12.10.2013
Đầu thập niên 90, các chế độ Cộng Sản tan vỡ tại
Đông Âu, tan vỡ ngay tại cái nôi của Cộng Sản là Nga Sô. Cơn ác mộng của nhân
loại đã chấm dứt. Lý thuyết Mác Lê bị vất vào sọt rác. Để sống còn, các đồng
chí trong Trung ương đảng của Cộng Sản Việt Nam bèn "tạo" ra cái gọi
là tư tưởng Hồ Chí Minh, dù rằng khi còn sống Bác đã khẳng
định là Bác không có tư tưởng gì cả, Bác Stalin, Bác Mao
đã nói hết cả rồi. Bác lại nhấn mạnh trong Đại hội đảng lần thứ hai tại
Tuyên Quang diễn ra vào tháng 2 năm 1951: Không, tôi không có tư tưởng gì
ngoài chủ nghĩa Mác Lê. Hung thần Chợ Đệm Nguyễn Văn Trấn, sau 1954 tập
kết ra Bắc, có hỏi thẳng ông Hồ Chí Minh về tư tưởng của ông thì ông ta cũng
trả lời rằng mình không có tư tưởng gì cả ngoài chủ nghĩa Mác Lê.
Bơ vơ như những trẻ mồ côi, không còn chỗ để bám
víu, nương tựa, các hậu duệ, đệ tử của Bác đã cố thu thập một số diễn
văn, một số phát biểu của Bác khi Bác còn sinh tiền, để vẽ rắn
thêm chân, hoa hòe hoa sói vào rồi đánh trống gõ mõ, la ầm lên là Đảng ta
được võ trang bằng tư tưởng Hồ Chí Minh. Câu phát biểu của Bác: vì
lợi ích 10 năm thì phải trồng cây, vì lợi ích 100 năm thì phải trồng người
được các đệ tử của Bác cho là tư tưởng vĩ đại của Bác. Thực
ra Bác đã "mượn đỡ" câu nói của Quản Trọng, đời Chiến quốc: "Nhất
niên chi kế tại ư thụ cốc, thập niên chi kế tại ư thụ mộc, bách niên chi kế tại
ư thụ nhân (kế một năm thì trồng lúa, kế 10 năm thì trồng cây, kế trăm năm thì
trồng người)".
"Trồng
người", nói nôm na là nhiệm vụ của giáo dục đào tạo và
huấn luyện của một nước. Chuyện giáo dục tại VN trong chế độ Cộng sản giống như
chuyện dài nhân dân tự vệ ngày xưa nghĩa là nói không bao giờ hết, càng nghĩ
càng thấy mọi sự cứ tối mò mò.
Triết lý giáo dục
Bất cứ một nền giáo dục nào cũng dựa trên các căn
bản gọi là triết lý giáo dục- theo ông Lâm Văn Bé, một giới chức cao cấp trong
ngành giáo dục ở VN trước 1975 - Thời Việt Nam Cộng Hòa, để thiết lập một hệ
thống giáo dục mới cho quốc gia, năm 1958, Bộ Quốc Gia Giáo Dục tổ chức một Đại
hội giáo dục toàn quốc đã thảo luận và đúc kết một triết lý giáo dục
dựa trên 3 nguyên tắc là nhân bản, dân tộc và khai phóng. Từ triết lý giáo dục
này, 3 mục tiêu được đề ra là:
-
phát triển toàn diện cá nhân.
-
phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
-
phát triển tinh thần dân chủ và khoa học.
Triết
lý giáo dục, cùng 3 mục tiêu kể trên, luôn luôn bàng bạc trong giáo dục ở miền
Nam trong suốt hơn 20 năm tồn tại của Việt Nam Cộng Hòa.
Giáo Dục ở VN dưới chế độ CS từ năm 1946 đến nay
chưa hề có một triết lý về giáo dục. Theo ông Tống Văn Công, báo Lao Động của
CSVN số ra ngày 24-10-2012 trong bài "Triết
lý giáo dục của người Việt" cho rằng: "Nhiều người cho
rằng giáo dục của ta không thấy lối ra vì không tìm được triết lý giáo dục. Một
số Giáo sư khẳng định rằng nước ta chưa hề có một triết lý giáo dục..."
Không có một triết lý, nhưng giáo dục Cộng sản có
những mục tiêu, đa số - nếu không nói là hầu hết- là mục tiêu chánh trị và thay
đổi thường xuyên. Dù CSVN có rêu rao Giáo Dục là quốc sách, cần phải thích ứng
với nền kinh tế thị trường nhưng căn bản của nền giáo dục tại VN hiện nay
vẫn là giáo dục theo đường lối của Bác và Đảng. Do đó hệ
thống giáo dục của CSVN trên đất nước đã thay đổi nhiều lần từ năm 1946 ở miền
Bắc và trên cả nước từ sau năm 1975 sau khi chiếm được miền Nam; nhưng kết quả
là giáo dục ở VN vẫn còn trong tình trạng hỗn loạn và lạc hậu, không đáp ứng
được những khát vọng của toàn dân. CSVN đã đao to búa lớn đề ra các chiến lược
về giáo dục như:
- Chiến lược phát triển giáo dục do
Thủ tướng Phan Văn Khải ban hành ngày 28-12-2001.
- Chiến lược phát triển giáo dục 2010-2020
do Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ban hành ngày 13-6-2012.
Các chiến lược phát triển giáo dục kể trên đều đề ra
mục đích chánh trị là phát huy và củng cố thể chế CS trên đất nước Việt Nam.
Kết quả là sự thay đổi ở cấp Phổ thông (tiểu học và
trung học) như người ta thay đổi áo. Cấp Đại Học thì bát nháo, hỗn loạn. Các
trường Đại Học tư, Đại Học công mọc lên như nấm. Đại Học VN, giờ đây, là một
thứ chợ trời, người mua, người bán tấp nập.
Thời VNCH (1955-1975), khởi đầu chỉ có 2 Viện Đại
Học: ĐH Sài Gòn và ĐH Huế. Mặc dù phải đối phó với cuộc chiến xâm lược đẫm máu
và khốc liệt của CS Bắc Việt (một cuộc chiến toàn diện nhắm vào mọi khía cạnh
của cuộc sống tại Miền Nam), nền giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển
vượt bực, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được
một lớp người có khả năng, thực sự đáp ứng được các nhu cầu phát triển của đất
nước. Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, VNCH, tuy có chiến tranh tự vệ triền
miên, Giáo Dục vẫn không ngừng phát triển, tiến bộ không thua gì các nước khác
ở Đông Nam Á. Luyến tiếc một thời xa xưa, ta không khỏi ngậm ngùi nhớ lại một
nền Giáo Dục của VNCH trong sứ mạng trồng người cho quê hương miền Nam.
Trong thời VNCH:
- Có 4 Viện Đại Học (VĐH) công lập: VĐH Sài Gòn, VĐH
Huế, VĐH Cần Thơ, Viện ĐH Bách Khoa Thủ Đức(1974) có tiền thân là Trung Tâm Quốc
Gia Kỹ Thuật (1957) và Học Viện Quốc Gia Kỹ Thuật (1972).
- Các Viện Đại Học tư: VĐH Đà Lạt, VĐH Vạn Hạnh, VĐH
Phương Nam, VĐH An Giang, VĐH Cao Đài, VĐH Minh Đức các Học Viện chuyên
biệt như Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Trường Chính Trị Kinh Doanh tại Đà Lạt,
Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974).
- Các Đại Học Cộng Đồng (ĐHCĐ) được mở ra từ năm
1971 theo mô hình Community College của Hoa Kỳ như: ĐH CĐ ở Tiền Giang; ĐHCĐ ở
Duyên Hải; ĐHCĐ Quảng Đà ở Quảng Nam, Đà Nẵng; ĐHCĐ Long Hồ ở Vĩnh Long.
Dưới thời Xã Hội Chủ Nghĩa:
Các ĐH mọc lên như nấm, hồng nhiều hơn chuyên theo
đúng đơn đặt hàng của đảng CS và nhà nước XHCN, Năm 2000, VN có 178 trường Đại
Học và Cao Đẳng; năm 2012, VN có 419 trường. Tỷ lệ tăng 250% chỉ trong có 12
năm. 20% là các Đại Học tư thục. Có lẽ VN dưới thời xã hội chủ nghĩa, là nước độc nhứt trên thế giới,
trường Đại Học được mở trước khi có trụ sở và nhân viên giảng huấn cơ hữu.
Kết quả là sự yếu kém của Đại học VN so với các nước ở Đông Nam Á. Còn giáo dục
ở bậc Tiểu học và Trung học là cả một ác mộng cho các phụ huynh:
- Chương trình học thay đổi như chong chóng.
- Xin được cho con em vào học là cả một mốt ưu tư,
một ác mộng cho các bậc cha mẹ. Nào là phải hối lộ, phải tốn tiền- rất nhiều
tiền- không kể tiền phí tổn ở các lớp học thi, các lớp dậy kèm.
Giáo Dục và Đào Tạo ở VN hiện nay hay nói nôm na
trồng người ở VN, theo thống kê của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo năm 2011-2012,
có một đội ngũ nhân viên giảng huấn là 84, 109 người trong đó có 9.152 (11%)
Tiến sĩ, 36.360 Cao học mà VNCS gọi là Thạc sĩ (43%) 38.579 Cử nhân (46%). Chỉ
có độ 10% Tiến sĩ được đào tạo tại ngoại quốc. Bằng cấp cứ loạn cào cào, không
ra cái thể thống gì. Ai cũng là Tiến sĩ, Thạc sĩ. Trong 16 thành viên của Bộ
Chánh Trị, tất cả đều có học vị Tiến sĩ, trừ 1 thành viên gốc thiểu số, bà Tòng
Thị Phóng, chỉ có Cao học. Trong số 20 Bộ Trưởng trong Chánh Phủ CS hiện
nay, có 12 ông Tiến Sĩ. Ngay cả ông Bộ Trưởng Công An cũng đeo bằng Tiến sĩ.
Các Đại tá, Tướng lãnh viết bài trên các báo chí của nhà nước đều để thêm tước
vị Tiến sĩ hoặc Thạc sĩ bên cạnh cấp bậc trong quân đội.
Trong một Hội nghị về Giáo Dục do Mặt Trận Tổ Quốc
tổ chức ngày 31 tháng 7 năm 2013, Phó Chủ tịch nước, GS Tiến sỹ Nguyễn Thị Doan
(lại một tiến sĩ nữa) trăn trở "số học sinh ra trường càng ngày càng
đông, tiến sĩ, thạc sĩ càng ngày càng nhiều nhưng tại sao đất nước chậm đổi mới
và có vẻ tụt hậu xa so với các nước khác trong khu vực". Có người chỉ
ở VN, không biết tiếng Anh, cũng có bằng Tiến sĩ sau khi nộp đủ tiền cho một ĐH
"dỏm" ở Mỹ. Bộ Giáo Dục và Đào tạo của CS còn rêu rao là cho tới năm
2020, sẽ đào tạo ra 20.000 Tiến sĩ. Cũng cho tới năm 2020, dự án trù liệu VNCS
sẽ có 1 triệu kỹ sư đạt trình độ quốc tế. Thực là một hoang tưởng của những
người đang đi trên mây, của những người bị bệnh mộng du (schizophrenia)?
Với đội ngũ Tiến sĩ đông đảo như vậy, mỉa mai thay
Đại Học VN lại không có tên trong Bảng xếp hạng 200 ĐH hàng đầu trên thế giới. Thực
là trái núi đẻ ra con chuột.
Theo Tiến sĩ Lê Văn Út (Toán học Phần Lan), từ năm
2006 đến năm 2010, VN chỉ có 5 bằng sáng chế được đăng ký tại Mỹ. Năm 2011,
không có bằng sáng chế nào được đăng ký. Nếu so sánh với các quốc gia vùng Đông
Nam Á ít dân hơn VN, có trình độ kỹ thuật kém hơn hay ngang hàng với Miền Nam
VNCH trước 1975, ngày nay VN của Xã Hội Chủ Nghĩa đang bị bỏ xa. Tân Gia Ba
(645 bằng sáng chế/ 4.5 triệu dân), Mã Lai (161 bằng sáng chế/ 28 triệu dân),
Thái Lan (53 bằng sáng chế / 68 triệu dân), Indonesie (7 bằng sáng chế / 230
triệu dân), Brunei (1 bằng sáng chế / 0.5 triệu dân). Về số lượng các bài báo
khoa học đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế, theo GS Nguyễn Văn Tuấn (Úc):
tổng số các bài nghiên cứu khoa học của cả nước VN chỉ tương đương hay không
bằng số bài của 1 trường đại học ở Thái Lan hay ở Mã Lai. Thực là xấu hổ cho
một nước mà ở đâu cũng có Tiến sĩ, Thạc sĩ. Tóm lại, CSVN đã thất bại thê
thảm trong công cuộc trồng người cho đất nước.
Hậu quả tai hại của nền giáo dục của CSVN từ 40 năm
nay đã và đang ảnh hưởng đến giới trẻ VN, ảnh hưởng trên toàn đất nước về mọi
phương diện. Hệ lụy của nó sẽ kéo dài trên vài thế hệ con dân đất Việt.
Giáo Dục Hoa Kỳ và Việt Nam
Trong 21 năm hiện hữu của Việt Nam Cộng Hòa, ảnh
hưởng của giáo dục Mỹ mới ở thời kỳ bắt đầu trong các ngành kỹ thuật, trong Y
Khoa qua những Giáo Sư, chuyên viên được đào tạo ở Mỹ. Nhưng chưa có một
trường học Mỹ nào - từ Trung Tiểu học cho đến Đại học Mỹ - được mở ra ở Miền
Nam.
Từ thượng cổ, Giáo Dục vẫn là một vũ khí lợi hại
trong việc tiến chiếm để đô hộ các nước, biến người dân các thuộc địa thành
những người trung thành với mẫu quốc. Trung Hoa đã thành công trong việc đô hộ
rồi đồng hóa các nước nhỏ ở chung quanh, biến dân của các nước này thành những
người Trung Hoa chỉ trong vài thế hệ. VN đã bị Trung Hoa đô hộ cả ngàn năm nên
dân tộc Việt đã chịu ảnh hưởng nặng nề giáo dục của Trung Hoa nhưng VN không bị
đồng hóa.
Sang thời kỳ Pháp thuộc gần 100 năm, VN lại chịu ảnh
hưởng văn hóa Tây Âu. Văn tự Việt theo lối La Mã là do Linh Mục Alexandre de
Rhodes (1591-1660), một Giáo sĩ Giòng Tên người Pháp, đưa vào VN thay thế cho
chữ Nôm - một loại chữ viết giống như chữ Nho của người Tầu. Kết quả VN là nước
duy nhứt ở Á Châu dùng chữ La Mã làm quốc ngữ, muôn vàn ích lợi cho dân Việt.
Đi kèm với việc khai hóa, khai thác, người Pháp đã xây dựng cả một hệ thống các
trường Trung, Tiểu học ở VN. Đại Học Hà Nội, Đại Học Sài Gòn được người Pháp
dựng lên cho toàn cõi Đông Dương Việt Miên Lào vào đầu thế kỷ 20. Ông Hoàng
Norodom Sihanouk (Cao Miên), các Hoàng thân Lào Souvana Phouma, Souphanuvong
đều sang VN du học.
Sau khi đã chiếm được Miền Nam năm 1975, CSVN đã tìm
cách dẹp bỏ hoàn toàn các dấu vết của giáo dục Âu Tây ở VN. Các trường học
ngoại quốc, các Trung Tâm Văn Hóa ngoại quốc bị đóng cửa, cấm hoạt động. Những
người có quá khứ du học tại Mỹ bị cho vào tù, bị kết tội hoạt động gián điệp
cho CIA của Mỹ. Một Viện Bảo Tàng Chiến tranh được lập ra ở Sài Gòn để kết tội
Mỹ.
Sau 40 năm thất bại trong tiến trình áp đặt chế độ
CS lên quê hương khiến đất nước càng ngày càng kiệt quệ suy sụp, CSVN, hơn bao
giờ hết, đang lạy van, cầu xin Hoa Kỳ trở lại VN.
Hoa Kỳ đang trở lại VN, nhưng bằng một chiến lược
gọi chiến lược mềm (soft strategy), đó là đưa giáo dục Mỹ vào VN. Trong
lịch sử, Hoa Kỳ không đô hộ để khai thác bất kỳ một lãnh địa, một quốc gia nào
nhưng các chương trình của Mỹ Quốc, thiết lập sau đại chiến thế giới thứ 2 như
Plan Marshall, Chương trình Học bổng Fulbright... đã đưa "truyền thống
Mỹ, văn hóa Mỹ" đến mọi nước trên thế giới. Tưởng cũng nên nhắc lại,
giáo dục đại học của Mỹ đã đóng một vai trò không nhỏ trong cuộc chiến tranh ý
thức hệ với khối Cộng Sản, chiến tranh lạnh với Nga Sô.
Ngay cả trước khi bỏ cấm vận và nối lại bang giao
với Việt nam vào năm 1995, Hoa Kỳ đã coi việc đầu tư vào giáo dục kiểu Hoa
Kỳ vào VN là hình thức hữu hiệu nhứt làm biến đổi kẻ thù xưa với mục đích
ảnh hưởng đến các thế hệ lãnh đạo VN trong tương lai. Nhiều phái đoàn giáo dục
Hoa Kỳ, nhiều GS Hoa Kỳ với tư cách cá nhân, đã đến VN. Phúc trình của ĐH
Harvard, sau khi quan sát, đã nói đến những yếu kém của hệ thống Đại học của
VN, đề nghị những phương cách sửa đổi.
Hoa Kỳ nói thẳng, không úp mở, về ý định chuyển
hóa VN bằng con đường giáo dục.
Hoa Kỳ có cơ hội chuyển hóa nền Giáo Dục tại VN, để
về lâu dài, khiến nước này trở nên dân chủ hơn, tôn trọng nhân quyền, tôn trọng
quyền tự do ngôn luận hơn, để rồi liên kết chặt chẽ với Hoa Kỳ.
(The US has the opportunity to shape the Vietnamese
Education System in a way that, in the long term, will result in a VietNam that
will be more democratic, more respecful of human rights and freedom of speech,
and therefore more closely tied to the United States.)
Vả lại trước cơn khủng hoảng về Giáo Dục và Đào Tạo,
trước tương lai mờ mịt của đất nước vì nền giáo dục quá yếu kém, VNCS không còn
chọn lựa nào khác, đã cầu khẩn Hoa Kỳ trợ giúp. Phó Thủ Tướng CSVN Nguyễn Thiện
Nhân, một người đã học ở Hoa Kỳ theo chương trình Học bổng Fulbright, trong một
lần gặp gỡ Đại Sứ Mỹ Michael Michalak, đã cầu xin Hoa Kỳ giúp đỡ VN trên 2 lãnh
vực:
- Mở Đại Học Mỹ ở VN.
- Đào tạo 2,500 PhD ngay tại Hoa Kỳ cho VN từ
nay(2008) cho đến năm 2020.
Cũng trong thời gian đó ở trong nước, VN hứa hẹn sẽ
đào tạo 20,000 PhD. Hiện nay Vietnamese Education Fund của Mỹ tài trợ mỗi năm
khoảng 70 Học viên sang Mỹ học PhD.
Cựu Đại Sứ Mỹ Michael Michalak tại VN: người hăng
hái cổ động viện trợ giáo dục cho VN.
Trong chuyến du hành sang Hoa Kỳ của Thủ tướng VNCS
Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 6 năm 2008, Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ James
Glassman và Ông Phạm Vũ Luận, Thứ trưởng Giáo Dục và Đào tạo của VN đã ký kết
Bản Hợp Tác về Giáo Dục giữa hai nước.
Hiện nay có khoảng hơn 60 Đại Học Hoa Kỳ có chương
trình liên kết (joint program) với các ĐH của Việt Nam.
Học bổng Fulbright
Thành lập năm 1946 bởi Thượng Nghị Sĩ J William
Fulbright (1905-1995) với mục tiêu:
- Để công dân Hoa Kỳ có thể theo học, khảo cứu...
tại ngoại quốc.
- Công dân các nước trên thế giới có thể đến Hoa Kỳ
để học hoặc khảo cứu trong đủ mọi ngành từ khoa học đến văn chương, báo chí.
Đây là một học bổng danh tiếng vào bậc nhứt của Hoa
Kỳ trên thế giới. Kể từ ngày thành lập, 43 người được giải Nobel đã từng được
học bổng Fulbright, cũng như 78 người được giải Pulitzers là những người được
học bổng này trong quá khứ.
Ngoại Trưởng HK Hillary Clinton tại lễ kỷ niệm 20 năm Fulbright tại Đại Học Ngoại Thương, Hà Nội ngày
10/7/2012.
Cho tới nay, sau 20 năm hiện hữu, chương trình học
bổng Fulbright đã đưa hơn 1,000 giáo sư, học giả, sinh viên VN sang Hoa Kỳ để
học tập, nghiên cứu trong mọi ngành tại các Đại Học danh tiếng. Học bổng
Fulbright được hiện hữu ở VN từ năm 1992, tức là 3 năm trước khi lệnh cấm vận
của Hoa Kỳ được TT Bill Clinton bãi bỏ, quan hệ bình thường giữa 2 nước đượn
nối lại năm 1995.
Quĩ Giáo Dục Việt Nam
Quĩ Giáo Dục Việt Nam (VietNam Education Fund) do Hoa Kỳ thành lập và tài trợ từ năm 2,000. Các thành viên trong Hội
Đồng Quản Trị của Quĩ Giáo Dục đều do Tổng Thống Hoa Kỳ bổ nhiệm. Quĩ Giáo Dục
VN (QGDVN) hoạt động trong tư cách độc lập, không qua trung gian các công ty tư
vấn giáo dục ở trong hay ngoài nước. Kể từ khi chánh thức hoạt động năm 2003
cho đến nay, QGDVN đã cấp học bổng cho 389 nghiên cứu sinh Việt Nam sang học
các Đại Học danh tiếng của Hoa Kỳ. Có 83 người đã hoàn tất bằng Tiến sĩ.
Nhân viên của Trường Washington State University
đang tư vấn cho sinh viên VN tại Hội chợ Giáo Dục USA tại Hà
Nội 8/4/2011.
Trung tâm tư vấn giáo dục Hoa Kỳ
Education USA là một mạng
lưới toàn cầu với hơn 400 văn phòng tư vấn giáo dục trên thế giới. Trung tâm tư
vấn giáo dục Education USA quảng bá giáo dục bậc đại học của Hoa Ký. Tại Việt
Nam, 2 trung tâm tư vấn giáo dục Hoa Kỳ, trực thuộc Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đã được
thành lập tại Hà Nội và Sài Gòn để giúp những sinh viên muốn du học Hoa Kỳ.
Trung tâm giải đáp mọi thắc mắc, thông tin cập nhật về các điều kiện, cơ hội
học tập ở Hoa Kỳ.
Hỗ trợ trực tiếp Giáo Dục tại VN
Hồi tháng 2 năm 2013, Ngân Hàng Thế Giới đã viện trợ
cho VN 150 triệu dollars để giúp VN cải tổ giáo dục, theo đó 50 triệu dollars
dược dùng để hỗ trợ cho Chánh sách phát triển Đại Học, tăng cường quản trị tài
chánh, chất lượng giáo dục.
Trong khi đó, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu viện trợ
cho VN 90 triệu Mỹ Kim cho giáo dục ở bậc trung học phổ thông.
Giáo Sư Mỹ sang giảng dạy tại VN
Quĩ Giáo Dục VN (Vietnam Education Fund) tài trợ và tổ chức chương trình đưa Giáo Sư Mỹ thuộc các Đại học hàng
đầu của Hoa Kỳ sang giảng dạy tại VN. Chương trình này đã bắt đầu từ năm 2008.
Các GS Mỹ sẽ giảng dạy bằng tiếng Anh. Bà Virginia Palmer, Phó Đại Sứ Mỹ tại VN
khẳng định: Chương trình đưa các GS Mỹ sang giảng dạy tại VN là một trong những
ưu tiên cao nhứt của Hoa Kỳ trong việc tăng cường hợp tác với VN trong lãnh vực
giáo dục.
Kể từ năm 2008, đã có 11 GS Mỹ giảng dạy tại VN theo
chương trình này. Năm 2012, đã có thêm 6 GS nữa sang VN giảng dạy.
Hê thống các trường Mỹ tại VN
Hiện nay một hệ thống các trường gọi là trường Trung
học và trường Tiểu học Việt Mỹ đã được mở ra tại nhiều nơi ở VN như tại Vĩnh
Long, Cần Thơ, Vũng Tầu, Sài Gòn, Hà Nội. Chương trình đặt nặng phần Anh Ngữ do
những người Mỹ giảng dạy.Học phí rất cao, từ 7,000 tới 8,000 dollars một năm.
Chỉ có con cháu các cán bộ đảng viên, con cháu các đại gia mới đủ tiền theo
học.
Các nước khác như Úc, Pháp, Đức và Tân Tây Lan cũng
đang cố gắng xuất cảng nền giáo dục của họ sang Việt Nam:
- Pháp đã cho các chuyên viên, các Bác sĩ VN sang du
học tại Pháp.
- Một số trường trung tiểu học của Pháp như hệ thống
trường trung, tiểu học, college đã được mở cửa hoạt động ở Sài Gòn.
- Viện Tim học tại Sài Gòn do Pháp lập ra và viện
trợ từ nhân lực đến tài lực.
- Hai nhà thương Pháp- Hopital Franco-Vietnamien
được Pháp mở ra tại Sài Gòn và Hà Nội.
...
Du học sinh Việt Nam tại Hoa Kỳ
Hiện nay có khoảng 15.000 du học sinh Việt Nam tại
Hoa Kỳ (đứng hàng thứ 8 trong danh sách du học sinh ngoại quốc ở Mỹ), trong đó
những du học sinh được học bổng của Hoa Kỳ để đi du học chỉ chiếm một phần nhỏ,
số còn lại là các du học sinh du học với tính cách tự túc. Các ứng viên được
Học bổng do Hoa Kỳ cấp, như học bổng Fulbright, đều được Hoa Kỳ chọn lựa rất kỹ
càng để du học sinh có thể bắt kịp chương trình của các ĐH nổi tiếng tại Hoa
Kỳ. CSVN cũng đã lợi dụng sự cởi mở của các ĐH ở Hoa Kỳ (cũng nên biết ở Hoa Kỳ
có nhiều loại Đại Học khác nhau. Có những ĐH chỉ cần đóng đủ tiền là được ghi
danh theo học) nên các cán bộ, viên chức chánh phủ CS đưa con cháu sang Hoa Kỳ
để theo học. Học phí, đời sống ở Mỹ không rẻ nên có lẽ chỉ có con cháu các đảng
viên, các đại gia CS mới đủ khả năng du học ở Mỹ. Vì chỉ có bọn CSVN "ăn
cắp ngày" này mới có đủ tiền cho con cháu đi ra nước ngoài học hỏi. CSVN
đang đầu tư vào đám con cháu đang du học tại ngoại quốc, tại Mỹ; đầu tư cho
tương lai của bản thân gia đình của họ, chứ không phải đầu tư cho quê hương xứ
sở. Đám "cộng con" này sẽ nối nghiệp cha, chú của chúng để
tiếp tục "muôn năm trường trị", đè đầu cưỡi cổ người dân.
Tuy vậy, người ta cũng có một chút hy vọng hy các
con cháu của Bác và đảng, sau khi bị tiêm nhiễm ý niệm tự do, dân chủ
bởi giáo dục Mỹ, bởi đời sống ở Mỹ, sẽ không ít thì nhiều thay đổi đời sống
chính trị tại quê nhà. Vâng, chỉ là hy vọng thôi!!
Tóm
lại người Mỹ đang có kế hoạch biến đổi Việt Nam bằng con đường giáo dục, một kế
hoạch lâu dài.
Người Việt quốc gia, người Việt tỵ nạn CS tại khắp mọi
nơi trên thế giới chỉ mong muốn một điều là chế độ CS, một chế độ phản lại
lương tâm của loài người, phải bị đào thải sớm chừng nào hay chừng đó để dân
tộc VN có được dân chủ. Đó là điều kiện tiên quyết cho tiến bộ, cho viễn tượng
theo kịp các nước khác ở Đông Nam Á. Trong hợp tấu khúc tiến bộ của nhân loại,
VN sẽ không là một nốt nhạc thừa vô nghĩa. Quê hương đang mất dần về tay Trung
Cộng do sự cấu kết của tập đoàn CSVN. Chỉ có tự do dân chủ không Cộng Sản mới
cứu được quê hương, đánh bại kẻ thù đang xâm lược.
Montréal, Canada
No comments:
Post a Comment