Theo
như hệ thống tư pháp ngày nay tại các nước dân chủ. Một phiên tòa gồm có chánh
án, bồi thẩm đoàn, công tố viên, luật sư biện hộ, nhân chứng và nghi can. Nghi
can là ông Hồ Chí Minh. Công tố viên là những người kết tội ông. Nhân chứng là
những nạn nhân dù trực tiếp hay gián tiếp. Luật sư biện hộ là những người Cộng
Sản bênh vực ông, những tác giả đã phủ nhận việc ông là người Đài Loan. Bồi
thẩm đoàn là các độc giả, những người đọc, biết về sự kiện, biết các bằng
chứng. Chánh án sẽ là người dân Việt. Bản án sẽ là những trang sử được ghi lại
về việc này. Người viết chỉ là một trong những người đi tìm hiểu, để biết thêm
về những bí ẩn trong lịch sử cận đại, muốn nêu ra đây để chia sẻ với bạn đọc,
với hy vọng chúng ta sẽ có một bản án (verdict) sớm hơn để ghi lại trong trang
sử Việt cho hậu thế...
*
Hồ
Chí Minh là một nhân vật đầy bí ẩn, rất ít ai biết sự thật về người này, nhưng
năm 2008, một tác giả ở Đài Loan là ông Hồ Tuấn Hùng (胡俊熊) đã xuất bản sách
có tựa đề “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” (胡志明生平考 - (1) "Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh") do nhà
xuất bản Bạch Tượng Văn Hoá ở Đài Loan ấn hành. Sách này đã gây xôn xao trong
dư luận, đặc biệt là từ khi dịch giả Thái Văn đã dịch sang tiếng Việt, vì chủ
đề của sách này nói: Hồ Chí Minh từ năm 1933 về sau
không phải là Nguyễn Ái Quốc , mà ông là một người Đài Loan gốc Hẹ (Hakka) hay
Khách Gia là Hồ Tập Chương (Hu Ji Zhang 胡集璋), quê
ở Đài Loan, huyện Miêu Lật, thôn Đồng La (2),
lấy tên là Hồ Chí Minh và trở thành nhân vật số một của đảng Cộng Sản Việt
Nam.
Tác
giả Hồ Tuấn Hùng (HTH) đã nêu lên khá nhiều chi tiết về Nguyễn Ái Quốc trước
năm 1933, sau đó là về Hồ Chí Minh, người đã được ông cố chứng minh là Hồ Tập
Chương. Tác giả đã nêu lên những chi tiết như hoạt động về chính trị, diện mạo,
cuộc sống tình ái, bút tích, khả năng ngoại ngữ, cách viết, v.v... của hai nhân
vật Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương. Điều này đã có khá nhiều bài viết của
những tác giả người Việt và rất nhiều lời bình phẩm trên các diễn đàn. Trong
khi đó chính quyền Cộng Sản vẫn im hơi lặng tiếng.
Một
phát giác của ông Hồ Tuấn Hùng đã làm chính tác giả phải "nhảy dựng"
lên, người viết bài này chưa thấy ai bàn tới điều này (qua những bài viết đã
đọc), đó là câu viết của chính Hồ Chí Minh, dưới bút danh Trần Thắng Lợi trong
bài "Đảng ta", năm 1949. Có lẽ vì "vô tình" (?) nên
Hồ Chí Minh đã viết câu: "Đồng
chí Nguyễn Ái Quốc và tôi" ("Nguyễn Ái Quốc đồng chí hòa
ngã" trong "Hồ Chí Minh sinh bình khảo"). Câu này đã xác định rõ: Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn
Ái Quốc, hai người không phải là một như ông ta tự nhận, mà là hai người khác
nhau?
Câu
viết này đã tạo nên phản ứng ngầm một cách gián
tiếp của đảng và nhà nước Cộng Sản, mà người viết sẽ trình bày thêm
trong phần sau. Vậy nếu Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc thì ông ta là
ai? Là Hồ Tập Chương như tác giả Hồ Tuấn Hùng đã viết? Chúng ta sẽ cố tìm hiểu
thêm qua những nhận định trong sách "Hồ Chí Minh sinh bình khảo"
của tác giả này.
A- Lời tự khai của Hồ
Chí Minh
1- “Lạy ông tôi ở
bụi này"?
Trong
tiểu đề "Cùng lên vũ đài, một ẩn một hiện" (3) của dịch giả Thái Văn:
"Tháng
giêng năm 1949, tạp chí "Sinh hoạt nội bộ" kỳ thứ 13 của Việt Nam có
đăng tải một bài viết nhan đề "Đảng ta" do Hồ Chí Minh viết dưới bút
danh Trần Thắng Lợi. Nhà xuất bản Chính trị Quôc gia đã đưa "Đảng ta"
vào “Hồ Chí Minh toàn tập”, tập 5, trang 547 . Trong "Đảng ta" có một
đoạn nói rất rõ ràng như sau:
Cuối
năm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc trở lại Tàu, cùng với đại biểu các nhóm khai
hội ở Hương Cảng. Trong 7, 8 đại biểu,
ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi, nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và
đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy
sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám...
(Tác
giả nhận định, nguyên văn "Tản Anh" là viết tắt của Lê Tản Anh. Hồi
ký cách mạng "Giọt nước trong biển cả" của Hoàng Văn Hoan, trang 4 có
đoạn viết về Lê Tản Anh là thành viên sáng lập nhóm "Tâm tâm xã").
Đọc
đến đoạn văn xác thực này, tôi như muốn nhảy dựng lên. Tại làm sao mà trong một
tập san chính thức của nhà nước lại xuất hiện câu văn: "đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi". Câu văn này há
chẳng khẳng định, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau đó sao?
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng tham gia tổ chức Hội nghị Hương
Cảng? Lúc mới đọc, tôi cho rằng có sự nhầm lẫn khi viết, sau đó đọc đi đọc lại
nhiều lần, rà soát cẩn thận từng chữ, và đi đến kết luận là hoàn toàn không có
chuyện nhầm lẫn làm tôi đặc biệt quan tâm" (HTH).
Qua
đoạn văn này chúng ta thấy rõ là Hồ Chí
Minh đã tự nhận ông ta là một người khác với Nguyễn Ái Quốc.
Tuy
nhiên những gì người Cộng Sản nói thì chúng ta cần phải kiểm chứng lại một cách
cẩn thận, vì theo như trong sách của ông Hoàng Văn Chí (4) "Từ thực dân đến cộng sản - Một kinh nghiệm lịch
sử của Việt Nam" (5), thì ông Hồ nhiều lần đã nói ông không phải là
Nguyễn Ái Quốc:
"Nhân
dân Việt Nam bắt đầu nghe tên Hồ Chí Minh từ tháng 8 năm 1945. Ngày 28 tháng 8
năm đó (nghĩa là ngay sau ngày Việt Minh cướp chính quyền) báo chí Hà Nội công
bố thành phần Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới thành lập do ông
Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Trước đấy, chưa ai
nghe đến tên Hồ Chí Minh bao giờ, và mọi người đều thắc mắc về cái tên hơi
kỳ lạ đó. Nhiều người cho rằng cái tên đó văn hoa quá không phải là tên
thật mà chỉ là tên hiệu.
Dư
luận bàn tán về lý lịch ông Hồ Chí Minh, nhất là các nhân viên trong tân chính
phủ hồi ấy lại càng băn khoăn hơn, và tất cả đều nóng lòng muốn biết rõ ông Hồ
là ai và tên thật là gì. Nhưng rồi cũng chẳng phải chờ lâu, vì chỉ mấy hôm sau bắt đầu có tin đồn Hồ Chí Minh là tên
mới của Nguyễn Ái Quốc, con người bí mật đã từng “khai sinh ra Đảng Cộng sản
Việt Nam”.
Khi
nghe tin đồn này, sở Mật thám Pháp đã lập tức lục lại hồ sơ để tìm ảnh Nguyễn
Ái Quốc. Theo hồ sơ chính thức thì Nguyễn Ái Quốc
đã chết ở Hồng Kông năm 1933. Khi đem so sánh bức ảnh đã phai nhạt của
Nguyễn Ái Quốc với những tấm ảnh của ông Hồ bán đầy đường Hà Nội, sở Mật thám Pháp mới biết họ Nguyễn vẫn còn sống, và sau
10 năm ẩn náu trong bóng tối đã trở lại chính trường dưới cái tên Hồ Chí Minh. Các
chuyên viên sở Mật thám Pháp quyết đoán Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc mặc
dầu sau 20 năm gian khổ, vóc dáng và nét mặt họ Nguyễn có thay đổi rất nhiều. Bằng cớ là vành tai phải của hai bức ảnh đều nhọn, trong
khi tai bên trái vẫn đều đặn. Nhưng ông
Hồ cứ chối, nói rằng mình không phải là Nguyễn Ái Quốc. Ngay cả khi tướng Salan, đại diện Pháp dự
cuộc đàm phán năm 1946, hỏi thẳng vào mặt ông Hồ, ông vẫn một mực chối cãi.
Riêng đối với người Việt thì ông Hồ không chối thẳng nhưng cứ
trả lời loanh quanh. Thí dụ như trong năm 1946, ông đáp tầu Dumont D'Urville
trở về Hải Phòng sau hội nghị Fontainebleau. Cùng đi trên chuyến tàu này có bốn
chuyên gia Việt Nam mà ông Hồ đón từ Paris về nước. Một trong bốn ông là ông Võ
Quý Huân, có hỏi ông Hồ: “Thưa chủ tịch, chủ tịch có biết ông Nguyễn Ái Quốc
hiện nay ở đâu không ạ?” Ông Hồ chỉ mỉm cười và đáp: “Chú
tìm ông ấy mà hỏi, tôi đâu biết”.
Không
những ông Hồ chỉ giữ kín lý lịch của ông mà đến quê quán gốc tích của ông, ông
cũng hết sức bí mật. Trong một bản danh sách ứng cử quốc hội năm 1946, ông khai
sinh quán ở Hà Tĩnh; nhưng hiện nay ai cũng biết rõ ông sinh quán ở Nghệ An. Việc này được phơi bày công khai năm 1958 khi một phái
đoàn nhân viên sứ quán các nước xã hội chủ nghĩa viếng thăm quê hương ông Hồ.
Sau cuộc viếng thăm, báo chí Hà Nội đã thú nhận ông Hồ Chí Minh chính là Nguyễn
Ái Quốc. Tạp chí Tranh ảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Việt Nam Thông
tấn xã (Bắc Việt) ấn hành, trong số tháng 8 năm 1960, có đăng bức ảnh Nguyễn Ái
Quốc với dòng chữ chú thích “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) năm 30 tuổi,
đang bôn ba hoạt động ở hải ngoại”.
Mặc
dầu lý lịch của ông Hồ đã được xác định rõ rệt, thế giới tự do vẫn không biết
mấy về con người kỳ lạ ấy, và phần lớn những hoạt
động của ông Hồ vẫn chỉ có Đệ Tam Quốc tế biết rõ mà thôi. Tất cả những điều
ghi chép về ông Hồ chỉ là dựa vào tập hồ sơ mong manh của mật thám Pháp, Anh và
những lời thuật lại của một vài người đã có dịp gặp ông.
Vì
thế muốn biết Hồ Chí Minh là ai chúng ta cần phải tìm hiểu nhiều hơn nữa. Riêng
về vấn đề hình chân dung của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, người viết không
dám lạm bàn vì đã có khá nhiều bài viết với những hình ảnh này.
2 - Bảy hay tám đại
biểu tại hội nghị Cộng Sản Việt Nam năm 1930?
Trong
bản dịch của dịch giả Thái Văn, câu: "Trong
7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi" khác với
nguyên bản về số đại biểu, nguyên văn theo phiên âm Hán Nôm: "Tại
trường đích thất vị đại biểu trung, trừ liễu Nguyễn Ái Quốc đồng chí hoà
ngã" (6). Nguyễn Ái Quốc
triệu tập đại hội, hẳn là ông biết rõ có bao nhiêu đại biểu tham dự. Có lẽ dịch
giả Thế Anh đã lấy từ bản chính "Hồ Chí Minh toàn tập", ấn
hành năm 2000, dạng PDF, tập 5, trang 1015, trong bài "Đảng ta"
của Trần Thắng Lợi, bút hiệu của Hồ Chí Minh: "Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và
tôi, nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng
chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc
lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám". Như thế tác giả Hồ Tuấn Hùng đã
tham khảo sách "Hồ Chí Minh toàn tập" ở một lần xuất bản khác?
Cũng tập 5, nhưng khác số trang là trang 547 thay vì 1015.
Tuy
nhiên trong bản dịch, phần theo sau lại viết như nguyên bản: "Chú thích
(1): Bảy
vị đại biểu tại Hội nghị gồm Hồ Tập Chương là phái viên liên
lạc của Quốc tế Cộng Sản, đương nhiên đứng đầu danh sách, tuy nhiên tài liệu
ghi chép danh sách không thể tìm thấy, có khả năng
đã bị sửa chữa hoặc giấu đi. Chỉ biết, sau khi thành lập Đảng, có 7
(bảy) vị Ủy viên Trung ương. Căn cứ vào các tư liệu lịch sử còn lại, bảy Ủy viên là: Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Trịnh Đình Cửu, Lê Tản Anh, Trần Văn
Cung, Lê Hồng Sơn và Hồ Tập Chương."
Tài
liệu của Đảng Cộng Sản viết khác, bảy đại biểu (7) là Nguyễn Ái Quốc (1890-1969), Hồ
Tùng Mậu (1896-1951), Lê Hồng Sơn (1899-1933), Trịnh Đình Cửu (1906-1990),
Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932), Nguyễn Thiệu (1903-1989) và Châu Văn Liêm
(1902-1930).
Như
thế thì cuộc họp này có thể gồm 8
đại biểu, và người thứ 8 này là Hồ Tập Chương?
Tại
sao Hồ Chí Minh lại viết như thế? Theo như ông Hồ Tuấn Hùng thì năm 1949, khi
viết bài "Đảng ta", ông Hồ vẫn chưa chính thức nhận mình là
Nguyễn Ái Quốc. Tác giả HTH viết:
"Việc
này trong "Truyện Hồ Chí Minh" của William J. Duiker, trang 499 (8) đã viết rất rõ ràng: "Sau
hai mươi năm giấu giếm thân phận, hiện tại Hồ Chí Minh 67
tuổi, cuối cùng ông cũng thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, để rồi các
phương tiện truyền thông chính thức của nhà nước ra sức ca ngợi ông như một
người suốt đời hy sinh vì lý tưởng cách mạng, phục vụ tổ quốc". Tiếp đó,
tác giả (nv: Duiker) lại viết: "Trước đây, Hồ Chí Minh chưa thừa nhận mình
là Nguyễn Ái Quốc, vì vào năm 1946, khi triệu tập Hội nghị Quốc dân đại hội, Bộ
trưởng Lao động Nguyễn Văn Thái có đề nghị vinh danh Hồ Chí Minh là "công
dân số một" của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa". ...
"Nếu
quả thật Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc cùng là người Việt Nam, liệu còn có động
tác giấu đầu hở đuôi "người công dân số một" này không?" (HTH).
3 - Phản ứng gián
tiếp của nhà nước Cộng Sản
Câu
viết của Hồ Chí Minh: “Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và
tôi," mà ông Hồ Tuấn
Hùng nêu ra có lẽ đã làm Đảng Cộng Sản Việt Nam giật mình? Tháng 3 năm 2013,
bài viết "“Đảng ta” ngày ấy - bây giờ" của Vũ Lân trong tạp
chí Xây Dựng Đảng đã được phổ biến trên internet tại nhiều trang web khác nhau
(9). Bài viết "Đảng ta"
của Trần Thắng Lợi đã được nhắc lại, tuy nhiên đoạn văn:
"Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn ái Quốc và tôi,
nay
chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và
vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày
Cách mạng Tháng Tám...
đã bị loại bỏ và thay bằng hai
ngoặc đơn với 4 chấm ở trong "(....)".
Điều
này chứng tỏ "Đảng ta" biết là đã bị hố và sa lầy vì sự việc
bưng bít và lừa dối bấy lâu đã lộ ra và không biết làm sao có thể cứu vãn ?!
B- Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương?
Theo
như tác giả Hồ Tuấn Hùng thì:
"1
- Vào năm 1930, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là 2 trong số 7, 8 đại biểu sáng
lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
...
3
- Trước sau năm 1930, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh
cùng làm việc ở Cục Phương Đông Thượng Hải thuộc Quốc tế Cộng Sản. Hai
người thường qua lại Hương Cảng và Thượng Hải. Lúc ấy Hồ Chí Minh là phái viên
của Cục Phương Đông Quốc tế Cộng Sản đến hoạt động ở Hương Cảng. Vậy thì người
mang tên Hồ Chí Minh không phải Nguyễn Ái Quốc này là ai? Ông ta chính là phái viên Quốc tế Cộng Sản Hồ Tập Chương,
thành viên tham gia Ban trù bị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, được các yếu
nhân của Trung cộng và Việt cộng hết sức giữ bí mật".
1- Sơ
lược tiểu sử Nguyễn Ái Quốc (10)
Ghi chú: Tiểu sử này
được viết theo sách "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" của ông Hồ Tuấn
Hùng.
Nguyễn
Ái Quốc là con của ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (11) và bà Hoàng Thị Loan, là
con thứ 3 trong 4 người con. Sinh ngày 19 (?) tháng 5 (?) năm 1890 (?) tại làng
Kim Liên (gọi nôm na là làng Sen), xã Nam Liên (Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An. Tên hồi nhỏ là Nguyễn Sinh Cung (Công) sau đổi là Nguyễn Tất
Thành.
Học
chữ Hán từ năm 1900 đến 1904, học dự bị trường Quốc Học Huế từ 1905 đến 1908.
Làm giáo viên trường tiểu học Dục Thanh ở tỉnh Phan Thiết.
Năm
1911 vào Sài Gòn, học nghề làm bếp, sau đó lên tàu Amiral Latouche Trevil làm
phụ bếp với tên Văn Ba đi Singapore rồi sang Pháp. Đến Marseille năm 1913 sau
đó đi Tây Phi, Bắc Mỹ.
Từ
năm 1914 đến 1917, sống tạm ở Luân Đôn (London), học tiếng Anh, làm phụ bếp,
rồi lại có việc trên tàu đi Nữu Ước (New York).
Cuối
năm 1917, đến định cư tại Paris. Tại đây Nguyễn Tất Thành quen biết với các nhà
cách mạng như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc.
Năm
1919 quen biết với các chính khách Tả khuynh của Pháp, gia nhập đảng Xã Hội
Pháp.
Năm
1920 gia nhập đảng Cộng Sản Pháp
Năm
1921, đảng Cộng Sản Pháp tuyên truyền phản đối Chủ nghĩa Thực dân. Nguyễn Ái
Quốc bị mật thám theo dõi.
Tháng
6, năm 1923, đảng Cộng Sản Pháp gởi Nguyễn Ái sang Mạc Tư Khoa (Moscow) học về
chủ thuyết Cộng sản, làm việc tại Cục Viễn Đông của Quốc Tế Cộng sản.
Tháng
6, năm 1924, tham gia Hội Nghị Cộng Sản quốc tế lần thứ 5 tại Mạc Tư Khoa
(Moscow). Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (thủ phủ của tỉnh
Quảng Đông) lấy tên là Lý Thụy, làm phụ tá
cho Mikhail Borodin là đại diện Quốc Tế Cộng Sản Trung Hoa.
Năm
1925, Nguyễn Ái Quốc v tham gia tổ chức"Tâm Tâm xã" sau đổi thành
"Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí hội" ở Quảng Châu là tiền
thân của đảng Cộng Sản Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Quốc Tế Cộng
Sản.
Năm
1926, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc Quốc Dân đảng lần thứ
II tại Quảng Châu.
Ngày
18 tháng 10 năm 1926, lấy Tăng Tuyết Minh ( Zheng Xue Ming 曾雪明) do Đặng Dĩnh Siêu
là vợ của Chu Ân Lai và bà Thái Sướng giới thiệu và làm chứng.
Năm
1827, Quốc Dân đảng đàn áp đảng Cộng Sản, Nguyễn Ái Quốc sang Mạc Tư Khoa, rồi
được cử đến Bỉ, Thũy Sĩ, Ý và Pháp. Từ giai đoạn này Nguyễn Ái Quốc không có
bất cứ liên lạc gì với Tăng Tuyết Minh.
Năm
1928, theo tàu của Nhật đi Bangkok, Thái Lan để vận động Việt Kiều tham gia
Cộng Sản. Tại đây Nguyễn Ái Quốc lập "Xiêm La Cách Mạng Đồng Chí hội".
Năm
1929, tại Bangkok, Nguyễn Ái Quốc mắc bệnh lao, ông phải ở lại đây để trị.
Đầu
năm 1930, về lại Quảng Châu với tên Tống Văn Sơ, ngày
3 tháng 2 năm 1930, triệu tập đại hội thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam.
Năm
1931, làm đại biểu Quốc Tế Cộng Sản tại Hương Cảng. Chính quyền Anh hợp tác với
Pháp, Nguyễn Ái Quốc bị bắt ngày 6 tháng 6 năm 1931
tại Hương Cảng. Được luật sư Loseby cứu, Nguyễn Ái Quốc được đưa đi
Singapore nhưng nơi đây không nhận.
Năm
1932, Nguyễn Ái Quốc bị dẫn độ trở lại Hương Cảng. Luật sư Loseby đưa vụ kiện
này về Luân Đôn. Tòa án ở Luân Đôn ra phán quyết phóng thích và trục xuất
Nguyễn Ái Quốc ra khỏi Hương Cảng. Luật sư Loseby nhờ Paul Draken đưa Nguyễn Ái
Quốc bay đến sông Hoàng Phố, sau đó đồng chí đưa ông về Thượng Hải.
Gần
cuối năm 1932, Nguyễn Ái Quốc lên đường sang Mạc Tư Khoa, bệnh lao phổi tái phát và ông đã chết trên
đường đi.
Nguyễn
Ái Quốc đã được nhóm học sinh Việt Nam tại Đại Học Phương Đông ở Mạc Tư Khoa
làm lễ truy điệu, có phái viên Quốc tế Cộng Sản đến chia buồn.
Sáu
năm sau, năm 1938, Nguyễn Ái Quốc sẽ được thay thế bằng một nhân vật
khác?
2- Hồ
Tập Chương là ai?
Theo
như tác giả Hồ Tuấn Hùng thì Hồ Tập Chương là người chú của ông, người Đài
Loan, sinh ngày 11 tháng mười năm 1901 tại thôn Đồng La, huyện Miêu Lật, Đài
Loan, thời Nhật đang chiếm đóng.
Cha
là Hồ Dần Lượng, mẹ họ Lý, là người con thứ bảy trong 10 người con, học cả
tiếng Hán lẫn tiếng Nhật. Đậu tốt nghiệp ưu hạng Đại học Công nghiệp Đài Bắc
năm 20 tuổi. Từ năm 1922 đến 1928 về lại Miêu Lật làm nghề nấu rượu, bán thuốc
đông y và sản xuất xì dầu.
Năm
1926, kết hôn với Lâm Quế, sinh con gái đầu là Hồ Tố Mai năm 1928 và năm 1930
sinh người con trai không biết mặt cha là Hồ Thự
Quang.
Năm
1929 Hồ Tập Chương đi Thượng Hải tham gia đảng Cộng Sản Trung Hoa và sau đó trở
thành Phái Viên Quốc Tế Cộng Sản.
Cuối
năm 1931, Hồ Tập Chương bị Quốc Dân Đảng bắt ở Quảng Châu, sau đó được
thả.
Năm 1933, Hồ Tập Chương (với bí danh P.C. Lin) bị gọi về Mạc Tư
Khoa vì bị nghi ngờ là theo Lý Lập Tam (12),
P.C. Lin "chịu sự điều tra của tổ 3 người gồm Dmitry Manuilsky, Vera
Vasilieva và trùm đặc vụ Trung Quốc Khang Sinh" (13) và bị Khang Sinh đề nghị tử hình. Tuy nhiên P. C. Lin đã được
Vera Vasilieva bảo trợ, vì thấy Hồ Tập Chương (P.C. Lin) có diện mạo khá giống
Nguyễn Ái Quốc, cũng như có quá khứ tương tự , lại đã từng hoạt động chung nên
đề nghị muốn "biến" ông này thành Nguyễn Ái Quốc, người đã bị chết vì
bệnh lao năm 1932. Quốc Tế Cộng Sản đảng đồng ý, Hồ Tập Chương sau 5 năm huấn
luyện đã biến thành Nguyễn Ái Quốc với bí danh Hồ Quang (14) và là
Hồ Chí Minh sau này.
3- Hồ
Chí Minh là Hồ Tập Chương, không phải là Nguyễn Ái Quốc?
Tác
giả sách "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" đã nêu ra những sự kiện
để chứng minh về những nhận định này như sau:
a- Nguyễn Ái Quốc và
Hồ Tập Chương bị bắt là hai việc khác nhau?
Theo
những dẫn chứng của ông Hồ Tuấn Hùng, việc Nguyễn Ái Quốc bị bắt ngày 6 tháng 6
năm 1931 tại Hương Cảng và việc Hồ Tập Chương bị bắt mùa hè năm 1931 tại Quảng
Châu là hai việc hoàn toàn khác nhau. Từ hai
sự việc khác nhau này, chứng tỏ hai người là hai
nhân vật khác nhau. Việc Nguyễn Ái Quốc bị chính phủ Anh bắt ở Hương
Cảng, tin này đã được loan truyền rộng rãi qua báo chí. Việc xét xử qua chín
phiên toà có tính cách công cộng, với phán quyết là việc trục xuất Nguyễn Ái
Quốc.
Tuy
nhiên việc Hồ Tập Chương bị bắt ở Quảng Châu lại có tính cách bí mật: "Vì
có liên quan đến vụ Noulens nên các thành viên của tổ chức "Công hội Thái
Bình Dương" trực thuộc Quốc tế Cộng Sản, đều bị truy bắt, phải bỏ Thượng
Hải chạy về Quảng Châu, cuối cùng Hồ Tập Chương bị
đặc vụ Quốc dân đảng bắt được vào mùa hè năm 1931" (HTH). Vì thời điểm
nên hai sự kiện này bị gom lại thành một, với sự che đậy của Trung Cộng người
ngoài chỉ biết đến việc Nguyễn Ái Quốc bị bắt.
Về
việc Hồ Tập Chương bị bắt , ông Hồ Tuấn Hùng dẫn chứng bằng sự đối chiếu giữa
ba nguồn khác nhau:
-
Truyện "Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan" của
Lương Ích Tân.
-
Truyện "Hồ Chí Minh" của Ngô Trọc Lưu. Trong truyện này ông Hồ
Tuấn Hùng viết:
"Ngô
Trọc Lưu miêu tả Hồ Chí Minh bị bắt giữ chính là Hồ Tập Chương. Biết tin này,
người em ruột của ông là Hồ Tập Dưỡng đã thông báo cho gia tộc biết, đó chính
là người đến từ Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan, từng được truyền khẩu trong ký ức
của gia đình chúng tôi" (HTH).
-
"Đài Loan nhật nhật tân báo": "Từ tháng mười một đến tháng
mười hai năm 1938, Hồ Chí Minh đột nhiên mất tích nửa tháng, trong nửa tháng
này, thật kỳ diệu, tôi tìm được trong "Đài Loan nhật nhật tân báo".
Liên kết "Đài Loan Nhật nhật tân báo" với ngày tháng Hồ Chí Minh mất
tích, tôi đã tìm được câu trả lời rõ ràng.
"Đài Loan Nhật nhật tân báo" số ra ngày 12 tháng 11 năm 1938 có bài
viết: "Thông dịch viên quân đội Nhật là Hồ Tập Chương, người gốc Đài Loan,
đã trốn khỏi nhà ngục Nam Thạch Đầu, Hà Nam (Quảng Châu). Sau khi tạm trú tại
bản doanh quân đội Nhật Ōta, ông được tuyển vào làm thông dịch cho quan chỉ huy
Nhật Bản Quân khu Quảng Đông Tiểu Lạp Nguyên Thái Úy" (HTH).
Từ
những tham khảo trên, tác giả Hồ Tuấn Hùng đã đi đến kết luận Hồ Chí Minh chính
là Hồ Tập Chương.
b - Chuyện hôn nhân
và tình ái của hai nhân vật Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh
Để
chứng minh Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương, tác
giả Hồ Tuần Hùng đã nêu lên những chi tiết về chuyện hôn nhân và tình ái của Hồ
Chí Minh như sau:
- Nguyễn Ái Quốc và
Tăng Tuyết Minh
Tác
giả Hồ Tuấn Hùng lúc này đã coi như Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người
khác nhau và Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương, nên ông phân định khá rõ ràng
về chuyện hôn nhân tình ái của hai nhân vật này: "Trước
hết, cần phân biệt chuyện hôn nhân tình ái của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết
Minh, Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Thị Minh Khai khác với hôn nhân tình ái giữa Hồ
Chí Minh với Đỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh với Nông Thị Xuân, Hồ Chí Minh và Lâm Y
Lan" (HTH).
Về
Nguyễn Ái Quốc, tác giả đã tham khảo qua một số tài liệu và được tóm lược như
sau:
Năm
1923, theo như William J. Duiker Nguyễn Ái Quốc đã từng quen biết với một cô
gái người Pháp là Bourdon Breiere và theo giáo sư Nguyễn Thế Anh cô này là
Bourdon và tác giả đi đến kết luận đây chỉ là một người: Bourdon Breiere.
Năm
1924, Nguyễn Ái Quốc với tên là Lý Thụy đã kết hôn với Tăng Tuyết Minh (Zeng
Xueming曾雪明) do vợ của Chu Ân
Lai là Đặng Dĩnh Siêu giới thiệu. Năm 1926 Tăng Tuyết Minh mang thai, nhưng đã
bị hủy vì "mẹ Tăng Tuyết Minh là Lương Thị, sau khi biết việc này, sợ
con gái sinh cháu bé sẽ theo chồng đi mất nên đã tìm mọi cách ép nàng phá
thai" (HTH). Tác giả cho biết thêm là vợ ông là cháu và gọi bà Tăng
Tuyết Minh là "cô Mười", bà là người theo Công Giáo. "Vợ tôi,
đối với Tăng Tuyết Minh thuộc hàng cháu, thường gọi bằng “cô Mười”. Từ khi sinh
ra đến lúc qua đời bà đều sống ở Quảng Châu, là tín đồ trung thành của đạo Cơ
Đốc, ngày đêm cầu khấn cho Lý Thụy bằng an. Năm 1988, khi tôi cùng vợ về Quảng
Châu viếng thăm bà cô Mười, trong ký ức bà vẫn nhớ đến Hồ Chí Minh lúc chia tay
từ mấy chục năm trước. Bà kể tường tận cho chúng tôi nghe về thời kỳ quen biết
Hồ Chí Minh, nảy sinh tình cảm nam nữ rồi quá trình tổ chức hôn lễ rất xúc động.
Tôi gửi lại bà tấm ảnh quý và bức thư ngày trước viết cho Hồ Chí Minh mà bà gửi
tôi giữ hộ. Lúc ấy trong tay vợ tôi còn có chiếc nhẫn hồng ngọc mà Lý Thụy đã
tặng bà cô Mười lúc đính hôn cùng với tấm rèm cửa cố vấn M. Borodin chúc mừng
hôn lễ. Những vật kỷ niệm này được gia đình tôi coi như bảo vật truyền gia của
người bà để lại" (HTH).
Tác
giả cho biết thêm: "Người chủ trì hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng
Dĩnh Siêu biết rõ Hồ Chí Minh năm 1950 không phải
là Nguyễn Ái Quốc (Lý Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rõ
Tăng Tuyết Minh đau khổ mà không làm gì được" (HTH). Sau đó, năm 1927,
Nguyễn Ái Quốc phải chạy trốn khỏi Quảng Châu rồi đi Mạc Tư Khoa và từ đó không
bao giờ ông gặp lại Tăng Tuyết Minh, bà không lấy chồng khác và chết năm 1991
lúc 86 tuổi.
Năm
1930, Nguyễn Ái Quốc về Hương Cảng với tên là P.C. Lin, gặp Nguyễn Thị (Minh)
Khai (NTMK) và sống với người này như vợ chồng. Năm 1935, Lê Hồng Phong và NTMK
tham dự hội nghị Quốc Tế Cộng Sản 7, bà NTMK khai có chồng là P.C. Lin, tuy nhiên
P. C. Lin, người đã giúp hai người này "sửa chữa, biên tập văn bản tham
luận Hội nghị (bằng tiếng Nga), góp phần làm cho Đoàn đại biểu Đảng Cộng Sản
Đông Dương hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc khiến Lê Hồng Phong và Nguyễn
Thị Minh Khai thật sự cảm động" (HTH). Tác
giả nêu ra P. C. Lin ở đây không phải là Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương
người đang tập đóng vai Nguyễn Ái Quốc.
- Hồ Chí Minh và Lâm
Y Lan
Năm
1930, Hồ Chí Minh đang ở Quảng Châu lúc này đang bị Quốc Dân Đảng truy lùng. "Bí
thư Tỉnh ủy Quảng Đông Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng
giả làm vợ Hồ Chí Minh để bảo vệ an toàn cho ông ta...” Hồ Chí Minh bị bắt
nhưng ba ngày sau lại được cứu thoát”. Theo như ông Hồ Tuấn Hùng thì Hồ Chí
Minh lúc này là Hồ Tập Chương. Tuy nhiên những gì tác giả nêu ra không phải là
từ những tài liệu mà là từ truyện "Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh
và Lâm Y Lan" của Lương Ích Tân mà chính ông cũng biết: "Đây
là tác phẩm thuộc thể tài tiểu thuyết, từng đoạn, từng đoạn kể về cuộc tình của
Hồ Chí Minh với Lâm Y Lan. Nội dung tác phẩm được thể hiện qua nhiều chi tiết
khá lý thú, làm xúc động lòng người. Chỉ tiếc, các
sử liệu được vận dụng, chỗ thì lắp ghép một cách khiên cưỡng, chỗ lại tập hợp
trình bày nhảy cóc, nhất là đoạn nói về mối tình với Nguyễn Thanh Linh
trong những năm 1930. Việc làm này dường như tác
giả có ý đồ tạo ra sự lẫn lộn Hồ Chí Minh với Nguyễn Ái Quốc, đồng nhất hai
người làm một, tô vẽ ông thành một nhân vật phi thường, mặc dù, trên
thực tế, Nguyễn Thanh Linh chỉ là nhân vật hư
cấu".
Có
một bài viết đăng trong Dương Thành vãn báo (羊城晚報, Báo Dương Thành buổi chiều) ngày
11-12-2011 cũng như trong báo "Nhân Dân" của Trung Quốc (15) (www.people.com.cn) với đề
tài "Một người vợ Trung Quốc khác của Hồ Chí Minh" (16) của tác giả Đinh Đông Văn và Việt
Báo có đăng lại ngày 1 tháng 2 năm 2012 (17). Tuy nhiên nội dung cũng tương tự như truyện của Lương Ích Tân
mà ông Hồ Tuấn Hùng đã nêu ra nguyên bản ở trong sách.
Tác
giả truy tầm thêm tài liệu như “Truyện Hồ Chí Minh” của William J.
Duiker về việc ông Duiker đã tham khảo từ , "các bài viết “Nhờ Đào Chú
làm mối” và “Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh không nhỏ” của tác giả Lương Văn là
xác thực" (HTH). Tuy nhiên ông Duiker với ghi chú số 54 trong chương
"All for the front lines" (trang 668) đã nêu ra: "Có thể ông
Hồ muốn có một bạn đồng hành với mình là người Quảng Đông vì ông vẫn ấp ủ sự
nhớ nhung người vợ đầu tiên là Tăng Tuyết Minh.
Các nguồn khác không giải thích tại sao vai trò này không thể làm bởi một người
Việt Nam. Chính phủ Trung Quốc đã gặp rắc rối vì có
tới ba ứng viên trước khi bỏ ý định này. Khi nghe về dự án (tìm người)
này, Chu Ân Lai đã bày tỏ sự lo ngại là việc
này có thể khơi cảm giác chống Trung Quốc trong giới lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
tại Hà Nội" (18).
Trong
ghi chú này, tại sao lại có tới ba ứng viên (three
candidates) để làm người bạn đồng hành với ông Hồ. Chu Ân Lai và vợ là Đặng
Dĩnh Siêu biết rõ Nguyễn Ái Quốc là ai, vì chính bà Đặng Dĩnh Siêu giới thiệu
Tăng Tuyết Minh cho Nguyễn Ái Quốc và tham dự đám cưới. Đào Chú, lúc này (1966)
đang là người thứ tư trong đảng Cộng Sảng Trung Hoa, ông là người cử Lâm Y Lan
làm vợ Hồ Chí Minh và cũng biết rõ ông này là ai. Chính phủ Trung Quốc không
thể đưa Lâm Y Lan gặp ông Hồ, cũng như không thể đưa Tăng Tuyết Minh đến gặp
ông, nếu họ đã biết rõ ông Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc. Đây là việc
mà đảng Cộng Sản muốn che giấu nếu Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương theo như ông Hồ
Tuấn Hùng.
Hồ Chí Minh và Đỗ
Thị Lạc
Tác
giả Hồ Tuấn Hùng đã nêu tên một người khác có liên quan tình ái với Hồ Chí Minh
là bà Đỗ Thị Lạc. "Ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh được phóng
thích tại Liễu Châu, rất được Tư lệnh Đệ tứ chiến khu Trương Phát Khuê tín
nhiệm, giao nhiệm vụ cải tổ Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội... Hồ Chí Minh tự
tuyển chọn mười tám thanh niên cốt cán trở về Việt Nam làm công việc huấn luyện
nhiệm vụ cách mạng" (HTH). Một trong mười tám người này là Đỗ Thị Lạc.
Tác giả trích dẫn một câu viết của "sử gia Trần Trọng Kim trong hồi ký
"Một cơn gió bụi": “Đỗ Thị Lạc có với Hồ Chí Minh một người con
gái". Tuy nhiên, sau một thời gian sống chung với nhau ở Khuê Nam, Hồ Chí
Minh dấn thân vào cao trào cách mạng, không bao giờ còn trở lại với Đỗ Thị Lạc
nữa" (HTH).
Hồ Chí Minh và Nông
Thị Trưng
Một
người con gái khác có tên là Nông Thị Ngát (tên thật là Nông Thị Bảy) không
thấy ông Hồ Tuấn Hùng nêu ra, cô này được Hồ Chí Minh với bí danh là "Già
Thu" đổi tên là Trưng, ông Hồ trực tiếp dạy cô này 8 tháng ở Pắc Bó, Cao
Bằng. "Theo tạp chí Asia Times, Nông Thị Trưng là mẹ đẻ của Nông Đức
Mạnh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2001" với ghi chú số 6:
"Trong tạp chí Asia Times, cơ quan của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, số
434 ra ngày 30 tháng 4 năm 2001 có đăng bài Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong ký
ức của một người thầy nhân dịp Nông Đức Mạnh lần đầu được bầu làm Tổng bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam, nói về cảm tưởng của thầy giáo cũ La Văn Ngâm dạy cấp 2
về học trò cũ Nông Đức Mạnh. Bài có đoạn tả thầy giáo này tìm đến nhà bà Trưng,
thân mẫu Nông Đức Mạnh, trong đó có ghi rõ chú thích của tạp chí: "bà Nông
Thị Trưng là thân mẫu đồng chí Nông Đức Mạnh" (Wikipedia).
Hồ Chí Minh và Nông
Thị Xuân
"Năm
1955, một thiếu nữ là Nông Thị Xuân từ vùng biên giới tỉnh Cao Bằng được đưa về
Hà Nội. Cô này khá xinh đẹp được chủ tịch Hồ Chí Minh để ý nên Ban Bảo vệ sức
khỏe Trung ương đã bố trí làm y tá bên cạnh ông Hồ. Một năm sau, Nông Thị Xuân
sinh với Hồ Chí Minh một bé trai. Đứa bé được bí mật gửi nuôi vài nơi, nhưng
cuối cùng, thư ký riêng của Hồ Chí Minh là Vũ Kỳ đưa về nhà nhận làm con. Vào
một ngày năm 1957, người ta phát hiện Nông Thị Xuân bị tai nạn ô tô chết bên
đường chân Dốc Chèm..."
Để
tổng kết về huyện hôn nhân tình ái của Hồ Chí Minh, tác giả viết: "Cũng
năm 1958, Hồ Chí Minh vì muốn hoàn thành tâm nguyện kết hôn cùng Lâm Y Lan nên
đã nhờ Đào Chú, Chu Ân Lai giúp đỡ. Theo những bằng chứng đáng tin cậy, có thể
thấy, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng biết rất rõ Nguyễn
Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một người, biết rõ Nguyễn Ái Quốc
đã bị bệnh chết, càng rõ hơn, Hồ Chí Minh là kẻ bội bạc hôn nhân. Tuy nhiên,
với Lâm Y Lan, Hồ Chí Minh lại đặc biệt dành tình cảm cho bà, khiến tôi vô cùng
kính trọng và biểu đồng tình".
C- "Nhật ký
trong tù"
Một
vấn đề khác mà tác giả Hồ Tuấn Hùng dùng để cố chứng minh Hồ Chí Minh không
phải là Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương, người gốc Đài Loan là khả năng ngôn
ngữ, văn chương bằng tiếng Trung Hoa của hai nhân vật Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí
Minh. Đặc biệt ông phân tích "Nhật ký trong tù" với những chữ hay
tiếng đặc biệt của người Khách Gia (người Hẹ) để dẫn chứng Hồ Chí Minh là người
đến từ Miêu Lật, Đài Loan, cũng là quê quán của tác giả.
1- Khả năng về Hán
văn của Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc
Tác
giả HTH dẫn chứng "Hồ sơ Lư Sơn" viết là năm 1959, Hồ Chí Minh
đến Lư Sơn (19), ông dùng ngón tay
để viết thư pháp ba chữ “Lư Sơn hảo” (庐山好 ) "...Hồ Chí Minh thong thả nhúng
ngón tay vào nghiên mực, viết ba chữ lớn: “Lư Sơn hảo” (庐山好 ) rồi lùi về phía
sau hai bước ngắm nghía. Lâu Thiệu Minh liếc qua, rất khâm phục:
-
Thưa Hồ Chủ tịch! Người viết chữ Hán thật tuyệt.
Sau
khi viết “Lư Sơn hảo” bằng ngón tay, Hồ Chí Minh lại dùng bút tiểu khải viết 10
chữ nhỏ: “Hồ Chí Minh, tháng tám năm 1959” vào dòng lạc khoản để kỷ niệm chuyến
thăm Lư Sơn"."
Tên
một khách sạn sao lại theo cách viết bằng ngón tay của Hồ Chí Minh tại Lư
Sơn, Quảng Tây
Tác
giả cho là trình độ thư pháp của Hồ Chí Minh thuộc loại khá.
Còn
Nguyễn Ái Quốc thì "cho đến năm 1932, hầu như không thấy ông sử dụng
Hán văn trong các bài viết, chưa nói đến trình độ viết thư pháp chữ Hán. Vì sao
đến năm 1938, sau khi rời Mạc Tư Khoa về vùng biên giới Việt Trung hoạt động,
Hồ Chí Minh lại đột nhiên sử dụng Hán văn, viết báo, làm thơ và viết thư pháp
một cách thành thạo? Chúng tôi vô cùng nghi ngờ. Có thật Nguyễn Ái Quốc dùng
ngón tay viết thư pháp? Có thật ông dùng Hán văn viết “Nhật ký trong tù”?
(HTH)
Để
nói về trình độ tiếng Trung Hoa của Nguyễn Ái Quốc, ông HTH dẫn chứng: "Theo
Đặng Dĩnh Siêu , vào thời điểm năm 1925, bà có dạy Nguyễn Ái Quốc học tiếng
Trung, đến năm 1926 thì ông ta kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Sự việc này đúng là
có thực. Nói cách khác, đến năm 1927, trình độ nghe, nói, đọc và viết chữ Hán
của Nguyễn Ái Quốc rất hạn chế". Ông kết luận khả năng Hán văn của
Nguyễn Ái Quốc: "Dừng lại ở mức độ 3 đến 4 năm cấp tiểu học, tuyệt đối
không có khả năng viết báo, tạp chí và những bài nghị luận trường thiên lời văn
khúc chiết, đanh thép, không thể là tác giả của
“Nhật ký trong tù”, càng không có khả năng viết thư pháp bút lông hoặc
“thư pháp ngón tay” chữ Hán".
Hồ
Tập Chương thì khác hẳn "Lớn lên ở Đài Loan, từ nhỏ đã được giáo dục
nền văn hóa Hán...Năm 1929, lúc ấy Hồ Tập Chương 29 tuổi, rời Đài Loan đến
Thượng Hải, trình độ đọc và viết chữ Hán không thể sai sót, có khả năng viết
thư pháp, nói tiếng Khách Gia Quảng Đông và tiếng Mân Nam Phúc Kiến lưu
loát".
Ông
HTH nhận xét là dùng khả năng Hán văn của Nguyễn Ái Quốc để liên kết với khả
năng Hán văn của Hồ Chí Minh chỉ là một trò đùa
dai.
Ông
Bùi Tín trong bài "Vài chuyện đã rõ về ông Hồ" (20) cũng đã viết "Tôi hoàn toàn tán đồng ý kiến của anh
Phương Nam băn khoăn hoài nghi về tập thơ Ngục
trung nhật ký, cứ như của người Tàu, phong cảnh Tàu, cảm khái Tàu, lịch sử Tàu,
hồi tưởng Tàu, hình ảnh Tàu. Không một tên làng, tên huyện, tên tỉnh VN,
không tên tuổi một anh hùng, di tích lịch sử VN, không một con sông ngọn núi
VN. Chưa có nhà phê bình văn học thơ ca nào nghiên cứu kỹ về điểm này".
2- Những chữ của
người Khách Gia hay dùng có trong tập thơ "Nhật ký trong tù"
Hồ
Chí Minh bị bắt tại Quảng Tây ngày 27 tháng 8 năm 1942, 14 tháng bị giam qua 18
nhà tù. Trong thời gian bị tù ông đã dùng Hán văn để làm 134 bài thơ tên là
"Ngục trung nhật ký" ( 獄中日記: Nhật ký trong tù). Theo như tác giả
HTH thì ngoài khả năng Hán văn, người viết tập thơ này phải là người Khách Gia
mới dùng những tiếng đặc biệt này, hơn nữa "vào thời kỳ Nhật Bản chiếm
đóng Đài Loan, phải là người từng cư trú tại địa bàn Khách Gia, thấm nhuần tư
tưởng, tình cảm cộng đồng dân tộc, mới viết được những câu thơ hàm súc mang đặc
trưng văn hóa Khách Gia như vậy" (HTH).
Lấy
vài thí dụ vài bài về ngôn ngữ Khách Gia trong "Ngục trung nhật ký":
-
Bài thơ với đề tài "Tảo" (早Buổi sớm) dùng chữ
"lung" là nhà giam hai lần. Tác giả HTH giải thích: "“Lung”(籠), tiếng Khách chỉ
nhà giam, phòng giam. Người Khách Gia ở Miêu Lật bị vào nhà giam gọi là “nhập
lung”(入籠),
ra khỏi nhà lao gọi là “xuất lung”(出籠), giam trong nhà
lao gọi là “quan lung”(關籠). Trong khi ấy, những từ với ý nghĩa trên
ở Trung văn lại được gọi là “nhập ngục”(入獄), “xuất ngục”(出獄), “phục ngục”(服獄), hầu như không ai
dùng chữ “lung”. Trong “Nhật ký trong tù”, từ “lung” được hiểu là “nhà giam”,
“nhà ngục” hoặc “nhà tù” được sử dụng ở hơn 10 bài thơ".
-
Bài thơ với đề tài "Học dịch kỳ" (
學奕棋Học đánh cờ) có câu "Công
thủ vận trù vô lậu toán" ( 攻守運籌無漏著算) có nghĩa là "Tấn
công phòng thủ không sơ hở". "Lậu toán”(著算): trong từ vựng Trung văn không có từ “lậu toán”... “Lậu
toán” là loại ngữ từ tiêu chuẩn của người Khách Gia, chỉ sự tính toán sai lầm
khi đánh cờ tướng" (HTH).
-
Bài thơ với đề tài "Lạc liễu nhất chích
nha" (落了一隻牙 Rụng mất một chiếc
răng),
ông HTH giải thích “Lạc liễu nhất chích nha”, thực chất là một câu văn bất thông
trong cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa Trung văn, nhưng lại là một phương ngôn
rất thông dụng nếu phát âm theo cách của người Khách Gia, Miêu Lật,..."
-
Bài thơ với đề tài "Nhất cá đổ phạm ngạnh
liễu" (一个賭犯硬了
Một người tù cờ bạc chết cứng). "“Ngạnh liễu”(硬了) hàm ý chỉ sự chết,
là một từ rất thông dụng trong ngôn ngữ Khách Gia Miêu Lật. Người Khách Gia
thường nói “ngạnh liễu” thay cho “nhân tử liễu”(người chết) của Trung văn"
(HTH).
3- Những chữ của
người Khách Gia ở thời Nhật chiếm đóng (1895–1945) trong tập thơ
"Nhật ký trong tù"
-
Bài thơ với đề tài "Đổ" ( Đánh bạc 賭) có câu "Dân
gian đổ bác bị quan lạp" (民間賭博被官拉). “Quan lạp”(官拉) là từ ngữ rất
thông dụng của người Khách Gia, Miêu Lật. Thời Nhật chiếm đóng Đài Loan, nhân
dân bị cảnh sát rượt đuổi gọi là “quan lạp” (HTH).
-
Bài thơ với đề tài "Hạn chế" (限制) có câu "Xuất cung dã bị nhân chế
tài" (出恭也被人制裁). "“Xuất cung”(出恭): Từ thời Nhật Bản
chiếm đóng, người dân ở Miêu Lật, Đồng La gọi việc đến nhà xí đại tiện là “xuất
cung”... Nhiều năm trước đó, học trò Miêu Lật, Đồng La thường xuyên vào Đại lục
tham dự các kỳ thi của triều đình, nên khi về quê đã dùng từ “xuất cung” thay
cho “đại tiện”, nghe có vẻ trang nhã hơn. Từ “xuất cung” được lưu truyền cho
đến ngày nay trở thành một thứ phương ngôn đặc thù của người Đồng La." (HTH).
-
Bài thơ với đề tài "Nam Ninh ngục" (南寧獄) có câu (監房建築頂摩登 Giam phòng kiến trúc đính “ma-đăng”)
có nghĩa là nhà lao xây theo kiểu tân thời. "“Ma đăng”(摩登): Thời kỳ Nhật Bản
chiếm đóng Đài Loan, có một số từ nước ngoài du nhập vào Đồng La mà từ “ma
đăng” vốn có nguồn gốc Anh ngữ (modern), nghĩa là “hiện đại” là một ví dụ"
(HTH).
-
Bài thơ với đề tài "Công kim"
(工金 Tiền công). "“Công
kim”(工金):
Thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan có một số từ nước ngoài được du nhập vào
hệ thống từ vựng Hán ngữ. “Công kim” chỉ tài sản công, tiền công" (HTH).
Đây
chỉ là một vài thí dụ tiêu biểu được trích trong bản dịch của dịch giả Thái
Văn. Tác giả Hồ Tuấn Hùng sau khi phân tích tập thơ "Ngục trung nhật
ký", ông đã đi đến kết luận là càng chứng tỏ mình văn tài thơ phú hay, ông
Hồ càng lộ rõ ra ông không phải là Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương, chú của
tác giả, một người Đài Loan:
"Tổng
hợp những phần đã phân tích ở trên, chúng tôi đi đến kết luận, tác giả “Nhật ký
trong tù” nhất định phải là người có đủ ba điều kiện sau đây:
1-
Đối với ngữ văn Trung Quốc phải có trình độ cao, mà đối với nền Quốc học thường
thức cũng phải đạt trình độ tương đối khá. Sáng tác được thơ trong “Nhật ký
trong tù” tuyệt đối không phải là người chỉ có trình độ chữ Hán ba, bốn năm
tiểu học.
2-
Tác giả “Nhật ký trong tù” nhất định phải là người sắc tộc Khách Gia thuộc cộng
đồng cư dân Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan.
3-
Tác giả “Nhật ký trong tù” phải là người Khách Gia thông thạo Nhật
ngữ".
D- Đảng CS cố chứng
minh ông Hồ là Nguyễn Ái Quốc
Theo
như ông Hoàng Văn Chí viết trong sách "Từ thực dân đến Cộng Sản",
thì đến năm 1958 ông Hồ mới nhận mình là Nguyễn Ái Quốc "Việc này được
phơi bày công khai năm 1958 khi một phái đoàn nhân viên sứ quán các nước xã hội
chủ nghĩa viếng thăm quê hương ông Hồ. Sau cuộc viếng thăm, báo chí Hà Nội đã
thú nhận ông Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc". Theo như tác giả
HTH, sách "Vừa đi đường vừa kể chuyện"
(VĐĐVKC) của tác giả Trần Đạt Nhân (T. Lan), cũng là ông Hồ, xuất
bản lần đầu năm 1961 và sách "Tôi đã mấy lần được gặp Bác Hồ"
của Nguyễn Lương Bằng năm 1965: "Trần Đạt Nhân là bút danh của Hồ Chí
Minh, Nguyễn Lương Bằng là Phó chủ tịch nước Việt Nam, hai người đều đồng lòng,
nhất trí chế tạo Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc mà không bị lật tẩy bởi nhân
chứng đã chết, Hồ Chí Minh vẫn đường đường chính chính tiếp tục sắm vai Nguyễn
Ái Quốc". Về việc Hồ Chí Minh gặp Paul Vaillant Couturier ở Thượng
Hải, ông này từng là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng Sản Pháp: "Chiều tối
hôm sau, Bác gặp đồng chí Vayăng Cutuyriê ở một địa điểm kín đáo. “Muôn dặm quê
người gặp bạn thân!”. Cả hai người vô cùng mừng rỡ, vừa cảm động nghẹn ngào...
Hai anh em siết chặt tay nhau mà nói chuyện. Bác nói cho đồng chí Vayăng
Cutuyriê biết hoàn cảnh khó khăn của mình" (VĐĐVKC). Ông HTH cho đây
là một sự ngụy tạo để gom Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh làm một vì ông
Couturier đã mất từ 26 năm về trước, chả còn sống để làm chứng. Đến việc gặp gỡ
luật sư Frank Loseby năm 1960, người đã biện hộ cho Nguyễn Ái Quốc năm 1931 ở
Hương Cảng, tác giả HTH cho là "căn cứ vào những động tác liên hoàn từ
năm 1956, có thể phỏng đoán, Hồ Chí Minh có ý ngầm thông báo cho vợ chồng luật
sư Loseby biết là, Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, tin tức đăng trên các
báo về sự kiện Nguyễn Ái Quốc chết bởi bệnh lao phổi chỉ là tin tức giả... nếu
như Nguyễn Ái Quốc không chết, chân thành báo đáp ơn cứu mạng, vì sao đến mãi
năm 1956 mới ba lần liên lạc với vợ chồng luật sư Frank Loseby, năm 1960 mới
chính thức mời thăm? ... Thử nghĩ, một ông già đã xấp xỉ 80 tuổi, sau 28 năm
bặt vô âm tín, đặc biệt là người Âu Mỹ nhìn người phương Đông, liệu có khả năng
phân biệt được thật giả? Hồ Chí Minh chơi trò bịp bợm chẳng qua là để vợ chồng Losely ghi nhớ "Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái
Quốc" mà thôi".
Tuy
nhiên trước khi Hồ Chí Minh công khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc năm 1958 thì
trước đó một năm, 1957 ông Hồ về thăm quê của Nguyễn Ái Quốc ở Nghệ An. "Thời
gian này, song thân Nguyễn Ái Quốc đã qua đời từ lâu, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm mất vào năm 1950 và người chị là Nguyễn
Thị Thanh cũng mất vào năm 1954. Ông Khiêm và bà Thanh, năm 1945 cũng đã
ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh, vội vàng nói chuyện về thời thơ ấu rồi lại trở về
quê. Vậy tình hình lúc gặp mặt ra sao, nói những chuyện gì, trước sau vẫn còn
là một bí mật. Vì thế, vào năm 1957, khi Hồ Chí
Minh về thăm quê hương Nguyễn Ái Quốc, những người trong làng, có thể nói,
không một ai phát hiện ra vị Chủ tịch nước Việt Nam không phải là Nguyễn Ái
Quốc. Huống hồ, các phe cánh đối lập như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh
cũng lưu lạc ở Trung Quốc Đại lục, chết vì bệnh tật chốn tha hương. Hồ Chí Minh
đến lúc này mới vượt qua các trở ngại, hoàn thành kế hoạch "dời hoa tiếp
cây", thay thế vai trò Nguyễn Ái Quốc do Quốc tế Cộng Sản sắp đặt" (HTH).
E- Kết luận
Trong
sách "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" tác giả Hồ Tuấn Hùng đã đưa
ra khá nhiều bằng chứng và nhiều lúc đã xác định Hồ Chí Minh không phải là
Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương, người Đài Loan ở huyện Miêu Lật, thôn Đồng
La. Tuy nhiên đến phần cuối thì ông viết: "Ngày nay, khi luận về thân
thế Hồ Chí Minh và công lao của ông, chúng ta nên để cho lịch sử phán xét. Lấy
việc Hồ Chí Minh nhận lời phỏng vấn ký giả ngoại quốc làm cơ sở kiểm nghiệm, có
phải ông đã thành tâm thể hiện lòng trung thành với nhân dân Việt Nam qua những
lời hứa hẹn?". Người viết xin góp ý là phải đổi câu "công lao của ông" thành câu "tội lỗi của ông đối với dân tộc Việt Nam".
Theo
như hệ thống tư pháp ngày nay tại các nước dân chủ. Một phiên tòa (theo như sự
hiểu biết rất sơ sài của người viết) gồm có chánh án, bồi thẩm đoàn, công tố
viên, luật sư biện hộ, nhân chứng và nghi can. Nghi can là ông Hồ Chí Minh.
Công tố viên là những người kết tội ông. Nhân chứng là những nạn nhân dù trực
tiếp hay gián tiếp. Luật sư biện hộ là những người Cộng Sản bênh vực ông, những
tác giả đã phủ nhận việc ông là người Đài Loan. Bồi thẩm đoàn là các độc giả,
những người đọc, biết về sự kiện, biết các bằng chứng. Chánh án sẽ là người dân
Việt. Bản án sẽ là những trang sử được ghi lại về việc này. Người viết chỉ là
một trong những người đi tìm hiểu, để biết thêm về những bí ẩn trong lịch sử
cận đại, muốn nêu ra đây để chia sẻ với bạn đọc, với hy vọng chúng ta sẽ có một
bản án (verdict) sớm hơn để ghi lại trong trang sử Việt cho hậu thế.
10/2013
___________________________________
Tài liệu tham khảo:
1-
Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo-Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh, dịch giả Thái Văn.
2-
胡志明生平考 - Hồ Chí Minh sinh
bình khảo, tác giả Hồ Tuấn Hùng.
3-
Hồ Chí Minh Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge.
4-
Từ thực dân đến cộng sản, tác giả Hoàng Văn Chí.
5-
Ho Chi Minh, a life, tác giả William J. Duiker.
6-
Một nghi án lịch sử Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, tác giả Trần Bình Nam.
7-
Hồ Chí Minh - Người Việt hay Người Tàu, tác giả Phạm Đình Lân.
8-
Ý kiến nhà báo Bùi Tín về cuốn “Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo” của Hồ Tuấn Hùng.
9-
HCM - Nguyễn Ái Quốc- Nguyễn Sinh Cung, ba không thể là một, tác giả Nguyễn Gia
Định.
10-
Giọt Nước Trong Biển Cả, tác giả Hoàng Văn Hoan.
11-
Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài Loan, tác giả Phạm Quế Dương.
12-
Ông nội và người cha của Hồ Chí Minh, tác giả Tường Lam Hồ Sĩ Sênh.
13-
Có mấy Hồ ông? Tác giả Vũ Thế Phan.
14-
Ai là tác giả những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, tác giả Thụy Khuê.
15-
Đảng CSVN phiên bản của tình báo TQ, tác giả Huỳnh Tâm.
16-
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, đảng Cộng Sản Việt Nam.
17-
HỒ CHÍ MINH, tác giả Nguyễn Thiên Thụ.
18-
HỒ CHÍ MINH - Nhận Định Tổng Hợp, tác giả Minh Võ.
19-
Nhận xét về cuốn Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, tác giả Nguyễn Duy Chính.
20-
Nghi Án Thế Kỷ Về Hồ Chí Minh, tác giả Trần Gia Phụng.
21-
Nhận định về Hồ Tập Chương trong tác phẩm "Sinh bình Khảo", tác giả
Nhóm Hành Khất.
22-
Những phút cuối đời của Hồ ông: Ai bốc phét, ai nói láo? Tác giả Hàn Lệ Nhân.
23-
Niềm tin của tôi bị lung lay, tác giả Bà Đầm Xòe.
24-
Thêm những nghi vấn về Hồ Chí Minh, tác giả Xích Tử.
25-
Truyền thông và cuộc chiến giải trừ gian dối, tác giả Bảo Giang.
26-
Vừa đi đường vừa kể chuyện, tác giả T. Lan (Hồ Chí Minh).
Chú thích:
(2)
Nguyên văn: 胡集璋誕生於日據時代的台灣省苗栗郡銅鑼庄 (Hồ Tập Chương đản sinh ư Nhật cứ thời đại
đích Đài Loan tỉnh, Miêu Lật quận, Đồng La trang)
(3)
Nguyên văn trong "Hồ Chí Minh sinh bình khảo": 同登舞台一顯一隱 "Đồng đăng vũ
đài nhất hiển nhất ẩn"
(4)
Học giả Hoàng Văn Chí là người đã từng hợp tác với Việt Minh từ năm 1949 đến
1953, năm 1954 di cư vào Nam, năm 1960 qua sống tại Pháp. Năm 1965 sang định cư
tại Hoa Kỳ theo lời mời của bộ Ngoại Giao, mất tại Maryland 1988.
(5)
Nguyên bản: "From Colonialism to Communism" bằng tiếng Anh và tiếng
Pháp. Sách được dịch ra trên 15 ngôn ngữ. Đây là tài liệu đầu tiên do một người
Việt viết bằng ngoại ngữ để phê phán chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam. Sau này
ông dịch sách sang tiếng Việt, với tên "Từ Thực dân đến Cộng sản",
bút hiệu Mạc Định.
(6)
Nguyên văn: 在場的七位代表中,除了阮愛國同志和我
(7)
Theo http://vi.wikipedia.org/wiki - Đảng Cộng sản Việt Nam
(8)
Bản dịch của dịch giả Thái văn ghi là trang 449, có lẽ ghi lại nhưng bị lầm.
Bản tiếng Anh của Duiker là trang 499.
(9)
(10)
Người viết tóm tắt lại theo như tác giả sách "Hồ Chí Minh sinh bình
khảo".
(11)
Cũng gọi là Nguyễn Sinh Huy.
(12)
Lý Lập Tam (Li Lisan李立三1899-1967)
là một nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong giai đoạn đầu,
là người nắm thực quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời gian
1928-1930 (theo Wikipedia).
(13)
Khang Sinh (Kang Sheng康生1898
- 1975) đã là người đứng đầu cơ quan an ninh và gián điệp Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa và sau này đã bị truy tố cùng với Tứ nhân bang (theo Wikipedia).
(14)
HTH: "Mùa xuân năm 1930, con trai trưởng Hồ Thự Quang ra đời nhưng không
biết mặt cha. Tôi có hỏi về mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh với gia đình qua những
thông tin trên báo chí, Hồ Thự Quang vào năm 2005 đã 75 tuổi, bị trúng gió nhẹ,
cặp mắt hơi lệch, nói câu được câu mất: "Lúc còn nhỏ, bác Ba (Hồ Tập Phỉ)
từng nói với tôi: 'Cha cháu làm nghề buôn bán ở Thượng Hải'. Khi tôi mười lăm,
mười sáu, chú Út (Hồ Tập Dưỡng) lại bảo: 'Cha cháu có khả năng là Chủ tịch Hồ
Chí Minh ở Việt Nam". Chú Thự Quang thở dài nặng nhọc, nói đứt quãng:
"Mấy chục năm nay đã nghe nhiều tin đồn, chẳng biết có dụng ý gì. Chú muốn
hỏi thân mẫu nhưng bà đã qua đời. Từ lúc phụ tử phân ly, mỗi người một phương,
chưa từng gặp mặt, cũng chẳng để lại một dòng lưu bút nào. Được tôn xưng là
'Cha già Việt Nam', nhưng chú chắc rằng, trong lòng ông lúc nào cũng thương cảm
mà thôi". Nói rồi, ông đứng dậy, nghẹn ngào. Tôi vội vàng đỡ lấy, an ủi:
"Thời tao loạn, tạo hóa trêu ngươi. Từ lúc chính phủ Quốc dân đảng tiến
nhập Đài Loan, ông không thể về, chứ không phải không muốn về. Tiểu thúc công
chẳng đã từng nói, trên hành trình bôn ba, Người lấy tên Hồ Quang làm bí danh,
đó chẳng phải là tình cảm của Người với gia đình sao?"
(16)
"胡志明的另一个中国爱人" ( Hồ Chí Minh
đích lánh nhất cá Trung Quốc ái nhân)
(17)
Báo TQ Kể Mối Tình HCM Với Lâm Y Lan; Lê Duẫn Tố Ông Hồ Phản Bội Lời Hứa Không
Lấy Vợ, Làm Đảng CSVN Mất Hết Danh Tiếng
(http://vietbao.com/D_1-2_2-282_4-186721/)
(18)
W. J. Duiker, note 54. "... Ho probably wanted a companion from Guangdong
because he still cherished the memory of his first wife, Tang Tuyet Minh. Other
sources provide no explanation as to why the role could not have been played by
a Vietnamese. The Chinese government had gone to the trouble of locating three
candidates before dropping the idea. On hearing about the project, Zhou Enlai
had expressed the concern that it could arouse anti-Chinese feelings within the
Vietnamese Party leadership in Hanoi".
(19)
Lư Sơn ở trong tỉnh Quảng Tây, khoảng 15 Km phía đông bắc của tỉnh Quế
Lâm
(21)
Không biết tác giả Hồ Tuấn Hùng lấy cái tên Trần Đạt Nhân từ tài liệu nào, theo
như một số tài liệu thì tác giả sách "Vừa đi đường vừa kể chuyện" là
T. Lan, cũng là bút danh của ông Hồ Chí Minh.
No comments:
Post a Comment