Biên dịch: Phạm Thị Trang | Hiệu đính: Nguyễn Hoàng Mỹ Phương
Posted on 24/10/2013
Nguồn: Min Zin & Brian Joseph (2012). “The Opening in Burma: The
Democrats’ Opportunity”, Journal of Democracy, Volume 23, Number 4
(October), pp. 104-119.
Trong suốt nửa thế kỷ sau khi
quân đội lên nắm quyền năm 1962, viễn cảnh thay đổi chính trị ở Miến Điện
vẫn tỏ ra còn xa vời. Đây là một trong những thể chế độc tài cứng nhắc
nhất thế giới, và Miến Điện cũng là một trong những nước kém phát triển
nhất. Trong hầu hết các chỉ số về phát triển con người được đo lường, đất
nước 56 triệu dân này đã không đạt được mức cơ bản nào và hiện đang nằm ở
gần cuối bảng xếp hạng của thế giới. Như thể góp phần làm cho bức tranh
thêm ảm đạm, những nhà lãnh đạo quân đội Miến Điện từ lâu đã đi theo chính
sách cô lập khiến tình hình kinh tế và chính trị tiếp tục trì trệ, ngay cả
khi nhiều quốc gia phi dân chủ khác ở châu Á đã chấp nhận các chính
sách cải cách kinh tế và đối ngoại, và do đó, đã giúp họ hội nhập vào cộng
đồng toàn cầu và trong một vài trường hợp giúp họ trở nên ít độc tài hơn.
Bất chấp những nỗ lực của phong trào đối lập đòi dân chủ và nhân vật được
biết tới nhiều nhất của phong trào, bà Aung San Suu Kyi, người nhận giải
Nobel, Miến Điện dường như vẫn tiếp tục phải đối diện với số phận không tự
do và nghèo đói dưới bàn tay sắt của quân đội.
Tuy nhiên, trước sự ngạc nhiên
của giới quan sát, hình ảnh đó bắt đầu thay đổi vào đầu năm 2011. Mặc dù
vẫn giữ chỗ đứng vững chắc về quyền lực và không phải đối mặt với các mối
đe dọa cấp bách trong nước lẫn quốc tế nhưng quân đội đã bắt đầu chuyển đổi
đường lối. Nhưng cũng khá kỳ quặc khi mà những gì rốt cuộc mang lại sự
thay đổi sang đường hướng mới ban đầu lại có vẻ như là một trò cũ không có
gì mới: ngày 07/11/2010, cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội đã diễn ra
trong tình trạng vô cùng gian lận, và đã tạo nên chiến thắng vang dội cho vị
thủ tướng và cựu đại tướng 65 tuổi Thein Sein và Đảng Đoàn kết và Phát
triển Liên bang (USDP) dưới sự hậu thuẫn của quân đội.
Trong bài diễn văn nhậm chức
ngày 30/3/2011, giọng điệu của Thein Sein mang tính hòa giải nhưng vẫn còn
độc đoán. Ông ca ngợi vai trò của quân đội, nhưng cũng lưu ý sự cần thiết
phải cải cách kinh tế và chính trị. Màn giới thiệu chương trình cải cách
này thật đáng chú ý khi mà những người thúc đẩy quá trìnhđều là các cựu tướng
lãnh, rồi chế độ tiếp tục gần như toàn quyền kiểm soát đời sống dân sự và
chính trị, và hệ thống mà chế độ vận hành trở nên hoàn chỉnh với một vai
trò to lớn của quân đội được quy định rõ trong hiến pháp trong một thứ
mà chế độ tung hô là trật tự “dân chủ” mới của Miến Điện.
Trong vòng nửa năm, việc chuyển
đổi là không thể nhầm lẫn vào đâu được. Chính phủ thả hầu hết tù chính
trị, bao gồm các nhân vật đáng chú ý như bà Aung San Suu Kyi – người bị
quản thúc tại gia trong suốt gần hai thập niên trước; sửa đổi luật về đảng
phái chính trị cho phép bà Suu Kyi và Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD)
của bà cùng với các đảng đối lập khác tham gia chính trị; tiến hành
đàm phán ngừng bắn với một số nhóm sắc tộc; nới lỏng kiểm duyệt báo chí và
kiểm soát xã hội dân sự; và cho phép những người bất đồng chính kiến hàng
đầu quay về nước.
Phe đối lập dân chủ phản ứng
lại sự mở cửa này với tinh thần thiện chí và hăng hái. Aung San Suu Kyi
tái đăng ký đảng NLD – đảng đã đạt kết quả xuất sắc trong cuộc bầu cử bổ
sung ngày 1/4/2012 khi tranh cử 44 trong 45 ghế còn trống tại Quốc hội và
giành được chiến thắng áp đảo 43 ghế. Suu Kyi là một trong 43 người được
bầu, và hiện tham gia Nghị viện Liên bang. Đây là cuộc bầu cử đầu tiên ở
Miến Điện trong hơn năm mươi năm qua mà kết quả của nó đã phản ánh ý
chí của nhân dân và được chính phủ tôn trọng. Mặc dù chỉ có ít hơn một
phần mười tổng số ghế trong Quốc hội được bầu trong những cuộc bầu cử bổ
sung này nhưng chúng đã đánh dấu việc xóa bỏ các cuộc bầu cử gian lận hoặc
bị đánh cắp trong quá khứ, nhấn mạnh thái độ mới và chấp nhận nhiều hơn
nữa của chính phủ với phe đối lập chính trị.
Để tận dụng tối đa sự mở cửa,
các nhà hoạt động ủng hộ dân chủ đã lập ra các viện nghiên cứu tư vấn
chính sách mới, các trung tâm đào tạo và các nhà xuất bản. Cộng đồng quốc
tế cũng đã có phản ứng trước điều này. Trong năm vừa qua, Miến Điện đã đón
tiếp Thủ tướng Anh David Cameron, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon
và Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton. ASEAN đã trao quyền chủ tịch năm 2014
cho Miến Điện. Mỹ đã khôi phục hoàn toàn quan hệ ngoại giao sau 22 năm, và
sau đó là EU và Anh đã giảm bớt các biện pháp trừng phạt đầu tư và tài
chính vào tháng 5/2012.
Bất chấp sự hồ hởi mà cuộc cải
cách đã dấy lên trong và ngoài nước, Miến Điện vẫn là một chế độ độc tài
quân sự. Các vị tướng dù còn đang phục vụ hay đã về hưu kiểm soát tất cả
các cơ quan quan trọng, còn hiến pháp thì đảm bảo cho quân đội thống trị.
Tuy nhiên, dường như có điều gì đó sâu sắc đang thay đổi, mặc dù điều này
không – hoặc chưa – phải là quá trình chuyển đổi triệt để sang nền dân
chủ. Điều gì đang dẫn dắt sự thay đổi, tại sao xảy ra lúc này và rốt cuộc sẽ
dẫn đến đâu? Mục tiêu của chính phủ là gì, và tại sao họ nghĩ rằng họ có
thể đảm trách quá trình này? Khả năng để cuộc cải cách này tiếp tục và
cuộc tổng tuyển cử tiếp theo trong năm 2015 có thể dẫn đến bước đột phá và
củng cố dân chủ cao tới mức
nào?
nào?
Dù dưới bất kỳ cái tên chính
thức, từ viết tắt, hoặc thủ tướng hay tổng thống xuất thân từ tướng lãnh
nào, những nhà lãnh đạo quân sự Miến Điện từ lâu đã được biết đến vì sự
tàn nhẫn và khả năng chịu được áp lực cả trong và ngoài nước của họ. Khi
chế độ quân sự tổ chức cuộc bầu cử vào tháng 10/2010, có rất ít dấu hiệu
cho thấy bất kỳ thay đổi nào trong đường lối đang diễn ra.
Tại sao có sự thay đổi và
tại sao lại ở thời điểm này? Để làm sáng tỏ những câu hỏi vừa nêu, chúng
ta có thể xem xét năm lý do có liên quan với nhau như sau:\
1) khung thời gian nội bộ chi
phối bởi “lộ trình bảy bước” của chế độ và sự về hưu của vị đại tướng lão
làng Than Shwe;
2) việc thừa nhận Miến Điện đã
trở nên quá phụ thuộc vào Trung Quốc về mặt chính trị, kinh tế và quân sự;
3) nỗi sợ hãi về một cuộc nổi
dậy khác của nhân dân;
4) công nhận tính cần thiết
phải hợp tác với phương Tây; và
5) mong muốn giải quyết sự kém
phát triển của Miến Điện.
Lộ trình bảy bước của chế độ. Lộ trình được công bố và thực hiện từ năm
2003 và được cho là sẽ dẫn đến “nền dân chủ phát triển có kỷ cương”. Kế
hoạch đặt ra bảy bước bao gồm việc triệu tập lại Đại hội Quốc dân (được
triệu tập năm 1993 nhưng sau đó bị hoãn lại năm 1996) và cho phép hoàn
thành việc soạn thảo hiến pháp mới để đưa ra trưng cầu dân ý. Sau đó, kế
hoạch kêu gọi tổ chức bầu cử lập pháp và xây dựng một “nhà nước hiện đại,
phát triển và dân chủ”.
Trong sự kiện này, Đại hội tái
triệu tập kéo dài mà không có sự tham gia của đảng NLD (do họ đã tẩy
chay), không có tính hợp pháp và cũng không có nhiều kết quả. Cuối cùng
khi hiến pháp mới xuất hiện, nó cho thấy vẻ bề ngoài dân chủ giả dối của
cơ cấu tăng cường quyền lực cho quân đội. Ngoài các vấn đề khác, hiến pháp
mới cũng đảm bảo rằng quân đội chiếm một phần tư tổng số ghế trong
Quốc hội. Cuộc trưng cầu dân ý diễn ra ngày 10/5/2008, chưa đầy một tuần
sau khi siêu bão Nargis đã cướp đi hơn 130.000 sinh mạng người dân Miến
Điện và hàng triệu người phải di dời (mặc dù theo nguồn tin chính thức có
98% cử tri đi bầu và gần như nhất trí bỏ phiếu “đồng ý”). Sau đó là cuộc bầu
cử quốc hội giả diễn ra vào năm 2010 mà đa số phiếu nghiêng về USDP.
Sáu bước đầu tiên của lộ trình
đã được hoàn thành dưới quyền của Than Shwe, một vị tướng nổi tiếng với
việc thù ghét cá nhân bà Suu Kyi và là nhân vật xuất hiện trong danh sách
các nhà cựu độc tài, những người được cho là phải có trách nhiệm trước các
tội ác do họ gây ra, danh sách này do ông Reed Brody thuộc Tổ chức Theo
dõi Nhân quyền biên soạn. Khi về hưu vào ngày 30/3/2011, ông tự tin cho
rằng ông không chỉ củng cố địa vị đứng đầu của quân đội mà còn đảm
bảo rằng không có người kế nhiệm nào có thể tích lũy đủ sức mạnh để quay
lưng lại với ông theo cách mà ông đã quay lưng lại với người tiền nhiệm Ne
Win. Sự phân bổ quyền lực của hiến pháp cho một số tổ chức “dân chủ” có vẻ
được tính toán khéo
léo nhằm cho phép Than Shwe có thể khiến những người kế nhiệm tiềm năng chống lại nhau. Ngoài việc sắp xếp Thein Sein trở thành tổng thống, Than Shwe đã để nhân vật thứ ba trong chính quyền, Thura Shwe Mann, nắm vai trò chủ tịch hạ viện. Những nhà lãnh đạo ở cứng rắn nằm ở lớp lãnh đạo thứ hai đã lên đứng đầu USDP trong khi tướng Min Aung Hlaing, một sĩ quan tương đối trẻ, đã được thăng cấp lên làm tổng tư lệnh quân đội, một vị trí từng là quyền lực nhất nước.
Bây giờ là thời điểm đến bước
thứ bảy và cũng là bước khó khăn nhất. Còn quá sớm để nói chính xác về
những gì mà các vị tướng dự tính khi họ bàn chuyện xây dựng nhà nước “hiện
đại, phát triển và dân chủ”. Tương tự như vậy, cũng quá sớm để nói bao
nhiêu người bảo thủ còn duy trì ở những vị trí mà từ đó họ có thể ngầm làm
suy yếu các cuộc cải cách. Nhưng ngày càng có vẻ như mục tiêu của chính
phủ là thiết lập một hệ thống – được điều hành bởi một đảng do quân
đội hậu thuẫn – sẽ đưa tất cả các lực lượng chính trị và sắc tộc vào khuôn
khổ hiến pháp duy nhất và theo đuổi phát triển kinh tế gần như theo phong
cách của Malaysia hoặc Singapore.
Nhân tố Trung Quốc. Sau cuộc khởi nghĩa dân chủ tháng 8/1988, cuộc
bầu cử tháng 5/1990, và việc chính quyền từ chối thừa nhận kết quả của
cuộc bầu cử, Hoa Kỳ và các nước phương Tây đã áp đặt trừng phạt, từ chối
các khoản vay và hỗ trợ đa phương, và tăng áp lực chính trị quốc tế với Miến
Điện. Đối mặt với tất cả các việc này, nhà cầm quyền quân sự Miến Điện đã
rời bỏ chính sách không liên kết thông thường của họ và quay sang nhận hỗ
trợ về quân sự, chính trị và kinh tế từ Trung Quốc. Trong hai thập niên
tiếp theo, không chỉ Miến Điện trở nên lệ thuộc hơn vào Trung Quốc mà còn
ngược lại, vai trò quan trọng của Miến Điện đối với Trung Quốc về tài
nguyên thiên nhiên, hội nhập kinh tế khu vực và an ninh cũng đã tăng lên.
Năm 1988, tổng giá trị mậu dịch
giữa Trung Quốc và Miến Điện chỉ đạt 9,5 triệu USD. Một năm sau đã vượt
lên gấp tám lần, đạt 76 triệu USD. Đến năm 2009, Trung Quốc đã thay thế
Thái Lan trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Miến Điện. Trong năm
2010 và 2011, mậu dịch với Trung Quốc đạt 4,7 tỷ USD, chiếm hơn một phần
ba tổng giá trị mậu dịch của Miến Điện. Miến Điện bán cho Trung Quốc gỗ,
đá quý, thủy sản, đá cẩm thạch, than, nickel và các tài nguyên thiên nhiên
khác, trong khi Trung Quốc cho tràn sang thị trường Miến Điện các sản
phẩm giá rẻ từ thực phẩm cho đến đồ điện tử.
Đầu tư cũng theo chiều hướng
tương tự. Từ năm 1988 đến năm 2012, Miến Điện đã nhận khoảng 41 tỷ USD vốn
đầu tư của Trung Quốc. Trung Quốc đã vượt Thái Lan trở thành nhà đầu tư
lớn nhất của Miến Điện. Nếu tính luôn tất cả các khoản đầu tư và dự án
kinh doanh của Trung Quốc không thể hiện trên sổ sách kế toán thì Trung
Quốc thậm chí chiếm vị trí hàng đầu, là nguồn cung cấp vốn đầu tư và
thương mại lớn nhất của Miến Điện.
Lĩnh vực thu hút đầu tư nước
ngoài nhiều hơn bất kỳ ngành nào khác đó chính là dầu mỏ và khí thiên
nhiên. Theo Earth Rights International [tổ chức phi chính phủ theo dõi
chặt chẽ các dự án tài nguyên thiên nhiên - BBT], 69 tập đoàn đa quốc gia
sở hữu bởi Trung Quốc có liên quan đến hơn chín mươi dự án thủy điện, khai
thác mỏ, dầu và khí đốt ở Miến Điện. Tháng 8/2007, chính quyền quân sự
Miến Điện đã xác nhận việc bán các mỏ dự trữ khí đốt béo bở Shwe, mỏ
lớn nhất trong vịnh Bengal ngoài khơi bờ biển Arakan của Miến Điện, cho
một công ty sở hữu nhà nước của Trung Quốc. Một số nhà phân tích nắm tình
hình đã suy đoán rằng chính quyền chọn công ty sở hữu bởi chính phủ Trung
Quốc (thay vì các công ty Ấn Độ và Hàn Quốc) cho những hợp đồng béo bở để
đổi lấy sự ủng hộ mà Miến Điện nhận được từ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc,
bao gồm việc sử dụng quyền phủ quyết năm 2007 để ngăn chặn một nghị quyết
về Miến Điện do Mỹ dẫn đầu. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1973 Bắc Kinh đã
phủ quyết một vấn đề không liên quan đến Đài Loan.
Năm 2009, Trung Quốc bắt đầu
xây dựng một đường ống đôi dẫn dầu và khí thiên nhiên chạy từ bờ biển phía
Tây của Miến Điện qua các vùng dân tộc thiểu số ở phía Đông Bắc đến suốt
các tỉnh phía Nam Trung Quốc như Vân Nam, Quý Châu và Quảng Tây. Đường ống
sẽ cho phép Trung Quốc có được dầu và khí đốt từ Trung Đông và châu Phi
cũng như khí thiên nhiên từ ngay Miến Điện mà không cần phải lo lắng về
việc vận chuyển dễ bị tấn công khi qua eo biển chiến lược Malacca.
Sự phụ thuộc của Miến Điện vào
Trung Quốc vượt xa hơn mối quan hệ kinh tế tiến đến mối quan hệ an ninh.
Sau vụ đàn áp đẫm máu của quân đội vào tháng 8 và tháng 9/1988 – được gọi
là cuộc nổi dậy Bốn Số Tám (do bắt đầu vào ngày 8/8/1988) và lệnh cấm vận vũ
khí sau đó của phương Tây, Trung Quốc đã trở thành nhà cung cấp vũ khí
chính của Miến Điện, cho trả tiền sau và bán ở mức giá thấp “hữu nghị”.
Chính quyền quân phiệt Miến Điện đã cung cấp cho Trung Quốc nguồn tài
nguyên và các nhượng bộ khác để đổi lấy tiền, hàng hóa và vũ khí. Quân đội
Trung Quốc cũng bắt đầu đào tạo sỹ quan Miến Điện ở cả Trung Quốc và
Miến Điện. Sự đầu tư của Trung Quốc vào quân đội Miến Điện gắn chặt với
mục tiêu của Bắc Kinh nhằm xây dựng một lực lượng hải quân biển xa vào năm
2050: Miến Điện sẽ cho Trung Quốc cơ hội có được cánh cửa trực tiếp đến Ấn
Độ Dương.
Mặc dù tướng lãnh Miến Điện đều
biết tình trạng cô lập tách khỏi cộng đồng quốc tế của họ đã khiến cho sự
bảo hộ của Trung Quốc về chính trị và ngoại giao trở nên quan trọng, họ đã
có dấu hiệu lo lắng. Họ bắt đầu tìm kiếm trang thiết bị quân sự và sự huấn
luyện từ Ấn Độ, Nga, Pakistan và thậm chí cả Bắc Triều Tiên. Mối quan hệ
quân sự giữa Miến Điện và Bắc Triều Tiên được ghi nhận công khai lần đầu
tiên vào những năm 1990 nhưng đã không tiếp tục trở thành tâm điểm của báo
chí cho đến khi nó được trình bày trong bộ phim tài liệu có tựa đề “Tham
vọng Hạt nhân của Miến Điện” năm 2010. Ngày 12/6/2011, Hải quân Hoa Kỳ đã
buộc một chiếc tàu của Bắc Triều Tiên vận chuyển hàng hóa quân sự hướng về
Miến Điện phải quay trở lại.
Giống như Trung Quốc đã tìm
cách mở rộng tầm ảnh hưởng kinh tế của mình tại Miến Điện, các nước láng
giềng khác của Miến Điện cũng vậy. Năm 1991, Thủ tướng Ấn Độ Narasimha Rao
đã bắt đầu chính sách “Hướng Đông” tìm cách liên kết nền kinh tế tự do hóa
gần đây của Ấn Độ với những “con hổ” kinh tế năng động Đông Nam Á. Sáu năm
sau, Miến Điện và Lào trở thành hai thành viên cuối cùng của mười quốc gia
Đông Nam Á tham gia khối ASEAN (Chi tiết này không chính xác, Campuchia
mới là quốc gia cuối cùng gia nhập ASEAN – BBT). Các nhà cầm quyền của
Miến Điện, mặc dù không trực tiếp thách thức sự ảnh hưởng của Trung Quốc,
đã thận trọng hành động để giảm bớt ảnh hưởng bằng cách hội nhập sâu hơn
vào kinh tế khu vực và tìm kiếm các đồng minh khác.
Tuy nhiên, một thách thức trực
tiếp như vậy với Bắc Kinh đã trở thành một trong những sự kiện nổi bật của
năm 2011. Ngày 30/9, Tổng thống Thein Sein công bố đình chỉ hoạt động dự
án đập Myitsone do Trung Quốc xây dựng và tài trợ. Đây là đập lớn nhất
trong tám đập Trung Quốc lên kế hoạch xây dựng trên sông Irrawaddy. Dự án
thủy điện cực lớn này, bắt đầu năm 2006, liên quan đến việc tạo ra một hồ
chứa tại Myitsone với diện tích bề mặt lớn hơn so với diện tích của
cả Singapore.
Trước đó, năm 2011, các nhà
nghiên cứu, các nhà hoạt động và các tổ chức truyền thông ở Miến Điện đã
rung hồi chuông báo động về chi phí nhân lực, kinh tế và môi trường của
đập, thu hút sự quan tâm của người dân và thúc đẩy cảm giác cấp bách trong
cộng đồng xung quanh sự cần thiết phải bảo vệ dòng sông Irrawaddy, tuyến
đường thủy lớn nhất và quan trọng nhất của đất nước. Mặc dù một vài trong
số các biện pháp cải cách vẫn chưa có hiệu lực nhưng đã cho thấy rõ ràng
rằng việc huy động cộng đồng xung quanh việc xây dựng con đập thể hiện một
thách thức đối với cam kết cải cách của chính phủ mới, ít nhất là ở khía cạnh
quan hệ công chúng. Một phần là do sự quan ngại của công chúng, nhưng có nhiều khả năng là do sự cân nhắc về chiến lược và kinh tế, trong đó có tác hại tiềm tàng đến vùng kinh tế nông nghiệp quan trọng ở hạ lưu, nên quyết định của Tổng thống Thein Sein đình chỉ xây dựng con đập là một dấu hiệu rõ ràng thể hiện mối quan ngại của chính phủ đối với ảnh hưởng của Trung Quốc ở Miến Điện.
Quyết định về đập Myitsone báo
hiệu sự chuyển đổi thái độ về vai trò của Trung Quốc tại Miến Điện, nhưng
không phải là một sự gián đoạn trong mối quan hệ này. Chính phủ Miến Điện
vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào vị hàng xóm khổng lồ về kinh tế, chính trị
và chiến lược, và đã bày tỏ sự không mong muốn đối đầu với nó. Đảng NLD
cũng khéo léo như vậy khi thảo luận về vai trò của Trung Quốc. “Vì vậy, cho
rằng chúng tôi không thể có mối quan hệ tốt đẹp bởi hệ thống khác nhau là
không đúng”, bà Aung San Suu Kyi nhấn mạnh. “Miến Điện và Trung Quốc đã
có được mối quan hệ rất gần gũi và thân thiện, và bất kỳ vấn đề nào cũng
sẽ được giải quyết một cách hòa bình bất cứ khi nào chúng xuất hiện.”
Đối với Thein Sein và thế hệ
các nhà lãnh đạo quân sự mới dưới quyền ông, có vẻ như sự mở cửa cải cách
đã tạo cơ hội cho họ bắt đầu phát triển đất nước một cách thận trọng thoát
khỏi sự quá phụ thuộc vào Trung Quốc, nước mà họ tin rằng đã lợi dụng sự
cô lập của Miến Điện, và thúc đẩy quan hệ với phương Tây chặt chẽ hơn.
Nỗi sợ hãi về một cuộc nổi dậy khác. Trong suốt thời kỳ quân đội nắm quyền, áp
lực không chỉ từ nước ngoài mà cả từ trong nước. Mặc dù quân đội từ lâu đã
xử lý nghiêm khắc các cuộc biểu tình bất mãn của công chúng – gần đây nhất
là tháng 9/2007, khi quân đội đã đàn áp tàn nhẫn cuộc Cách mạng Cà sa
(Saffron Revolution) – cho tới năm 2010 những người lính dường như hiểu ra
rằng có điều gì đó cơ bản đã thay đổi. Họ có lo lắng và mệt mỏi bởi suy
nghĩ về việc ngày càng có nhiều sự khinh miệt và trừng phạt quốc tế hơn
hay không? Liệu cuối cùng họ có nhận ra rằng một nhà nước thịnh vượng và
hiện đại, chưa nói đến dân chủ, không thể được xây dựng bằng những chiếc
dùi cui hay không? Dù với bất kỳ lý do gì, các nhà cầm quyền Miến Điện
dường như đã hiểu – ngay cả trước khi phong trào nổi dậy Mùa xuân Ả Rập
xảy ra và củng cố bài học – rằng họ không còn có thể đơn giản là tấn công
bằng vũ lực chống lại các phong trào phản kháng như họ đã từng thực hiện
trong quá khứ.
Cũng như năm 1990 khi chính
quyền quân sự lúc bấy giờ đã đánh giá thấp sự ủng hộ của dân chúng dành
cho đảng NLD, các nhà lãnh đạo quân sự năm 2007 đã không hiểu được độ rộng
và bề sâu của sự bất mãn nằm đằng sau những dấu hiệu ban đầu của tình
trạng bất ổn. Đảng NLD không phải là tổ chức đối lập duy nhất trong nước.
Các nhà lãnh đạo được thả gần đây của Phong trào “Bốn Số Tám” đã lãnh đạo
cuộc biểu tình về việc tăng giá dầu và khí đốt. Đầu tháng 9/2007, chính
quyền đã đàn áp tàn bạo cuộc biểu tình hòa bình do các nhà sư Phật giáo
ở Pakokku và do đó nhanh chóng biến phong trào phản đối quy mô nhỏ thành
cuộc nổi dậy trên toàn quốc. Trước cuối tháng, hàng trăm hàng ngàn nhà sư
và những người khác đã xuống đường thách thức trực tiếp chế độ quân sự.
Cách mạng Cà sa là cuộc khởi
nghĩa đầu tiên ở Miến Điện được chiếu trên truyền hình. Kênh tiếng nói Dân
chủ Miến Điện, một kênh truyền hình vệ tinh đặt tại Na Uy, dựa vào mạng
lưới các nhà quay phim ngầm đã cung cấp những bản tin truyền hình gần như
trực tiếp. Cảnh tượng vô số các nhà sư diễu hành qua các đường phố Rangoon
và các thành phố khác với những chiếc bát bố thí lật úp trong một cử chỉ
thể hiện sự phản đối đã mang lại một thách thức trực tiếp và rõ ràng đối với
chế độ mà từ lâu đã cố gắng sử dụng Phật giáo để hợp pháp hóa sự cai trị
của nó.
Tám tháng sau, ngày 8/5/2008,
siêu bão Nargis tràn qua đồng bằng Irrawaddy. Bão lớn và lũ lụt đã làm hơn
130.000 người thiệt mạng và khiến 1,2 triệu người khác mất nhà cửa và
tuyệt vọng. Phản ứng ban đầu của chính quyền là giảm nhẹ thiên tai và từ
chối viện trợ quốc tế. Trong vòng một tháng, khi những công dân Miến Điện
được huy động để ứng phó và áp lực quốc tế tăng lên, chính quyền cuối cùng
cũng nhượng bộ, cho phép viện trợ quốc tế và nới lỏng một số hạn chế với
các nhóm xã hội dân sự địa phương.
Rất ít người biết về những cuộc
bàn cãi trong quân đội dẫn đến quyết định đối phó với cuộc Cách mạng Cà sa
bằng vũ lực tàn bạo cũng như hậu quả của cơn bão Nargis với lệnh cấm nhận
viện trợ bên ngoài bất chấp những đau khổ mà hàng triệu dân thường Miến
Điện đang trải qua. Tuy nhiên, có vẻ như những tình tiết này đã gây nên
những căng thẳng trong giới lãnh đạo quân sự cấp cao.
Nối lại can dự với phương Tây. Chính quyền muốn nối lại hoạt động với
phương Tây nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Quốc và nhận được sự giúp
đỡ khi đối phó với những thách thức kinh tế nghiêm trọng, nhưng cũng thừa
nhận rằng họ không thể đạt được mục tiêu này mà không hợp tác với phe đối
lập trong nước. Trong hai mươi năm qua, chính quyền quân sự đã tìm cách
làm mất uy tín, tước quyền hợp pháp và tàn sát bất kỳ sự phản đối nào, kể
cả phản đối một cách hòa bình. Nỗ lực của chính quyền không những đã thất
bại, mà nó còn vô tình giúp bảo đảm sự ủng hộ không bao giờ phai nhạt của
nhân dân dành cho phe đối lập dẫn dắt bởi NLD. Bằng chứng là trong cuộc
Cách mạng Cà sa và cuộc bầu cử bổ sung ngày 1/4, sự ủng hộ của dân chúng
cho phe đối lập vẫn duy trì mạnh mẽ. Sự bền bỉ, cam kết, lòng can đảm và
hy sinh của những nhà hoạt động đã củng cố tính hợp pháp của các nhóm ủng
hộ dân chủ, buộc chính quyền phải chấp nhận rằng sự đồng thuận của họ là
cần thiết để triển khai thành công chương trình cải cách.
Tổng thống Thein Sein thể hiện
điều tương tự khi gặp bà Aung San Suu Kyi tại thủ đô mới Naypyidaw vào
ngày 19/8/2011. Ông biết rằng cả Miến Điện lẫn thế giới sẽ không đánh giá
cao kế hoạch mở cửa của ông trừ khi bà chấp thuận nó. Vai trò trung tâm
của bà trong việc hợp pháp hóa quá trình và, nói rộng hơn, “bật đèn xanh” cho
cộng đồng quốc tế nối lại hoạt động với Miến Điện đã được nhấn mạnh một
lần nữa khi Tổng thống Mỹ Barack Obama hỏi ý kiến của bà trước khi
gửi Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đến Miến Điện vào tháng 12/2011.
Nỗi sợ tụt hậu. Liên quan chặt chẽ với mối lo của chính phủ về
sự bất mãn của dân chúng là sự thừa nhận ngày càng rõ ràng rằng Miến Điện
đang bị các nước láng giềng bỏ xa hơn bao giờ hết. Bất chấp sự cô lập
tương đối của đất nước, các quan chức Miến Điện cay đắng nhận ra những
thất bại kinh tế và xã hội của Miến Điện. Là một trong những nước kém phát
triển nhất thế giới, Miến Điện bị bỏ lại đằng sau so với cả những nước
Đông Nam Á nghèo, và tụt hậu một cách tệ hại khi so sánh với những cường
quốc kinh tế láng giềng như Malaysia, Singapore và Thái Lan. Năm 2010, Chỉ
số Phát triển Con người của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc xếp
Miến Điện đứng thứ 132 trên 169 quốc gia, mức thấp nhất trong khu vực Đông
Nam Á.
Mặc dù Miến Điện đang mở rộng
thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhưng nền kinh tế vẫn thuộc
nhóm chậm phát triển nhất trong khu vực. Thương mại và đầu tư chủ yếu xoay
quanh việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, trong khi ngành sản xuất và
nông nghiệp thâm dụng lao động chỉ chiếm 1% FDI. Tệ hại hơn, chính quyền
đã lãng phí tài nguyên thiên nhiên trời cho của đất nước vào các dự án tốn
kém chẳng hạn như kế hoạch xây dựng thủ đô mới tại thành phố Naypyidaw –
dự án mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế ước tính có thể tiêu tốn của Miến Điện gần 2%
GDP năm 2006. Theo thống kê chính thức của chính phủ, họ đã phân bổ 23,6%
ngân sách năm 2011 cho chi tiêu quân sự trong khi chi tiêu cho cả giáo
dục và y tế chỉ 5,4%.
Các biện pháp trừng phạt quốc
tế cứng rắn – bao gồm các biện pháp tài chính có chủ đích do Hoa Kỳ thúc
đẩy, đã làm trầm trọng thêm ảnh hưởng tai hại của chính sách kinh tế kém
cỏi của Miến Điện. Mặc dù rất khó để đo lường tác động của các biện pháp
trừng phạt, Tổng thống Thein Sein đã đưa việc dỡ bỏ chúng trở thành một
mục tiêu quan trọng trong các cuộc thảo luận với các nhà lãnh đạo phương
Tây, các quan chức Liên Hiệp Quốc và các đối tác của ASEAN.
Quản lý quá trình chuyển đổi
Sự chuyển đổi hiện đang được
tiến hành tại Miến Điện đặt ra vấn đề không chỉ về động lực và thời gian
mà còn là cách quản lý. Nói cách khác, làm thế nào để Miến Điện nhanh
chóng từ một nhà nước quân sự độc tài trở thành một chính phủ bán dân sự
trong khi né tránh phản đối mạnh mẽ của phe bảo thủ và chiêu mộ phe
đối lập vào việc hợp pháp hóa các cải cách? Chìa khóa của cải cách thành
công (hay ít nhất là cho sự tồn tại của cải cách) là các bảo đảm bởi hiến
pháp cho quân đội và phe bảo thủ kết hợp với một loạt các sắp xếp nhân sự
khôn ngoan đã giúp đặt các vị cựu tướng lĩnh vào các vị trí nắm quyền mang
tính cạnh tranh lẫn nhau về mặt thể chế.
Những vị trí cạnh tranh lẫn
nhau tồn tại bởi vì người tiền nhiệm của Thein Sein là Than Shwe đã lo
lắng ngăn chặn việc tập trung quyền lực và âm mưu lật đổ ở các cấp bậc
ngay dưới cấp cao nhất như các trường hợp đã dẫn đến việc tống giam và
cuối cùng là cái chết của cả hai người tiền nhiệm của mình, Đại tướng
Saw Maung (người thực hiện cuộc đảo chính năm 1988) và Tướng Ne Win (người
thực hiện cuộc đảo chính đầu tiên năm 1962), những người đã lần lượt qua
đời vào năm 1997 và 2002. Do đó, Than Shwe đã để lại một hệ thống chính
trị vẫn còn dưới sự kiểm soát của quân đội nhưng không cho phép bất kỳ một
nhân vật mới duy nhất nào có thể củng cố quyền lực vượt ra ngoài tầm thách
thức của các tướng lĩnh
khác.
khác.
Hiến pháp năm 2008 có một số
điều khoản bảo vệ đặc quyền quân đội. Ngoài việc dành riêng một phần tư số
ghế trong Quốc hội cho các sỹ quan, nó còn cho phép thành lập Hội đồng An
ninh và Quốc phòng Quốc gia với quyền tuyên bố tình trạng khẩn cấp (một
quyền hạn mà tổng thống cũng có) và bổ nhiệm tổng tư lệnh quân đội. Hơn
thế nữa, sáu nguyên tắc hiến pháp cơ bản tuyên bố rằng quân đội “có thể
tham gia nhà nước với vai trò lãnh đạo chính trị quốc gia”. Sửa đổi bất kỳ
điều khoản nào trong các điều khoản này đòi hỏi phải được đa số 75% quốc
hội đồng ý cũng như được chấp thuận bởi trưng cầu dân ý.
Hiến pháp quy định một số tổ
chức dân chủ mới (hay mới được trao quyền), bao gồm không chỉ Quốc hội mà
còn cả cơ quan hành pháp và tư pháp. Cách thức mà các tổ chức này được
trao quyền, dù bằng cách bổ nhiệm hay bầu cử – đều nhằm đảm bảo rằng những
người trong quân đội vẫn duy trì quyền lãnh đạo và không có một sĩ quan
cấp cao nào có thể tích lũy quá nhiều quyền lực so với đồng nghiệp của
mình. Mục đích của điều này không phải nhằm dân chủ hóa các thể chế này mà
chủ yếu để đảm bảo quyền lực được phân tán hơn so với trước kia xuyên suốt
hàng ngũ cấp cao của giới chức quân sự nắm quyền.
Hiến pháp năm 2008 quy định
rằng tổng thống và các bộ trưởng nội các - những người được trúng cử làm
nghị sĩ – sẽ phải rời Quốc hội cũng như các đảng phái chính trị của mình
trong suốt nhiệm kỳ phục vụ trong các cơ quan hành pháp. Kể từ tháng
3/2011, quy định này, nhằm giảm thiểu sự xuất hiện ý niệm đảng phái trong
các quan chức quốc gia, đã có tác động tạo khoảng cách giữa các quan
chức này với đảng cầm quyền USDP. Điều này quan trọng bởi các nhà lãnh đạo
USDP thường tỏ ra thận trọng và bảo thủ hơn so với Tổng thống Thein Sein
và nhóm của ông. Thật vậy, USDP, do dự báo chính xác việc đảng NLD sẽ đạt
kết quả tốt trong cuộc bầu cử bổ sung năm 2012, đã phản đối việc tổ chức
các cuộc bầu cử này. Đảng này cũng đã thúc đẩy không thành công việc sửa
đổi hiến pháp cho phép các quan chức hành pháp, hầu hết là thành viên
USDP, được giữ tư cách thành viên đảng của mình. Theo một trong những cố
vấn của Thein Sein, vị tổng thống coi mình và một số nhà lãnh đạo có đầu
óc cải cách khác là những người hoạt động chỉ một nhiệm kỳ. Nếu như vậy,
việc họ không cần quan tâm tới việc tiếp tục nắm quyền càng có xu hướng
nới rộng khoảng cách giữa họ với đảng của mình.
Thành công của quá trình cải
cách phụ thuộc vào sự hợp tác của phe đối lập, đặc biệt là của đảng NLD và
các đảng sắc tộc lớn của quốc gia. Mặc dù những thay đổi trong mười tám
tháng qua thường được xem là đã được dẫn dắt “từ phía trên” nhưng vai trò
của phe đối lập trong việc thúc đẩy lẫn tạo dựng cải cách cũng không kém
phần quan trọng. Như đã nói ở trên, sự thay đổi đường lối của Tổng
thống Thein Sein dường như một phần là do nhận thức rằng không thể nào có
con đường tiến về phía trước, dù về mặt chính trị, kinh tế hay chiến lược,
nếu không có sự hỗ trợ của bà Aung San Suu Kyi và đảng NLD. Sự ủng hộ của
bà giúp giảm áp lực trong nước và làm cho Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế rộng
lớn hơn chấp nhận nối lại can dự với Miến Điện.
Xã hội dân sự, đảng NLD, và các nhóm sắc tộc
Thách thức của các mối quan hệ sắc tộc
Hướng tới năm 2015
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Mien
Dien mo cua Co hoi cho cac nha dan chu.pdf
No comments:
Post a Comment