Ts.
Nguyễn Đình Thắng
Posted on Thursday, December 05, 2013 @ 19:35:03 EST
Làm công tác nhân đạo hay không ở Việt Nam là đề tài
tạo bất đồng râm ran trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Người thì cho rằng
làm việc nhân đạo là tiếp tay duy trì chế độ gây ra các vấn nạn xã hội. Người
lại nghĩ rằng đồng bào khốn khổ thì phải giúp đỡ vì trách nhiệm lương tâm.
Thực ra hai cách nhìn không loại trừ nhau.
Cứu người găp nạn là trách nhiệm nhân bản giữa người
với người, chứ đừng nói giữa đồng bào với nhau. Nhưng đối với các vấn nạn xã
hội mang tính cách hệ thống chúng ta không thể dừng ở hoạt động nhân đạo. Lấy
nạn buôn người làm ví dụ. Nó xảy ra khắp nơi, từ nông thôn đến thị thành, từ
Bắc xuống Nam, từ đồng bằng đến thượng du. Thủ phạm là những cá nhân bất lương
hoạt động cá lẻ, mà cũng là các công ty quốc doanh xuất cảng hàng chục nghìn
người lao động mỗi năm dưới ô dù của cơ quan chính quyền.
Từ 1999 đến nay BPSOS đã giải cứu và giúp đỡ khoảng
4 nghìn đồng bào bị buôn làm nô lệ (và trên một nghìn nạn nhân thuộc các
nước khác). Đó là hoạt động nhân đạo. Con số nghe nhiều nhưng chẳng thấm vào
đâu vì cứ một người được cứu thì thêm nghìn người nữa mắc nạn, chẳng khác nào
bôi thuốc đỏ cho con bệnh trầm kha. Dừng ở hoạt động nhân đạo thì tệ trạng sẽ
ngày thêm trầm trọng và càng lan rộng.
Muốn trị tận gốc một vấn nạn xã hội mang tính hệ thống,
nhất thiết phải cùng lúc tác động đến chính sách và huy động quần chúng nhập
cuộc.
Ở thượng tầng, chúng ta cần tranh đấu để chính sách
và luật pháp công nhận những nhân quyền liên hệ như là những nguyên tắc phổ cập
áp dụng đồng đều khắp xã hội. Trong lĩnh vực buôn người thì đó là quyền thụ
hưởng thành quả lao động; quyền bất khả xâm phạm thân thể -- không ai có quyền
giam giữ, đánh đập, hành hạ mình như nô lệ; quyền đòi công lý đối với thủ phạm
đã lường gạt, bóc lột mình... Chính vì những quyền này không được công nhận nên
chúng đã bị vi phạm trên toàn xã hội một cách vô tội vạ.
Để thay đổi chính sách, năm 2008 BPSOS đồng sáng lập
Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới Ở Á Châu (CAMSA). CAMSA đã huy động áp lực quốc tế,
nhất là Hoa Kỳ, để Việt Nam phải thông qua luật chống buôn người và ký hiệp
định thư LHQ về chống buôn người trong năm 2011. Khung luật mới này công nhận
những quyền con người kể trên như những nguyên tắc phổ cập áp dụng toàn xã hội.
Nhưng thay đổi chính sách không, chưa đủ. Ở hạ tầng
mọi thành phần xã hội phải nhập cuộc thì mới ngăn chặn và rồi đẩy lùi được sự
tràn lan của nạn buôn người. Nghĩa là chúng ta cần giúp người dân khắp nơi tập
hợp lại để cùng giải quyết vấn nạn. Bởi vậy Liên Minh CAMSA chủ trương yểm trợ
các tổ chức tôn giáo ở trong nước hoạt động chống buôn người. Một môi trường mà
người dân tự động tập hợp, tổ chức với nhau để hoạt động từ thiện hay giải
quyết các vấn đề xã hội như vậy được gọi là xã hội công dân; một xã hội công
dân phát triển là nền móng cho dân chủ.
Vì sợ dân chủ, chính quyền Việt Nam cấm tiệt không
cho người dân nhập cuộc. Nhưng họ lại cho một vài tổ chức ở hải ngoại vào trong
nước hoạt động chống buôn người với điều kiện: không được đụng đến nạn buôn lao
động vì ảnh hưởng chương trình xuất khẩu lao động của nhà nước, chỉ được hoạt
động trong phạm vi địa dư chỉ định, và phải nép mình dưới sự kiểm soát của các
tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản, như Hội Phụ Nữ. Trong khi đó các tổ chức
tôn giáo ở trong nước có tầm vóc và tiềm lực, sẵn sàng nhập cuộc thì bị áp chế
và cấm cản. Nhà nước chỉ vờ vĩnh để qua mắt thế giới.
Tóm lại, trong hoàn cảnh Việt Nam, chúng ta không
thể chỉ hoạt động nhân đạo mà còn phải tranh đấu nhân quyền và dân chủ nếu muốn
giải trừ sự thống khổ cho dân và mối nguy cho xã hội. Biết vậy, nhưng người ta
lại có thể lập luận rằng “tôi chỉ chọn làm việc này, để các việc kia cho ai
khác”. Ai cũng nói vậy thì mọi người sẽ chỉ làm đúng một việc: cứu trợ nhân đạo
vì nó quen thuộc, dễ dàng và thuận tiện nhất. Đây là tình trạng bất cập phải
vượt qua nếu muốn giải quyết vấn đề từ ngọn đến gốc.
Và chúng tôi đang làm cả ba: nhân đạo, nhân quyền và
dân chủ.
No comments:
Post a Comment