Nguyễn Ngọc Bảo
Có 3 lý do để trình bày đề tài này :
1. Thời sự
với nhiều lời kêu gọi hình thành Xã Hội Dân Sự nhằm thúc đẩy tiến trình dân chủ
hóa, như trang mạng diendanxahoidansu.wordpress.com với Lời Kêu Gọi ngày 23/9
Tuyên Bố về Thực Thi Quyền Dân Sự và Chính Trị (Dân sự civic rights, Chính Trị
Polical Rights), hiện nay 748 người đã ký sau 6 lần công bố trong đó đa số là
người trong nước,
2. Xã Hội Dân
Sự (XHDS) đóng góp nhiều vào sự phát triển của xã hội Việt Nam dân chủ tương
lai. Sự hình thành của xã hội dân sự nâng cao ý thức cần phải trao đổi và làm
việc chung với nhau của người Việt một cách hài hòa, dân chủ.
3. Xã Hội Dân
Sự qua khả năng tụ quần rộng lớn và trên nhiều lãnh vực xã hội sẽ giúp cho chủ
trương Đấu Tranh Bất Bạo Động (ĐTBBĐ) hữu hiệu. Vì số đông là một điều kiện nền
tảng của ĐTBBĐ để thành công.
Trước khi đi vào phần định
nghĩa của Xã Hội Dân Sự và khai triển thêm về 3 điểm trên, xin có nhận
xét như sau :
Từ năm 2006 là năm Khối 8406 ra đời với sự hưởng ứng
tham gia trên mạng của nhiều người trong và ngoài nước với số ngàn, cho đến gần
đây, năm 2012 với cuộc vận động Triệu Con Tim Một Tiếng Nói do hệ thống SBTN
của anh Trúc Hồ, với hơn 130.000 chữ ký thu thập được, con số lớn nhất của
người dân trong nước tham gia vào các cuộc vận động chữ ký trên vẫn ở mức 5000
người. Muốn có sự chuyển động lớn hơn, số chữ ký các thành phần trí thức, cán
bộ đảng viên, sinh viên, học sinh, doanh nhân, dân oan,... ở trong nước cần
phải đạt ít nhất con số 5000 chữ ký và tốt hơn là được 10.000 chữ ký trong nước
cho lời kêu gọi Tuyên Bố về Thực Thi Quyền Dân Sự và Chinh Trị, trong vòng 1
tháng.
Cho đến nay có khá nhiều định
nghĩa hơi khác biệt nhau về Xã Hội Dân Sự (Civil Society hay Société Civile).
Xã Hội Dân Sự là bao gồm và lãnh vực hoạt động của các tổ chức, hội đoàn, công đoàn,
hiệp hội không thuộc chính quyền (Non governmental) và không tạo lợi nhuận (Non
Profit) ngoài 2 lãnh vực khác là 1) guồng máy chính trị điều hành đất nước, 2)
các công ty, xí nghiệp, dịch vụ thương mại và có định chế còn xem 3) là gia
đình là một lãnh vực thứ ba. Phần định nghĩa trên đây đã được nhiều tổ chức,
định chế, cơ quan quốc tế chấp nhận như Liên Hiệp Quốc, UNESCO, Liên Âu,
Ngân Hàng Thế Giới... Tóm lại hai đặc điểm của các tổ chức thuộc Xã Hội Dân Sự
là Không Thuộc Chính Phủ và Không tạo Lợi Nhuận : CSO (Civil Society
Organization), NPO (Non Profit Organization), NGO (Non Governmental
Organization).
The World Bank has adopted a definition of civil
society developed by a number of leading research centers: “the term civil
society to refer to the wide array of non-governmental and not-for-profit
organizations that have a presence in public life, expressing the interests and
values of their members or others, based on ethical, cultural, political,
scientific, religious or philanthropic considerations. Civil Society
Organizations (CSOs) therefore refer to a wide of array of organizations:
community groups, non-governmental organizations (NGOs), labor unions,
indigenous groups, charitable organizations, faith-based organizations,
professional associations, and foundations”.
Trong thực tế, chúng ta thấy có sự chan hòa qua lại
giữa 3 lãnh vực trên với sự phát triển vượt bực của khả năng truyền thông đa hệ
(multimedia), nhiều chiều (multi direction), nhanh chóng (real time) vượt qua
được rào cản của không gian và biên giới hành chánh các quốc gia. Một đảng phái
không cầm quyền có thuộc xã hội dân sự hay không, thí dụ như có ủy viên, cố vấn
hội đồng tỉnh, thị trưởng, có hoạt động trong khu vực XHDS hay không?. Tại Việt
Nam, có nhiều tướng lãnh quân đội CSVN là Chủ Tịch, Tổng Giám Đốc một số công
ty. Một gia đình dù không thành lập hội đoàn, vẫn có thể dùng mạng để thông
tin, vận động tranh đấu cho một vấn đề xã hội.
Liên quan đến phần định nghĩa Civil Rights (Quyền
Dân Sự) và Political Rights (Quyền Chính Trị), phần lớn các quyền này đều nằm
trong danh sách các quyền căn bản của con người (Déclaration des Droits de
l’Homme, Universal Declaration of Human Rights 10-12-1948). Phần quy định về
các quyền Dân Sự và Chính Trị đều nằm trong Công Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và
Chính Trị (International Covenant on Civil and
Political Rights) được Đại Hội Đồng LHQ biểu
quyết ngày 19/12/1966 và chính thức áp dụng từ 1976. Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam chính thức thông qua ngày 24/9/1982. Các Quyền, tự do tín
ngưỡng, tự do ngôn luận, an ninh cá nhân, không bị tra tấn, được mưu cầu phúc
lợi, tự do di chuyển và chọn nơi trú ngụ,... đều được xem như quyền dân sự
trong lúc quyền chình trị là quyền được đi bầu phiếu, ra ứng cử. quyền tự do
ngôn luận, quyền được hội họp và lập hội, các đảng phái được công nhân hữu dụng
đối với xã hội (utilité publique). Tóm lại quyền chính trị hay tham chính
của người công dân được bảo đảm bởi quốc gia mà họ là công dân. Cho đến nay
không có một sự phân biệt rõ rệt giữa quyền chính trị (political rights) và
quyền của con người (human rights). Hiều rộng ra thì quyền chính trị là những
quyền căn bản của con người cần thiết cho một nền dân chủ.
I)
Vai trò của Xã Hội Dân Sự trong Đấu Tranh Bất Bạo Động
Đấu tranh bất bạo động không có
nghĩa là bất động (không làm gì hết), hay không có nghĩa là vô dạng (thiếu tổ
chức) và kém quyết liệt. Ngược lại đấu tranh bất bạo động đòi hỏi rất nhiều khả
năng tổ chức, quyết liệt, trường kỳ và rất phong phú, đa dạng. Nhằm cân bằng sự
yếu kém về mặt phương tiện, và đối phó với bạo lực của một nhà cầm quyền độc
tài, yếu tố quan trọng hàng đầu của Đấu Tranh Bất Bạo Động là cần phải quy tụ
một số đông người tham gia một cách áp đảo.
Vận động thành công sự quy tụ
đông đảo này đến từ nhiều yếu tố như :
· Sự hình thành và lớn
mạnh các tổ chức, đảng phái đấu tranh dân chủ trong Việt Nam với khả năng thông
tin, số lượng cán bộ, lãnh vực hoạt động trải rộng trong xã hội, trên nhiều địa
bàn
· Việc làm dễ làm, ít nguy
hiểm, nhưng có tác dụng tâm lý cao khi có đông người làm đồng loạt, làm chùn
tay các thành phần côn an
· Kế hoạch và tổ chức để
từng bước leo thang các đòi hỏi chính đáng một cách ôn hòa, nhưng quyết liệt
· Phát triển của xã hội
dân sự trong nước
Sự phát triển của XHDS, lúc đầu
qua các tập hợp không chính thức (không xin phép nhà nước CSVN) trên các lãnh
vực ít nhậy cảm về xã hội, văn hóa, rối dần tiến lên các lãnh vực về nhân
quyền, quyền chính trị, lúc đầu qua mạng Internet sau đó, dẫn tới các tụ họp,
trao đổi trực tiếp ngoài đời. Đây là tình trạng đang nở rộ không còn là hàng
tháng mà là hàng tuần tại Việt Nam hiện nay. Với những đòi hỏi chính đáng khiến
nhà cầm quyền CSVN bối rối rơi vào tình trạng tiến thối lưỡng nan vì chính
họ đã ký kết với Liên Hiệp Quốc với những bản văn chính thức được ĐHĐ LHQ thông
qua và phải được tôn trọng và vì các thành phần dân tộc dân chủ biết áp dụng
một cách uyển chuyển.
Cụ thể hơn qua trường hợp đấu
tranh BBĐ của Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan (Solidarnosc), với các cuộc biểu tình
đình công toàn quốc quy tụ hàng trăm ngàn người dân tại thủ đô Varsovie vào năm
1988, dù lúc đó các thành phần lãnh đạo Công Đoàn vẫn còn năm trong tù, nhờ vào
sự phát triển của xã hội dân sự mà Công Đoàn Đoàn Kết vẫn nhận được sự hỗ trợ
của chính người dân Ba Lan trong nước về mặt phương tiện in ấn, chốn nương náu
khi bị truy lùng, các hỗ trợ về mặt vệ sinh, ẩm thực cho số người biều tình
Một cách tổng quát hơn, sự
phát triển của Xã Hội Dân Sự ngoài vòng kềm tỏa của chế độ sẽ giúp :
Người dân bớt sợ hãi, vì có sự
hỗ trợ của những người chung quanh và có chỗ dựa khi gặp hoạn nạn, do đó sẵn
sàng đứng lên đấu tranh.
Người dân thoát khỏi vòng kềm toả
của chế độ về mặt công ăn việc làm, nuôi sống gia đình (người chung quanh thân
thuộc giúp cho gia đình có người trong tù)
Người dân có những phương tiện
đấu tranh độc lập với nhà nước (in ấn, truyền thông, di chuyển,...)
Người dân có những nơi quy tụ
cần thiết để trao đổi, học hỏi, trấn an, và từ đó tự tin hơn để có hành động
phản kháng đồng loạt và quy mô.
Các tổ chức, hiệp hội, trong Xã
hội dân sự sẽ đóng vai trung gian để chuyển lực vận động xuống các thành phần
quảng đại quần chúng mà họ quy tụ được tại nhiều địa bàn và thành phần quần
chúng.
Có hai yếu tố khác biệt căn bản
giữa các cuộc cách mạng Bắc Phi, đã thành công và tình hình Việt Nam : thứ
nhất là các đảng phải tại Tunisia, Ai Cập, đã được công khai hoạt động từ hơn
15 năm trước, dù có bị trù dập nặng nề, nhưng họ vẫn công khai hoạt động và có
văn phòng chính thức và thứ hai là xã hội dân sự phát triển hơn tại các xứ này
với hơn 10.000-15.000 tổ chức Phi Chính Phủ và rất nhiều tổ chức do chính người
bản xứ đứng ra thành lập, trong lúc tại Việt Nam, hiện nay chưa có đảng phải có
khả năng công khai hoạt động như tại Tunisia hay AI Cập và sự phát triển của xã
hội dân sự độc lập với nhà nước vẫn còn phôi thai, rất thấp so với 2 quốc gia
kia, ngoài Mặt Trận Tố Quốc là công cụ của Đảng CSVN.
II)
Vai trò của Xã Hội Dân Sự trong sự phát triển của một xã hội Việt Nam Dân Chủ
Tương Lai
Trong một xã hội dân chủ với
tam quyền phân lập (hành pháp, lập pháp, tư pháp), với sự độc lập của truyền
thông, các cuộc bầu cử tự do định kỳ để chọn dân cử (Dân biều, Thượng nghị sĩ,
thị trưởng,… xã hội dân sự sẽ đóng một vai trò rất quan trọng không những
trong giai đoạn đấu tranh cho dân chủ mà còn trong giai đoạn thiết lập nền dân
chủ tại Việt Nam, trong giai đoạn hậu CS và sau đó trên đường dài để canh tân,
phát triển dài hạn đất nước.
1) Tạo điều
kiện để gia tăng niềm tin vào chính mình, vào tinh thần, ý chí của dân tộc Việt
Nam, nhất là cho các thế hệ trẻ trong và ngoài nước. Qua việc nhìn lại lịch sử,
nhất là trong giai đoạn cận đại về công cuộc dấu tranh chống thực dân, bảo vệ
độc lập, vai trò các đảng phái quốc gia, vai trò đảng CSVN, trả lại những sự
thật bị che giấu, bóp méo cho các ý đồ thống trị, độc tài, bảo vệ quyền lợi
riêng tư của một thiểu số bè phái, bán rẻ quyền lợi của dân tộc, làm tay sai
cho Trung Quốc. Những tổ chức, hội đoàn về văn hóa, giáo dục về truyền thông vô
vị lợi chắc chắn sẽ đóng góp một vai trò quan trọng trong vấn đề này.
2) Tạo điều
kiện để nâng cao ý thức dân chủ, tự lực, tự trau dồi kiến thức (knowledge),
nhận thức của người dân trước những vấn đề phức tạp về độc lập, tự chủ, phẩm
gía con người, tôn trọng đời tư, bảo vệ môi trường sinh sống... Đó là việc làm
nghiên cứu các Nhóm, Uỷ Ban suy nghĩ về các vấn đề xã hội mới (social think
tank). Nhằm phổ biến tư duy sống cộng đồng, cùng sống, cùng quan tâm chung với
người thân, bạn bè, láng giềng thay vì sống như mackeno như hiện nay.
3) Bổ túc các
thiếu xót của chính phủ trong giai đoạn canh tân vì quá nhiều vấn đề nhà cầm
quyền dân chủ lúc đó không có khả năng giải quyết hết với sự trợ giúp các tổ
chức Phi Chính Phù của Người Việt hải ngoại, và bất cập trong hướng phát triển,
giảm bớt các sai trái, bằng cách rọi đèn vào những vi phạm hiến pháp, luật lệ,
quyền con người mà ít người thấy, vận động người dân quan tâm phản đối.
Vì luật lệ thường đi sau thực tế của đời sống (hệ quả dồng tính luyến ái, tội
ác điện tử cybercriminal, sửa đổi các yếu tố di truyền,…).
4) Tạo một sự
đối trọng cần thiết về mặt dư luận, ảnh hưởng quyền lực hầu ngăn ngừa những
quyết định độc tài, thiếu sáng suốt của chính phủ, khi việc vận động lập pháp
(quốc hội) gặp khó khăn. Đây là một sự khó khăn của mô hình dân chủ đại diện
(democratie représentative) khi giao quyền quyết định cho mấy trăm dân biểu,
thượng nghị sĩ, trong lúc các vấn đề kinh tế, xã hội, giáo dục,.. ngày càng
phức tạp hơn với sự liên lập, toàn cầu hóa của nền kinh tế, giao thương. Xã hội
dân sự thúc đẩy một sinh hoạt dân chủ với sự tham gia của đại chúng (démocratie
participative thay vì chỉ thuần túy démocratie représentative).
Các điểm 1 và 2 rất quan trọng
không những trong giai đoạn đấu tranh và còn trong giai đoạn canh tân và xây
dựng dân chủ.
Kết luận : Sự phát triển của xã hội dân sự sẽ đóng góp phần rất quan trọng trong
giai đoạn đấu tranh để dân chủ hóa đất nước cũng như trong phần canh tân Việt
Nam sau đó. Điều kiện căn bản để giúp phát triển xã hội dân sự là khuyến khích
người dân biết kết tụ để bảo vệ quyền lợi của chính mình và gia đình, hướng dẫn
về những việc làm từng giai đoạn để quy tụ ngày càng đông đảo quần chúng ra
ngoài vòng kềm toả của chế độ CSVN.
Nguyễn Ngọc Bảo
No comments:
Post a Comment