Nam
Nguyên, phóng viên RFA
2013-10-04
2013-10-04
Xu thế hội nhập thế giới tạo ra những áp lực cho
Việt Nam phải tiến tới cải cách thực sự. Quyền lập hội của người lao động là
một trong những vấn đề mà Nhà nước Việt Nam sớm muộn cũng phải giải quyết, để
Nhà nước và người dân được hưởng lợi ích nhiều mặt thông qua hội nhập.
Trách
nhiệm của Quốc hội
Điều 69 Hiến pháp 1992 hiện hành của nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam qui định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tư do báo chí, có
quyền được tự do thông tin;có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo qui định
của pháp luật.” Như vậy quyền lập hội của công dân mà ở nghĩa hẹp hơn
là quyền tự do nghiệp đoàn của người lao động được Hiến pháp qui định. Nhưng
trên thực tế người lao động ở nước Việt Nam Cộng sản chưa bao giờ có quyền lập
hội hoặc tự do nghiệp đoàn. Hơn nữa Quốc hội cũng chưa hề soạn thảo các bộ luật
về quyền cơ bản của công dân như quyền lập hội hoặc biểu tình để thực thi hiến
pháp.
LS
Trần Vũ Hải ở Hà Nội, một nhà hoạt động quyền dân sự từng phát biểu với
chúng tôi:
“Cái gì ghi trong Hiến pháp là đương nhiên được
hưởng, còn nếu có luật thì lúc đó luật phải qui định những điều kiện, mà những
điều kiện đó cũng không được phép gây cản trở biến cái quyền của Hiến pháp trở
thành không thực hiện được… Luật phải làm thế nào để ban hành để quyền có trong
Hiến pháp dễ thực hiện và thực hiện được. Còn nếu chưa có luật qui định thì
trách nhiệm ấy là của Quốc hội chưa làm tròn, trong trường hợp ấy công dân phải
có quyền.”
Quốc hội Việt Nam qua nhiều khóa vẫn trì hoãn không
lên kế hoạch soạn thảo nhiều bộ luật về quyền căn bản của công dân, trong đó có
luật tự do lập hội. Ngoài ra Hiến pháp 1992 còn có điều 10 với nội dung không
cần thiết, trong trường hợp điều 69 liên quan đến quyền lập hội được tôn trọng
và thực thi. Điều 10 qui định: “Công đoàn là tổ chức chính trị-xã hội của giai
cấp công nhân và người lao động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân viên chức và
những người lao động khác…”
TS
Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS,
một tổ chức độc lập ở Hà Nội đã tự giải thể, nhận định về nhu cầu cần thiết
phải có các tổ chức nghiệp đoàn độc lập qua vụ bê bối tiền lương ở các công ty
công ích Nhà nước trực thuộc chính quyền TP.HCM:
“Công đoàn mà thực sự là một bộ phận nối dài của
đảng Cộng sản như vậy hoàn toàn không bảo vệ lợi ích của người lao động. Điều
kiện của TPP Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương buộc Nhà nước Việt Nam
phải cho phép có những nghiệp đoàn lao động độc lập, đấy là một bước một áp lực
từ bên ngoài rất là quan trọng, nhưng tôi nghĩ rằng cái áp lực từ bên trong mới
là chính.”
Nhìn lại lịch sử hình thành tổ chức công đoàn ở Việt
Nam. Trong thập niên 1930-1940 các hội kín, mang tính cách nghiệp đoàn như Công
hội Đỏ thời Pháp thuộc, từng là công cụ giúp cho đảng Cộng Sản trong quá trình
xây dựng quyền lực. Khi Việt Nam còn chia cắt, miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa không
có khái niệm tự do nghiệp đoàn, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với mỹ từ là
đại diện cho hàng chục triệu người lao động, thực chất là một tổ chức trực
thuộc đảng Cộng sản và được chính phủ điều hành.
Trong thời gian từ 1954 tới 1975 ở miền Nam dưới chế
độ Việt Nam Cộng Hòa, quyền lập hội được tôn trọng trong đó có quyền tự do
nghiệp đoàn. Thời kỳ đó có hàng trăm nghiệp đoàn đủ các ngành nghề được thành
lập và tham gia vào các hệ thống nghiệp đoàn khác nhau, đáng chú ý nhất là tổ
chức Tổng Liên đoàn Lao công với Chủ tịch Trần Quốc Bửu.
Phải có
qui định rộng mở hơn
Sau 30/4/1975 Việt Nam thống nhất dưới chế độ toàn
trị của đảng Cộng sản, toàn bộ người lao động về nguyên tắc được đại diện bởi
Tổng Công đoàn Việt Nam và từ 1988 đến nay được đổi tên là Tổng Liên đoàn lao
động Việt Nam.
Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi bà Phạm Chi
Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải nhận định
rằng, xã hội Việt Nam đang mong muốn cải cách toàn diện về nhiều mặt trong đó
có cả cải cách chính trị. Điều này hàm ý mong muốn mở rộng thêm thể chế thiết
chế dân chủ ở Việt Nam và đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, quyền con
người được qui định trong hiến pháp và một trong những quyền đó là quyền lập
hội.
Bà Phạm Chi Lan nhấn mạnh là quyền lập hội được qui
định trong Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1992 hiện nay. Bà hy vọng sau khi thông
qua Hiến pháp sửa đổi, sắp tới Quốc hội sẽ sớm đưa ra các luật để đảm bảo quyền
cho công dân, nhất là những luật còn thiếu vắng nhất như quyền lập hội.
Bà
Phạm Chi Lan tiếp lời:
“Luật về hội nếu được thiết kế, theo tôi nghĩ thứ
nhất phải theo tinh thần quyền tự do lập hội được Hiến pháp qui định. Thứ hai
nữa là cũng phải phù hợp tập quán ở đông đảo các nước mà Việt Nam đang tham gia
hội nhập với mức độ càng ngày càng rộng, cũng như càng ngày càng sâu hơn, để
đảm bảo quyền cho người dân cũng như tương ứng với các luật pháp khác của quốc
tế mà Việt Nam đã tham gia. Như vậy phải có qui định cho rộng mở hơn.”
Theo lời bà Phạm Chi Lan, những người lao động làm
công ăn lương vốn dĩ đã gắn bó với đất nước, không ước mong gì hơn là có
được tổ chức công đoàn tốt, bảo vệ được quyền lợi của họ và đóng góp vào sự
phát triển ổn định bền vững của đất nước. Nếu lãnh đạo Nhà nước đặt niềm tin
vào người dân của mình, vào những người lao động thì có thể cải tổ để mở rộng
tự do nghiệp đoàn.
Và như bà Phạm Chi Lan nói với chúng tôi, khả năng
cải cách cơ hội cải cách Việt Nam đều có, nhưng vấn đề là những người lãnh đạo
đất nước có đủ quyết tâm chính trị để thực hiện và có muốn làm đến nơi đến chốn
hay không.
No comments:
Post a Comment