Published
by Asia Sentinel.
“Tell the World”
(Defend the Defenders)
Posted
on October 11, 2013
by Defend the Defenders
Ngày
4/10/2013 – Giới quan chức đảng và nhà nước vẫn có thể tạm ung dung thêm một
thời gian nữa, bằng vào thực tồn gần như chưa hình thành một lực lượng đối lập
nào ở Việt Nam.
Ngược lại, giới hoạt động dân chủ trong nước và cả hải ngoại lại có vẻ đang bỏ lỡ một cơ hội chưa từng có để làm nên một cái gì đó có tính “đối trọng chính trị”, đặc biệt sau khi tín hiệu “xoay trục” sang phương Tây đã phát ra bởi chuyến đi Hoa Kỳ của người đứng đầu nhà nước là ông Trương Tấn Sang vào tháng 7/2013, sau đó là đợt công du Paris của người điều hành chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.
Ngược lại, giới hoạt động dân chủ trong nước và cả hải ngoại lại có vẻ đang bỏ lỡ một cơ hội chưa từng có để làm nên một cái gì đó có tính “đối trọng chính trị”, đặc biệt sau khi tín hiệu “xoay trục” sang phương Tây đã phát ra bởi chuyến đi Hoa Kỳ của người đứng đầu nhà nước là ông Trương Tấn Sang vào tháng 7/2013, sau đó là đợt công du Paris của người điều hành chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.
Cần
nhắc lại, văn bản có tên “Kiến nghị 72” của một nhóm nhân sĩ, trí thức bất đồng
tại Việt Nam vào đầu năm 2013 đã cùng lúc dẫn tới hai chủ đề nóng bỏng mà hệ
thống truyền thông của Đảng bắt buộc phải tương tác: có cần bỏ điều 4 hiến pháp
về độc đảng hay không; và liệu đã hình thành một lực lượng đối lập ở Việt Nam
hay chưa.
Một
số người hoạt động dân chủ nhiệt tình nhất đã cố chứng minh sự hiện diện một
thế lực đối lập với chính thể, thông qua 11 cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở
Hà Nội vào năm 2011 và hoạt động thông tin đa nguyên đa đảng của giới truyền
thông xã hội từ đó tới nay.
Nhưng
lại có một sự khác biệt rất cơ bản trong não trạng của giới trí thức được xem
là gần gũi với Đảng. Trong cuộc trao đổi với đài BBC Việt ngữ ngày 26/4/2013,
ông Nguyễn Đình Tấn – một giáo sư thuộc Học viện Chính trị – Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh, bày tỏ cách nhìn: “Thực chất ở Việt Nam hiện nay, có thể nói
với Đảng Cộng sản Việt Nam không có đối thủ. Nếu thể hiện là đối thủ của Đảng
Cộng sản Việt Nam với tư cách là một tổ chức, tôi nghĩ là không có”.
Suy
nghĩ của ông Tấn chắc chắn mang tính đại diện cho một số không nhỏ trí thức
trong hệ thống nhà nước – những người mà cho tới nay vẫn chưa tìm thấy lý do
tồn tại nào khác ngoài mối liên hệ “còn đảng còn mình”.
Đối lập: có hay
không?
Giáo
sư Nguyễn Đình Tấn đã có lý, vì khách quan mà xét, câu trả lời là “Không”, cho
đến thời điểm này.
Ngay
cả đề xuất thành lập đảng Dân chủ Xã hội của luật gia Lê Hiếu Đằng ở Sài Gòn
vào tháng 8/2013, mà suýt chút nữa đã “thành công”, cũng dường như không tạo ra
một ấn tượng đủ lớn đối với đảng cầm quyền về một đối trọng chính trị nào đó.
Trong
thực tế, một đối thủ chính trị đúng nghĩa phải bao hàm ít nhất bốn yếu tố:
cương lĩnh, nhân lực, tài lực và sức ảnh hưởng trong dân chúng. Hoặc tối thiểu,
đối thủ chính trị phải thể hiện bằng một tổ chức nào đó, dù là “hữu danh vô
thực”.
Về
mặt tổ chức, trước đây đã có hai đảng ngoài đảng Cộng sản là đảng Dân chủ và
đảng Xã hội. Tuy nhiên đến năm 1988 cả hai đảng này đều rút lui, và từ đó đến
nay đã không tồn tại một đảng phái nào khác ngoài đảng Cộng sản. Do vậy, có thể
xác định là đến thời điểm này, vẫn chưa có một đối thủ chính trị nào đối với
đảng Cộng sản. Do vậy đánh giá của ông Nguyễn Đình Tấn về “Đảng Cộng sản Việt
Nam không có đối thủ” là hoàn toàn đúng, nếu chỉ xét về mặt hình thức.
Tuy
nhiên nếu xét về lòng dân, thực chất nội dung trong lòng xã hội và cả trong
lòng chế độ lại khác rất nhiều hình ảnh tưởng như nhất quán bên ngoài. Khác hẳn
với hoàn cảnh chế độ được “dân tin, dân yêu” vào năm 1988, tình cảnh hiện thời
đang mô tả cho một cuộc khủng hoảng niềm tin chưa từng thấy của đại đa số dân
chúng đối với hầu như toàn bộ hệ thống đảng và chính quyền các cấp.
Nếu
đảng Cộng sản đủ can đảm chấp nhận tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý công khai
và minh bạch về chủ đề đảng phái độc lập, rất nhiều khả năng sẽ có ngay một số
tổ chức đảng ngoài đảng Cộng sản ra đời ngay vào thời điểm này.
Việc
hình thành tổ chức và cương lĩnh ban đầu, kể cả hậu cần tài chính là không quá
khó khăn đối với các nhóm chính trị độc lập, vấn đề còn lại là họ có tạo dựng
được lực lượng và tạo được sức lan tỏa từ hoạt động của mình đối với quần chúng
nhân dân hay không mà thôi.
Trước
đây, người ta nhìn thấy hoạt động của vài ba nhóm dân chủ như Khối 8406 hay
Bauxite Việt Nam. Nhưng trong thực tế, hoàn toàn chưa có một phong trào thống
nhất về dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Chỉ có nhóm “Kiến nghị 72” mới nên
được xem là điểm khởi đầu có tính tập hợp khá rộng rãi, tuy nội dung tranh đấu
vẫn còn khá hạn hẹp.
Hiện
thời, hoạt động dân chủ đa phần mang tính tự phát, với các cá nhân rời rạc,
manh mún về tổ chức và phân tán tại các địa phương, chưa có được sự kết nối giữa
những thành phố chính như Hà Nội và Sài Gòn, giữa hai thành phố chính này với
một số địa phương khác như Đà Nẵng, Nghệ An, đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên và
khu vực Nam Trung Bộ… Cũng gần như chưa có mối liên kết giữa các nhóm dân chủ
người Việt ở hải ngoại với các nhóm dân chủ trong nước.
Do
vậy có thể vẫn còn khá sớm để hình thành một chính đảng đối lập, cho dù đó là
nhu cầu của không ít nhân sĩ, trí thức và cả giai tầng công nông. Bởi điều quan
trọng nhất đối với chính đảng không phải là tên gọi hay một cái gì đó hữu danh,
mà là hiệu quả vận hành thực tế của nó, ảnh hưởng của nó đối với các giai tầng
dân chúng chủ chốt như nông dân, công nhân, tiểu thương, kể cả đối với tín đồ
tôn giáo.
Trong
điều kiện còn quá mong manh về lực lượng, việc đẻ non chính đảng sẽ có thể lợi
bất cập hại, thế mong manh về tính hiệu quả sẽ dẫn đến hụt hẫng về lòng tin của
dân chúng, chưa kể phải tiếp nhận nhiều khó khăn từ tác động ngăn cản của đảng
cầm quyền.
Hai kịch bản chuyển
hóa
Một
cách khách quan, hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam chỉ mới đang ở bước
đi đầu tiên, nằm trong giai đoạn đầu tiên của thời kỳ quá độ trước khi tiến tới
một sự hoàn chỉnh nào đó, chẳng hạn như mô hình xã hội dân sự ở Việt Nam.
Thông
thường, kịch bản loại trừ nhau chỉ xảy ra trong điều kiện xã hội đã hình thành
một lực lượng đối lập và tiến tới đối kháng đủ mạnh để có thể nhắm tới mục tiêu
thay thế chính thể đương nhiệm, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế đất nước suy
sụp và khủng hoảng xã hội nổ ra. Hiện tượng “Mùa xuân Ả rập” tại một số nước
Bắc Phi là một minh chứng gần gũi nhất.
Tuy
vậy điều kiện của xã hội Việt Nam lại không giống như các nước Bắc Phi hay
trường hợp lực lượng nổi dậy ở Syria, mà cho tới nay vẫn chưa hình thành một
lực lượng đối trọng nào có tiếng nói đủ lớn, cho dù đã xuất hiện nhiều dấu hiệu
về suy thoái kinh tế và khủng hoảng xã hội. Do vậy, trong ít nhất 3-4 năm tới
sẽ rất khó có khả năng xảy ra kịch bản đối đầu trực tiếp nhằm loại trừ lẫn
nhau.
Thay
vào đó, một kịch bản “mềm” có thể dễ hình dung hơn nhiều là sẽ xuất hiện những
tổ chức dân sự, có thể cả những kết nối để hình thành những phong trào phản
biện xã hội trong 3-4 năm tới, tạo nên một số thành tố đầu tiên của mô hình xã
hội dân sự tại Việt Nam. Mà mục tiêu của xã hội dân sự không phải là tìm cách
thay thế hay lật đổ nhà nước, mà chỉ tác động để nhà nước nên hoặc phải thay
đổi những chính sách, con người và việc thực thi chính sách bất hợp lý, gây bất
công xã hội hoặc khiến công phẫn trong dân chúng. Do vậy so với đảng phái chính
trị, xã hội dân sự sẽ thu hút rộng rãi hơn các thành phần tham gia.
Cũng
trong kịch bản “mềm”, sẽ xuất hiện ngày càng nhiều phản ứng về tư tưởng dẫn đến
hành động của ngày càng đông những cán bộ lão thành, đảng viên về hưu và cả một
bộ phận công chức, viên chức đương nhiệm đối với chính thể, dẫn đến sự phân hóa
tư tưởng và phân hóa nội bộ ngày càng trầm trọng.
Một
số đánh giá mang tính ước đoán cho biết hiện thời trong nội bộ có ba nhóm quan
điểm chính. Nhóm thứ nhất gồm khoảng 30% trí thức trong đảng và hệ thống nhà
nước, bao gồm cả quan chức, được xem là nhóm “trung thành” và có quyền lợi
thiết thân với chức vụ và các đặc quyền trong hệ thống. Ngược lại, nhóm thứ hai
có khoảng 20% trí thức trong các cơ quan nhà nước, không phải đảng viên hoặc
vẫn là đảng viên, nhưng có tư tưởng cấp tiến, muốn thay đổi, song chưa có điều
kiện để thể hiện quan điểm và hành động của họ. Nằm giữa hai khuynh hướng vừa
đề cập là nhóm thứ ba với khoảng 50% trí thức trong đảng và nhà nước- những
người không gắn bó đặc biệt với quyền lợi và chức vụ, mang quan điểm trung
dung.
Nếu
thực tế gần đúng với những tỷ lệ trên thì một xã hội dân sự được tổ chức tốt sẽ
có thể thu hút đến ít nhất phân nửa số trí thức đang làm việc cho hệ thống của
đảng và nhà nước.
Kịch bản Miến Điện?
Trong
những năm tới, sự chuyển hóa của nền chính trị Việt Nam rất nhiều khả năng sẽ
chịu tác động về dân chủ và nhân quyền của quốc tế, sức ép của các nhóm và
phong trào phản biện trong nước, và từ chính trong nội bộ. Do vậy, kịch bản
chuyển hóa chính trị ở Việt Nam có khả năng sẽ là quá trình ma sát liên tục,
bắt đầu từ dạng ma sát thô giữa các lực lượng chính trị mới và lực lượng chính
trị cũ. Xu hướng dân chủ có thể sẽ dần hình thành ngay trong nội bộ đảng, được
tác động bởi một nhóm người được xem là “cải cách”, “cấp tiến” hay đơn giản là
chỉ muốn thay đổi vì những động cơ cá nhân nào đó. Cũng có một xác suất nhỏ
trong 3-4 năm tới là nhóm người này sẽ tạo được ảnh hưởng mang tính quyết định
và làm thay đổi hẳn cục diện chính trị đất nước.
Nếu
khả quan, đến một thời điểm nào đó, ma sát thô sẽ chuyển thành ma sát tinh, và
những “người cũ” sẽ tìm thấy một mối giao cảm nào đó với những “người mới”, và
ngược lại.
Đặc
biệt, nếu phong trào dân sự có được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và những
nhà nước nhân quyền ở Hoa Kỳ và Tây Âu, xác suất thành công của nó sẽ có triển
vọng hơn hẳn.
Ai
đó có thể cho cái cách như thế là “diễn biến hòa bình”, nhưng cứ nhìn vào tình
cảnh hỗn loạn ở Syria và Ai Cập thì có lẽ chẳng chính khách Việt Nam nào muốn
đất nước rơi vào cảnh đổ máu để không ai còn chốn nương thân.
Hiện
nay, người ta đang bàn tán rất nhiều về những kinh nghiệm mà giới chính trị
Miến Điện đã tích lũy được. Rõ ràng, Tổng thống Thein Sein và nhóm lợi ích
chính trị của ông đã thành công trong việc tránh khỏi một cuộc đổ máu vô ích
cùng nền kinh tế suy sụp.
Nếu
giới chính khách Việt Nam cũng tranh thủ được sự giúp đỡ của phương Tây như
Miến Điện và do đó có thể tạm phục hồi nền kinh tế, dân chủ cũng từ đó có triển
vọng rõ rệt hơn, đặc biệt là đất nước tránh khỏi một cuộc đối đầu quyết liệt
giữa dân chúng bất mãn và phẫn uất đối với nhiều chính quyền địa phương và cả
với chính quyền trung ương…, thì đó sẽ là kịch bản tối ưu cho tương lai dân
tộc.
Phạm Chí Dũng
Is
There Opposition in Vietnam? October 11, 2013
No comments:
Post a Comment