Trần Vũ Hải
Posted by diendanxahoidansu on 25/10/2013
Bình luận tiếp về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
1992 sau đúng một năm tiếp thu, chỉnh lý (từ chương III đến hết Dự thảo)
Kết quả của một năm rầm rộ góp ý, chỉnh lý của Dự án sửa
đổi Hiến pháp 1992 với chi phí chi phí ít nhất lên đến nhiều trăm tỷ đồng
(đã có hàng chục triệu bản Dự thảo Hiến pháp được in để chuyển đến các hộ dân
và có hàng trăm nghìn cuộc họp góp ý) là một bản Dự thảo 4 được trình ra Quốc
hội với nội dung cơ bản như Dự thảo 1.
I/. Chương III ( Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa
học, công nghệ và môi trường)
1, Chương III của Dự thảo 1 đề
ngày 18/10/2012 (“DT1”) có 16 điều từ điều 54 đến điều 69. Chương III của Dự
thảo 4 đề ngày 17/10/2013 (“DT4”) có 14 điều từ điều 50 đến điều 63, rút ngắn
02 điều so với DT1. Sự khác biệt giữa hai Dự thảo này ở chương III chủ yếu do
sự sắp xếp lại một số quy định của DT1 ở chương II vào chương III của DT4 và
ngược lại. Tuy nhiên, liên quan đến chương III có một số điều chỉnh đáng kể
được liệt kê dưới đây.
2, Điều 55 DT1 bê gần nguyên si
một số nội dung của Cương lĩnh 2011 của Đảng cộng sản Việt Nam, có liệt kê
những thành phần kinh tế. Trong khi điều 51 DT4 (tương ứng với điều 55 DT1)
không liệt kê những thành phần kinh tế, nhưng vẫn xác định (như DT1) nền
kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo….Các chủ thể hoạt động kinh tế thuộc các thành
phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật…
Bình luận: Điều khoản này chứa đựng những nội dung mâu thuẫn và không rõ về pháp
lý. Cụ thể không rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
gì? Và kinh tế nhà nước bao gồm những gì? Kinh tế nhà nước là
thành phần chủ đạo, vậy làm thế nào để bình đẳng với các thành phần kinh tế
khác?
3, Khoản 2 điều 57 DT1 “Nhà
nước thực hiện chính sách chống độc quyền và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành
mạnh trong kinh doanh” đã bị loại bỏ khỏi chương III DT4.
Bình luận: Không rõ Nhà nước Việt Nam định gửi thông điệp gì cho nhân dân và
các nhà đầu tư thông qua việc loại bỏ nội dung quan trọng này.
4, Việc thu hồi đất theo khoản
3 điều 59 DT1 có các trường hợp: vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi
ích quốc gia, khoản 3 điều 54 DT4 bổ sung thêm các trường hợp: vì lợi
ích công cộng, phát triển kinh tế – xã hội. So với DT1, DT4 bổ sung thêm trưng
dụng đất trong trường hợp đặc biệt do luật định.
Bình luận: Bộ luật Dân sự Việt Nam đã thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại tài
sản – quyền tài sản (nhưng Bộ luật này xác định đất đai thuộc sở
hữu Nhà nước, không ghi là sở hữu toàn dân như Hiến pháp 1992). Hiến pháp 1992
không quy định về thu hồi đất. Với việc ghi và điều chỉnh như trên trong DT4,
không rõ quyền sử dụng đất có còn được coi là một loại tài sản hay không? Rõ
ràng, so với DT1, DT4 là một bước lùi trong việc đảm bảo quyền sử dụng đất của
người dân.
5. DT4 không khắc phục được
nhược điểm của chương III DT1, khi có nhiều điều khoản là những nội dung mang
văn phong của một văn kiện chính trị, không phải của một văn bản pháp lý quan
trọng (nhất), ví dụ như điều 50 DT4 cơ bản giữ nguyên nội dung của điều 54 DT1 “Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát
huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, hoặc như điều 60 DT4 (lấy ví dụ khoản
1) ghi “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại”.
Nhận xét chung: Ngoài vài điều chỉnh đáng kể nêu trên, DT4
không thay đổi nhiều so với DT1 liên quan đến chương III. Việc tiếp tục quy định
kinh tế nhà nước là chủ đạo, không công nhận quyền sở hữu tư nhân về đất đai
(ít nhất là đất ở), mở rộng phạm vi thu hồi đất là những nội dung quan trọng
của DT4. Nếu tiếp tục thông qua Hiến pháp theo hướng như vậy, tất yếu sẽ khó
giải quyết được những vấn đề nổi cộm, bế tắc chưa giải quyết được như hiện nay
(gánh nặng của doanh nghiệp nhà nước và những hậu quả phức tạp của việc thu hồi
đất) trong thời gian tới.
II/. Chương IV (Bảo vệ Tổ quốc)
Chương IV DT4 gồm 5 điều từ
điều 64 đến điều 68, tương ứng với 5 điều từ điều 70 đến điều 74 DT1. Về cơ
bản, chỉ có một số chỉnh sửa câu từ giữa hai Dự thảo. Đáng chú ý có những điểm
chỉnh sửa dưới đây:
a, Điều 65 DT4 bổ sung cụm từ “với
Đảng và Nhà nước” sau đoạn “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc, nhân dân” (điều 71 DT1 không có cụm từ này).
b, Theo điều 66, quân đội gồm lực
lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên và có thêm dân quân
tự vệ (theo DT1 và Hiến pháp 1992, lực lượng dự bị động viên và dân quân tự
vệ có vẻ thuộc một nhóm không đồng nhất với quân đội).
c, Điều 74 DT1 (và Hiến pháp
1992) chỉ nhắc đến công nghiệp quốc phòng, kết hợp quốc phòng với kinh tế,
kinh tế với quốc phòng. Điều 68 DT4 đã điều chỉnh, đưa ra những khái niệm
mới công nghiệp quốc phòng – an ninh, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh
tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh.
Vấn đề đặt ra: An ninh kết hợp với kinh tế và kinh tế kết
hợp với an ninh là như thế nào?
III/. Chương V (Quốc hội)
Chương V DT4 (từ điều 69 đến
điều 85) về cơ bản không khác chương V DT1(từ điều 75 đến điều 91). Chỉ có vài
sự khác biệt như vị trí một số khoản trong một điều được hoán đổi hoặc chỉnh
sửa một số câu từ. Ví dụ điều 74 DT4 (tương ứng điều 80 DT1) có khoản 7 quy
định về thẩm quyền thành lập, tách, nhập đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, trong
khi điều 80 DT1 quy định vấn đề này tại khoản 9.
Tuy nhiên, có một sự
chỉnh sửa đáng tiếc ở điều 77 DT4 so với điều tương ứng là điều 83 DT1.
Theo điều 83 DT1, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu
thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức
và tổ chức, cá nhân khác cung cấp thông tin hoặc giải trình. Cơ
quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm nghiên cứu và trả lời kiến nghị của
Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, báo cáo hoặc giải trình về các vấn
đề mà Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội yêu cầu.
Trong khi điều 77 DT4 chỉ quy
định Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu thành viên
Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao và viên chức nhà nước hữu quan khác báo cáo, giải trình hoặc
cung cấp tài liệu về những vấn đề cần thiết. Người được yêu cầu có trách
nhiệm đáp ứng yêu cầu đó. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm nghiên
cứu và trả lời những kiến nghị, yêu cầu của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của
Quốc hội.
Có vẻ DT4 đã ghi không chính
xác cụm từ viên chức nhà nước hữu quan khác trong điều 77 DT4 (thay từ viên
chức có thể là cán bộ, công chức hoặc người đứng đầu cơ quan nhà
nước hữu quan khác).
Theo chúng tôi, ghi theo điều
83 DT1 sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của các Ủy ban (như nhiều Ủy ban của Quốc
hội các nước khác). Ví dụ, Ủy ban về Môi trường của Quốc hội có quyền yêu cầu
một doanh nghiệp vi phạm nghiêm trọng về môi trường đến phiên họp công
khai của Ủy ban báo cáo, giải trình về vụ vi phạm (như vụ Nicotex Thanh Hóa),
mời các chuyên gia về pháp luật, môi trường nghiên cứu và trả lời về xử lý vụ
vi phạm. Nếu có thẩm quyền như vậy, nhiều vụ việc gây bức xúc cho dư luận, nhân
dân sẽ được kịp thời mổ xẻ công khai tại các Ủy ban của Quốc hội.
IV. Chương VI (Chủ tịch nước)
Chương VI DT4 (từ điều 86 đến
điều 93) về cơ bản không khác chương VI DT1 (từ điều 92 đến điều 99).
V. Chương VII (Chính phủ)
1, Chương VII DT4 (từ điều 94
đến điều 101) về cơ bản không khác nhiều so với chương VII DT1(từ điều 100 đến
điều 107), chỉ thay đổi một số câu từ, vị trí khoản và vài điều chỉnh, bổ
sung khác (được liệt kê dưới đây).
2, Điều 95 DT4 về thành phần
Chính phủ tương ứng với điều 101 DT1 có những điều chỉnh, bổ sung (so với điều
101 DT1) như:
a, Xác định Thủ tướng Chính
phủ là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động
của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao
b, Quy định Phó Thủ tướng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ
c, Bộ trưởng chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính
phủ, Quốc hội…..
3, Nội dung khoản 1 điều 104
DT1 “lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Ủy
ban dân dân các cấp; định hướng chính sách và điều hành hoạt động của Chính phủ”
được điều chỉnh thành nội dung khoản 1 và khoản 2 của điều 98 DT4. Theo đó Định
hướng và điều hành hoạt động của Chính phủ; lãnh đạo việc tổ chức thi hành
pháp luật(khoản 1); Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của
hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống
nhất và thông suốt của nền hành chính quốc gia (khoản 2).
4, DT4 bổ sung tại điều 99
khoản 2 trách nhiệm của Bộ trưởng (so với điều 106 DT1) thực hiện chế độ báo
trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý.
VI. Chương VIII (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân)
Chương VIII DT4 (từ điều 102
đến điều 109) tương ứng với chương VIII DTI (từ điều 108 đến điều 115) về cơ
bản giữ nguyên nội dung của DT1. Có vài khoản được rút ngắn nội dung, lược bỏ
nội dung đã quy định ở chương khác của DT4, chuyển đổi nội dung từ điều khoản
này sang điều khoản khác. Thay đổi đáng kể là lược bỏ quy định tại khoản 3 điều
108 DT1 “trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà
án đặc biệt” và cụm từ “trừ các Viện kiểm sát quân sự” tại điều 115
DT1.
VII. Chương IX (Chính quyền địa phương)
1, Chương IX DT4 (từ điều 110
đến điều 116) tương ứng với chương IX DT1 (từ điều 116 đến điều 120), so với
DT1, là phần được thay đổi, điều chỉnh nhiều nhất của DT4. Số điều của chương
này được tăng lên từ 05 điều của DT1 lên 07 điều của DT4.
2, Có những thay đổi, điều
chỉnh đáng chú ý sau:
a, Với quy định tại khoản
1 điều 111 DT4 “Chính quyền địa phương tổ chức ở các đơn vị hành chính của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị,
hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt”, mở khả năng cho phép tổ
chức chính quyền địa phương ở đô thị khác ở nông thôn.
b, Với quy định tại khoản 1
điều 114 DT4 “Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu hoặc do Hội
đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cùng cấp”, cho phép khả năng không nhất thiết hình thành Ủy ban
nhân dân và Hội đồng nhân dân song hành ở mọi cấp hành chính (Hội đồng nhân dân
không nhất thiết hình thành ở mọi cấp hành chính).
c, Theo khoản 2 điều 114 DT4,
Ủy ban nhân dân ngoài chức năng cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, được giao tổ chức việc thi hành Hiến
pháp và pháp luật ở địa phương.
3, Ngoài những thay đổi, điều
chỉnh nêu trên, những sửa đổi, điều chỉnh khác của chương IX DT4 so với
DT1 không đáng kể, chủ yếu thay đổi vị trí điều khoản, ngôn từ.
VIII. Chương X ( Hội đồng bầu cử quốc gia, kiểm toán Nhà
nước).
Chương X DT4 gồm 2 điều 117 và
118 tương ứng với chương X DT1 (từ điều 121 đến điều 124). Chương này của DT4
không thay đổi nội dung gì so với DT1, ngoài việc rút gọn từ 4 điều trong DT1
xuống 2 điều.
IX. Chương XI (Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi
Hiến pháp)
Chương XI DT4 gồm 2 điều 119 và
120 tương ứng với các điều 125 và 126 chương XI DT1. Ngoài bổ sung thêm đoạn “Mọi
hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý” và một vài điều chỉnh lặt
vặt về câu từ, chương này không thay đổi so với DT1.
Bình luận: Quy định bổ sung trên khá quan trọng, nhưng không có cơ chế giải quyết,
phán quyết khi DT4 đã loại bỏ cơ chế bảo hiến ra khỏi Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
trình Quốc hội (sau khi đã được nhắc trong các Dự thảo 2 và Dự thảo 3 của Dự án
sửa đổi Hiến pháp).
X. Nhận xét chung về những chỉnh lý, tiếp thu của DT4 so
với DT1 sau một năm lấy ý kiến các cơ quan Nhà nước và nhân dân:
1, DT4 không có thay đổi, điều
chỉnh đột phá nào so với DT1.
2, Có vài thay đổi, điều chỉnh
đáng kể (về chính quyền địa phương, mở rộng phạm vi thu hồi đất….) và một số
thay đổi, điều chỉnh không đáng kể. Nhìn chung, trừ thay đổi, điều chỉnh về chính
quyền địa phương (nhưng chưa rõ nét), những thay đổi, điều chỉnh trong DT4 so
với DT1 không theo chiều hướng tốt hơn đối với quyền con người, quyền công dân,
thể chế kinh tế, thể chế chính trị.
3, Một số góp ý quan trọng cho
Dự án sửa đổi Hiến pháp đã từng được ghi nhận trong DT2, DT3 và một Dự thảo
khác (đã được hình thành nhưng chưa thấy công bố công khai) đã không thấy xuất
hiện trong DT4 (đặc biệt cơ chế bảo hiến).
4, Nhiều nội dung góp ý tích
cực, đột phá không chỉ từ nhóm Kiến nghị 72 (và một số nhóm công
dân khác), mà còn từ một số cơ quan, tổ chức như Chủ tịch nước,
Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc… đã không được ghi nhận trong DT4 (chúng tôi sẽ trở
lại về nội dung này cũng như so sánh giữa Hiến pháp hiện hành và DT4 trong
những bài viết sau).
5, Kết quả của một năm rầm rộ góp ý, chỉnh lý của Dự án sửa đổi Hiến
pháp 1992 với chi phí ít nhất lên đến nhiều trăm tỷ đồng (đã có hàng chục
triệu bản Dự thảo Hiến pháp được in để chuyển đến các hộ dân và có hàng trăm
nghìn cuộc họp góp ý) là một bản Dự thảo 4 được trình ra Quốc hội với nội dung
cơ bản như DT1.
Hà Nội, ngày 25/10/2013.
Trần Vũ Hải
--------------------------------------------------
Bình luận nhanh về
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 sau đúng một năm tiếp thu, chỉnh lý (về Lời nói
đầu, Chương I và Chương II). *
Thư gửi Đại biểu Quốc hội, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng (đề nghị ông Tổng Bí thư yêu cầu các Đại biểu Quốc hội là đảng
viên khi thông qua Dự án sửa đổi Hiến pháp phải tuân theo Nghị quyết Đại hội X
của Đảng Cộng sản Việt Nam về nội dung xây dựng cơ chế phán quyết về những
vi phạm Hiến pháp).
No comments:
Post a Comment