĩ quan và công chức khác của phe thua cuộc, đã khăn gói vào trại học tập
cải tạo. Đây là một ngôn từ hoa mỹ, thực chất chỉ là một hình thức ở tù, không
phải là tù giam thường mà tù khổ sai. Người đi vào tù thì cực thân cực trí
nhưng không phải bương chải vì mọi chuyện nằm ngoài tầm tay của họ. Chuyện đó,
chuyện lo toan xoay xở để gia đình sống còn, là chuyện của những người còn lại
bên ngoài trại tù.
Bố không muốn
nhắc lại những lỗi lầm tả khuynh ấu trĩ của nhà cầm quyền lúc đó, nhưng thực sự
những người bên phe thua cuộc bị coi như một loại công dân hạng hai, nếu không
có lý do ở lại thành phố thì bị liệt vào thành phần ăn bám xã hội, sẽ bị cưỡng
ép đưa đi vùng kinh tế mới. Với các con sinh đẻ bên Canada, danh từ vùng kinh
tế mới xa lạ với các con lắm. Đây là một vùng đất hoang, khô cằn, dĩ nhiên cần
bàn tay người khai phá. Tuy nhiên các con ở bên này, bạn bè con mỗi người một
cá tính một khả năng, các con chọn hướng học, chọn nghề nghiệp theo năng khiếu
của mình. Nhà cầm quyền lúc đó không nghĩ vậy, thái độ trịch thượng với phe
thua cuộc và trí óc hẹp hòi của họ cho rằng chỉ có cày ruộng hay làm việc
trong nhà máy mới là sản xuất, còn không là ăn bám xã hội tất.
Trở lại
chuyện lo toan xoay xở của những người ngoài vòng tù tội để sống còn, lúc đó
mới lại thấy tài tháo vát của bà nội các con. Chỉ một hai tháng sau khi ông nội
đi vào trại tù, bà và bác T. anh của bố, đã lên Hóc Môn, tìm những người quen
học nghề dệt chiếu. Ý bà là muốn tạo một lý do để gia đình ở lại Sài Gòn vì ở
thành phố lớn dù sao cũng đỡ bị đàn áp và dễ kiếm sống hơn. Học nghề xong, bà
đặt giàn dệt chiếu ở nhà. Phòng khách dưới nhà của ông bà nội, sofa bàn ghế thì
đem bán hết, còn lại đục lỗ trên nền gạch làm chỗ dệt chiếu. Thật sự dụng cụ
dệt chiếu cũng đơn giản, chỉ cần một ghế dài, một go dệt và bốn cọc sắt bốn góc
để căng go chiếu là xong. Bác T. sau khi lập giàn dệt chiếu tại nhà thì đi
quanh xóm đễ lập giàn dệt chiếu cho những người trong phường cùng hoàn cảnh như
gia đình bà nội các con, muốn tìm một chỗ bám víu vào thành phố khỏi bị đẩy đi
kinh tế mới. Một giàn dệt chiếu như vậy, vừa dựng vừa chỉ cách dệt, làm độ một
ngày là xong, bác T. lấy công khoảng mươi dồng. Lúc đó lương tháng của một công
nhân trung bình khoảng 80 đồng. Bà nội còn được bầu làm tổ trưởng tổ dệt
chiếu của phường vì là người tiên phong mang nghề dệt chiếu về phường. Vậy là
các con của bà, nếu không học đại học hay đi làm, với nghề dệt chiếu được coi
như nghề lao động không ăn bám xã hội, có lý do để sống tại thành phố. Mỗi đứa
con được cắt giờ dệt chiếu tại nhà, sao cho từ sáng đến tối lúc nào công an đi
qua lại trước nhà cũng thấy có người đang dệt chiếu, nghĩa là đang lao động.
Còn phần bà thì lại đi phe, nghĩa là đi ra chợ xa nhà một chút, mua qua bán
lại, mua đủ loại, thường là quần áo cũ, mua xong bán lại kiếm lời. Các con có
trong thời buổi ấy mới thấy bà nội như một gà mẹ, thấp thoáng bóng diều hâu
lượn thì vươn cánh ra che chở cho gà con.
Chút vốn
liếng dành dụm cả đời, đến thời phong trào vượt biên nổi lên, bà nội đã dùng nó
để gửi lần lượt từng đứa con ra đi tìm tự do. Mỗi lần tiễn con đi là mỗi lần
đứt ruột, vì với bao hiểm nguy chờ đón trước mắt, không biết có còn gặp lại
nhau nữa không. Đến khi bố là người con vượt biên sau cùng thì coi như bà nội
gần như trắng tay. Cũng may lúc đó bác T. và bác O. đã đi làm được, gửi tiền về
nuôi ông bà nội và cô út. Và bà nội cũng chỉ nhận tiền tối thiểu, đủ cho những
sinh hoạt căn bản nhất trong nhà. Tiền còn dư thì bà nội lại theo các thầy các
ni trong chùa Kim Cương gần nhà, đi mọi nơi tặng quà, làm việc từ thiện. Bà nội
vẫn thường bảo đó là một trong những giai đoạn đẹp nhất đời bà nội vì bà nội
không còn phải lo âu, không còn phải ký cóp dành dụm cho tương lai con cái nữa.
Khi sang đến
Canada, như các con cũng thấy, bà nội hầu như chỉ quanh quẩn trong nhà tối
ngày. Cuối tuần rảnh rỗi bố mới chở bà nội lên chùa. Giao tiếp khó khăn, tiếng
Anh không biết, cuộc sống ở đây dù đã trên hai mươi năm với ông bà nội cũng
chẳng phải là chốn quen thuộc, nơi chôn nhau cắt rốn cho được. Biết làm sao
được? Sống ở đây thì cảm thấy xa lạ, sống ở Việt Nam thì suốt ngày thương con
nhớ cháu. Cũng coi như sự đau khổ của ông bà nội là một phần đau khổ của dân
tộc Việt Nam.
Bà nội qua đời, nhẹ nhàng chóng vánh, bố cũng mừng
khi bà nội không phải chịu nhiều cảnh khổ thứ ba của kiếp người. Cuộc đời của
bà, cũng như của trăm nghìn người đàn bà Việt Nam thế kỷ trước, không có
niềm vui riêng, chỉ coi chồng con là niềm vui của chính mình. Bố không khuyên
con gái của bố như vậy, vì bố biết mỗi thời mỗi khác. Cái đúng của trăm năm
trước không còn là cái đúng thời nay. Nhưng bố nhắc lại chuyện đời bà nội cho
các con biết, như là kể lại cho các con nghe một câu chuyện đẹp. Những cái này
rồi sẽ dần dần lui vào quá khứ. Để rồi, chỉ có những người tò mò, thổi lớp bụi
dầy của thời gian, mới tìm lại được.
No comments:
Post a Comment