Sunday, 27 October 2013

AI GIẾT TƯỚNG NGUYỄN BÌNH ? (FB Tin Không Lề)




October 27, 2013 at 9:07am

Nhân bài viết của bác Phùng Hoài Ngọc có nhắc đến chuyện thủ tiêu lẫn nhau giữa các phe phái trước đây, rằng "Mạnh Tây Tây giết, mạnh Việt Minh Việt Minh thủ tiêu": http://giangnamlangtu.wordpress.com/2013/10/27/loi-ban-muon-ve-tuong-giap/, xin được giới thiệu cùng độc giả 2 bài viết: "Tình đồng chí cộng sản và những bản án tử hình" của tác giả Trúc Giang và bài "Ai là anh cả Quân đội Nhân dân xứ lừa?" của An Hoàng Trung tướng để bà con có thêm thông tin.

---------

TÌNH ĐỒNG CHÍ CỘNG SẢN VÀ NHỮNG BẢN ÁN TỬ HÌNH
Tác giả : Trúc Giang

1. Ai giết Trung tướng Nguyễn Bình?

Ngày 29-9-1951, Trung tướng Nguyễn Bình cùng đoàn tùy tùng 22 người trên đường ra Bắc theo lịnh của Trung Ương, đã bị toán lính Miên do một trung úy người Pháp chỉ huy, phục kích tấn công, và Nguyễn Bình bị tử thương tại làng Srépok, huyện Se San, tỉnh Stung Streng, Cam Bốt.

Sự thật rõ ràng là Nguyễn Bình bị Tây bắn chết, nhưng sau đó, Nam Bộ lại lan truyền câu hỏi “Ai giết Nguyễn Bình?”. Câu hỏi được truyền miệng trong bộ đội miền Nam và trong dân gian, từ đó, xuất hiện những bài viết về bí mật cái chết của Nguyễn Bình, “một tướng lãnh được xem như tài ba lỗi lạc, tận trung với Đảng, hết lòng yêu nước, được Tổ quốc ghi công và dân tộc sùng bái”. Thế nhưng, những bài viết tựa đề: “Ai giết Nguyễn Bình”, “Tôi giết Nguyễn Bình”, “Những bí ẩn về cái chết của Nguyễn Bình” trực tiếp hoặc gián tiếp ám chỉ chính đảng CSVN là thủ phạm đã giết đồng chí của mình. Một số bài viết mang tính tuyên truyền, thanh minh thanh nga cho đảng, nhưng tất cả đều xoay quanh cái chết của Nguyễn Bình.

Không có tài liệu nào chính thức nêu bằng chứng cụ thể, vì nó nằm trong những âm mưu của Đảng mà những người liên hệ, tuy còn sống cũng không dám hé răng.

2. Việt Cộng công nhận Nguyễn Bình là một đảng viên trung kiên yêu nước

Tháng 12 năm 1945, nhận thấy Nam Bộ có nhiều đơn vị kháng chiến không chịu nhận lịnh của Cộng Sản, nên Hồ Chí Minh cử Nguyễn Bình vào Nam để “thống nhất các lực lượng vũ trang, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”, những ai đầu phục thì thu nhận rồi tìm cách ám sát sau, dưới những lý do “hy sinh” hoặc “tử trận”. Nguyễn Bình được phong chức Khu trưởng Khu 7, miền Đông Nam Bộ. Hồ Chí Minh nói: “Bác trao miền Nam cho chú đó”.

Ngày 25-1-1948, Nguyễn Bình được phong chức Trung tướng, là trung tướng đầu tiên của Quân Đội Nhân Dân. Trong đợt phong chức nầy, Võ Nguyên Giáp là Đại tướng và 9 người khác như Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiếu Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa và Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Nguyễn Bình là trung tướng đầu tiên, có nghĩa là Võ Nguyên Giáp từ đâu nhảy ngang vào chức Đại tướng và cũng có thể Nguyễn Bình cũng nhảy ngang vào chức Trung tướng.

Bức ảnh Trung tướng Nguyễn Bình khoác binh phục, đang ngồi trên lưng ngựa

Ngày 21-3-1949, Hồ Chí Minh ký Sắc lịnh số 18-SL, cử trung tướng Nguyễn Bình làm Tư Lệnh Bộ Tư Lệnh Nam Bộ, lãnh đạo lực lượng vũ trang miền Nam chống Pháp.

Sau nầy, Thượng tướng Trần Văn Trà đánh giá: “Nguyễn Bình là người Cộng Sản trung kiên, một tướng lãnh quả cảm, nghĩa hiệp và tài thao lược. Công lao mãi mãi sáng ngời trên đài Tổ Quốc Ghi Công”.
GS Trần Văn Giàu, nguyên là Bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ cho biết: “Đó là một vị tướng có tâm và tài trí của Nam Bộ”.

Ngày 21-1-2000, QĐ số 52/BQP/QĐ cho thành lập đoàn công tác đi Campuchia tìm hài cốt Nguyễn Bình. Và ngày 26-2-2000, hài cốt Nguyễn Bình được mang về VN, làm tang lễ theo lễ nghi một tướng lãnh. Được truy tặng danh hiệu “Anh hùng Lực Lượng Vũ Trang” và huân chương Hồ Chí Minh.

Một tướng tài trung với đảng, một lòng yêu nước như thế thì tại sao phải bị khai trừ, thủ tiêu? Dư luận cũng thắc mắc tại sao phải chờ tới 49 năm, khi có nhiều người nhắc nhở, đề nghị thì đảng mới cho đi tìm hài cốt, và tại sao không tặng huân chương và danh hiệu anh hùng ngay sau khi bị Tây bắn chết?

3. Trung Ương gọi Nguyễn Bình ra Bắc

3.1. Nguyễn Bình lo lắng bất thường

Vào tháng 5 năm 1951, Nguyễn Bình nhận được một bức thơ vắn tắt của Võ Nguyên Giáp nguyên văn như sau: “Đồng chí thân mến, Đồng chí sẽ được một toán hộ tống 30 người gồm nhân viên tùy tùng và bảo vệ. Tôi tin rằng đồng chí sẽ hoàn thành nhiệm vụ nầy. Đồng chí sẽ đi đường rừng băng qua các tỉnh Kompong Chàm, Kratié, Stung Streng.”

“Những người trong văn phòng anh ba Bình không hiểu lý do triệu hồi một viên tướng mà chính bác Hồ đã từng giao Nam Bộ trong những ngày “ngàn cân treo sợi tóc” (“Bác trao miền Nam cho chú đó”).

“Hai Giỏi, thư ký cũng là người bảo vệ, thấy anh Ba đăm chiêu, nghĩ ngợi, có vẻ lo lắng bất thường, trước lệnh của Trung Ương”.

3.2. Dường như có linh tính báo trước

Dường như có linh tính báo trước chuyến đi nầy may ít rủi nhiều, là một khúc quanh quan trọng trong cuộc đời, tuy Nguyễn Bình không nói ra, nhưng những người chung quanh nghĩ như thế.
Nguyễn Bình lo lắng “việc ra Bắc” vì chính ông trước đây cũng đã ký những lịnh “đi Bắc” để đưa những đồng chí thân yêu lên đường đi vào cửa tử, đến bên kia thế giới.
Trước khi lên đường, Nguyễn Bình (NB) đã viết thơ “tạm biệt” cho các bạn đã từng sống chết với nhau trên chiến trường.

“Anh Ba nhớ đến người bạn đã chết như luật sư Lê Đình Chi, chẳng may bị máy bay bắn chết. Anh không quên luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, người đã giúp anh đột nhập Sài Gòn năm 1946. “Ông Vĩnh đã yêu cầu mình cho một tiểu đội hộ tống về nhà tổ phụ ở Trung Lương (Mỹ Tho) đào 200 lượng vàng để làm công quỹ nuôi quân trong lúc cạn tiền”. Anh Ba soạn một số ảnh chụp chung với ông Vĩnh trong buổi lễ tấn phong trung tướng ở bờ kinh Dương Văn Dương, dán vào album nhỏ, gọi là lưu niệm chia tay. Ngoài ra, anh cũng viết thơ 5, 6 trang từ giả ông Lâm Thái Hoà, phụ trách pháo binh, bày tỏ nổi lòng của người ra đi không còn hy vọng gặp lại. Tất nhiên là không quên Tám Nghệ, người có tài vừa đánh giặc vừa làm thơ.

Anh Ba yêu cầu Trung Ương cho khu trưởng Khu 7 Huỳnh Văn Nghệ (Tám Nghê) cùng đi về Việt Bắc, nhưng đề nghị đó không được chấp thuận.
Anh Ba kiểm điểm lại tất cả những việc làm, từ thành tích, chiến công đến những va chạm với mọi người, với cấp trên.

Nguyễn Bình nhớ lại Hoàng Thọ.
“Vụ Hoàng Thọ, mình đã quá nuông chiều cậu nầy. Nuông chiều vì một lẻ: nó là thằng em út đồng hương Hải Phòng, có nhiều điểm giống mình, anh hùng hảo hán, trung thực, ăn nói ngay thẳng. Khi Hoàng Thọ bất mãn bỏ tiều đoàn 303 thì mình nhận được lịnh trên phải đưa nó ra Trung Ương để báo cáo. Mình biết “ra TW” là con đường chết, là một bản án tử hình đối với những đồng chí có nhiều uy tín và chiến công trong đơn vị. Mình hết sức khổ tâm. Nó đã nhiều lần cứu mình thoát chết, không có Hoàng Thọ, thì mình đã mồ xanh cỏ từ lâu. Tuy biết rằng đó là hạ sách, nhưng lịnh trên khó cãi, và mình cũng phải tránh tội bao che cho đàn em làm bậy. Mình phải ký giấy đi đường và cho lộ phí.”

4. Vụ Hoàng Thọ

4.1. Sự khủng bố của Việt Minh

Trong thời buổi loạn lạc, các tay anh chị giang hồ lấy câu “tứ hải giai huynh đệ” kéo bè kết đảng, nổi lên xưng hùng xưng bá, mỗi nhóm một cõi bách hại dân lành. Họ tự cho mình là nghĩa hiệp sống bằng dao búa, giải quyết tranh chấp theo luật giang hồ. Đứng bến, đâm thuê chém mướn, dân đen có chút tiền của, ngày đêm nơm nớp lo sợ bọn đạo tặc, cướp ngày đó…

Lúc bấy giờ Việt Minh nổi lên, thu phục bọn giang hồ dao búa làm tay chân. Những kẻ cướp của giết người ngày hôm trước, thì bỗng nhiên, ngày hôm sau thay hình đổi dạng trở thành bộ đội kháng chiến, như những tướng cướp Bảy Viễn, Ba Dương, Mười Trí, Nguyễn Phương Thảo là em kết nghĩa của nhà văn tướng cướp Sơn Vương, Trương Văn Thoại. Nguyễn Phương Thảo sau trở thành Trung tướng Nguyễn Bình, tư lệnh lực lượng võ trang chống Pháp Nam Bộ.

Thủ đoạn của Việt Minh là, một mặt tuyên truyền mị dân, một mặt khủng bố trấn áp làm cho dân khiếp sợ mà phải phục tùng. Thành phần Việt Minh (VM) ban đầu rất phức tạp, người đàng hoàng thì ít, mà kẻ lưu manh thì nhiều. Thủ đoạn đó được các tay giang hồ dao búa thực hiện bằng cách chụp mủ “Việt gian, Phản động”. Hai cái tội nầy chỉ có con đường chết, và nhiều người dân chết tức tưởi, chết oan chết ức, chỉ vì chủ trương khủng bố dằn mặt để tạo uy thế, và sự vâng lời. Thế rồi, vào những đêm tối trời, một đám người mã tấu, đến gỏ cửa, bịt mắt dắt đi. Người phải giết thì chặt đầu, cắt cổ, mổ bụng dồn trấu, cho đi mò tôm, bên cạnh xác chết có một bản án hày tội việt gian, phản động. Người cần phải thả để tuyên truyền thì cho học tập chính trị vài ngày rồi thả về để tuyên truyền và chứng minh VM sáng suốt, không giết lầm người.

Chính sách dùng “bạo lực cách mạng” và vừa đánh vừa xoa, bao giờ cũng thành công đối với đám dân ngu khu đen, mua gánh bán bưng, chân lấm tay bùn ở nông thôn.
Người dân ở Tây Ninh mà nghe đến tên Hoàng Thọ thì sợ xanh mặt, đối diện, thì rụng rời tay chân, kẻ yếu bóng vía thì són đái ra quần.

4.2. Về Hoàng Thọ

Hoàng Thọ là tay anh chị thủ lãnh băng đảng cảng Hải Phòng, dáng người vạm vỡ, vai u thịt bắp, râu quai nón. Nhà nghèo, nên từ nhỏ phải vào nương tựa cửa Phật để có hai bữa ăn. Nhà sư thấy thương thằng bé siêng năng nhanh nhẹn, nên dạy võ nghệ để sau nầy dễ bề kiếm ăn. Năm 17 tuổi, Thọ cởi trần gánh nước, trên ngực lún phún một chùm lông. Thấy vậy, nhà sư im lặng quay đi, và từ đó chỉ dạy gõ mõ tụng kinh. Thọ nản lòng, cuốn gói từ biệt nhà chùa. Nhà sư lẩm bẩm: râu rìa lông ngực là tôi phản thần”.

4.3. Thủ lãnh bọn đầu gấu cảng Hải Phòng

Thọ vào đời, xông xáo múa võ sinh nhai. Trên giang hồ Hải Phòng, Thọ nổi tiếng là tay tàn độc. Một lần, đụng độ với gả thũ lãnh bến tàu tên Luân Mặt Ngựa. Thọ hạ độc thủ. Đối thủ bị gãy chân nằm dài dưới đất, nhưng vẫn giữ phong độ thủ lãnh, giương mắt trừng trừng nhìn Thọ, có vẻ không phục hoặc hứa hẹn sẽ trả thù. Thọ đứng nhìn một hồi rồi lên tiếng: “Mẹ kiếp! Dứt điểm mầy luôn để trừ hậu hoạ”. Nói xong, Thọ quỳ xuống, giương thẳng cánh tay với thế song chỉ đoạt ngọc châu, dùng 2 ngón tay phóng mạnh vào ổ mắt của Luân Mặt Ngựa. Cặp tròng lòi ra, máu me ướt cả mặt. Thọ lấy tay chụp, ném mạnh xuống đất, rồi dùng chân chà đạp. Thọ dạng chân ra, vạch quần đái vào mặt người bại trận, trước sự chứng kiến của đám đàn em đang mặt mày tái mét, im thin thít, bất động.

Thọ thản nhiên bỏ đi. Và mấy ngày sau trở lại, nghiễm nhiên là thủ lãnh bọn đầu gấu của cảng Hải Phòng.
Khi Nhật đảo chánh Pháp, tàu Nhật cặp bến Hải Phòng. Trước sự hùng mạnh của đạo quân Thiên Hoàng, băng đảng tan rả, phân tán tứ phương.
Chớp lấy cơ hội, Hoàng Thọ xin vào hải quân Nhật, được dạy làm thợ điện.
Ngày Nhật đầu hàng Đồng Minh, tàu Nhật rút lui. Hoàng Thọ thu thập đám đàn em, quay lại nghề cũ, với cái tên mới là Thọ Mạch Lô (Tiếng Pháp Matelot là lính thủy).
Khi Việt Minh cướp chính quyền, Thọ theo đoàn quân Cứu Quốc. Từ đó, trôi giạt vào Nam, làm tay chân của tướng Nguyễn Bình.

4.4. Hung thần của Cao Đài tỉnh Tây Ninh

Cả tỉnh Tây Ninh, ai nghe đến danh Hoàng Thọ cũng đều e dè khiếp sợ. Địa bàn hoạt động của Thọ là hai quận Gò Dầu Hạ và Trảng Bàng, và mục tiêu là những chức sắc Cao Đài, những người làm việc cho Pháp và những kẻ bị kết tội Việt gian, phản động.
Người chết dưới tay của Hoàng Thọ đếm không xuể. Hành tung của Thọ vô cùng bí ẩn, thoáng hiện, thoáng biến khó lường.

Trong thời loạn lạc, bóng đêm là thế giới của ma quỷ và tội ác. Khi mặt trời vừa tắt, Thọ nương theo khí âm trở về, xuất hiện dưới một bóng dáng oai hùng lẫm liệt. Hông trái với gươm dài, hông phải súng ngắn, trang bị theo cấp chỉ huy của quân đội xứ Phù Tang. Gươm ra khỏi vỏ là phải có máu. Thọ xuất hiện như tử thần, đi đến đâu là có đổ máu đến đó. Giết người trong chớp mắt mà không nháy mắt.
Cắt cổ, chặt đầu, mổ bụng dồn trấu và cho đi mò tôm là sở trường thiện nghệ của Hoàng Thọ và của Việt Minh, trong khi thi hành mệnh lệnh của Nguyễn Bình và Trần Văn Giàu (bí thư xứ ủy Nam Kỳ, chủ tịch Ủy Ban Hành chánh Lâm thời Nam Bộ).
Khúc sông Vàm Cỏ Đông chảy qua 2 quận Trảng Bàng và Gò Dầu Hạ, là mồ chôn những nạn nhân của Việt Minh và nạn nhân của bọn thực dân Pháp.
Người dân sống hai bên bờ sông, cứ vài ngày thì thấy một “thây ma chết sình” gọi là “chà chổng” nổi lình bình trên mặt nước.
Nhìn vào vết tích của thi thể thì biết ngay thủ phạm là ai, VM hay là Tây sát hại. Tây thì trói thúc ké, đưa ra cầu Vên Vên, bắn xong hất xác xuống sông. Việt Minh thì không phí đạn, cắt cổ hay đập đầu.
Việt Minh đã tấn công vào Tòa Thánh Tây Ninh, lực lượng bảo vệ do Trịnh Minh Thế chỉ huy, bị thất bại, nên một trung đội VM đã hạ sát đàn bà, trẻ em tại các nhà dân cách Tòa Thánh 100m.

4.5. Trận đánh cuối cùng kết thúc cuộc đời binh nghiệp của Hoàng Thọ

Hoàng Thọ còn có biệt tài đánh trận. Nổi tiếng gan lì, từng gây tổn thất lớn lao cho bọn thực dân Pháp. Hoàng Thọ được trung tướng Nguyễn Bình phong chức Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn ba lẻ ba (303), thuộc khu 7, miền Đông.
Tiểu xảo phô trương lực lượng
Vào đêm tối trời. Thọ cho quân di chuyển chung quanh làng. Cũng bao nhiêu quân đó mà cứ tiếp tục đi vòng quanh làng từ đầu hôm đến sáng. Từ đầu trên xóm dưới, chó sủa suốt đêm, kết hợp với tuyên truyền, dân chúng tin rằng “Đạo quân ông Thọ” lên tới hàng ngàn người.

Trận đánh cuối cùng
Hoàng Thọ mê chuyện Tàu, khoái nhân vật Hạng Võ, chủ trương quân cần tinh, không cần đông, hành quân thần tốc, dàn quân theo thế tử chiến, phía trước là địch quân, phía sau là chướng ngại vật không còn đường rút lui, như sông ngòi chẳng hạn, buộc binh sĩ chỉ có con đường là “cầm gươm ôm súng xông tới”, tìm chiến thắng và sự sống trong cái chết.
Tiểu đoàn ba lẻ ba thường phục kích các đoàn công voa tiếp tế của Pháp theo chiến thuật như thế, và đã đạt được thắng lợi, thu hoạch được nhiều vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng. Nhiều lần lập được công lớn. Nguyễn Bình hài lòng và thương mến.
Trong đời cầm binh, Thọ chỉ thất bại có một lần duy nhất, và cũng là báo hiệu chấm dứt cuộc đời của Hoàng Thọ.

Theo chiến thuật cũ, Thọ đưa quân về Vên Vên Trà Võ, phục kích đoàn xe tiếp tế của Pháp.
Nửa đêm, quân của tiểu đoàn ba lẻ ba đào hố cá nhân, ngụy trang độn thổ. Phía sau là sông Vàm Cỏ Đông, phía trước, bên kia con lộ là rừng cao su bạt ngàn, chạy về tới Cầu Khởi, tiếp giáp với chiến khu Bời Lời.
Lúc 10 giờ sáng. Ba chiếc ôtô blindé (xe bọc sắt) mở đường vừa qua khỏi, thì đoàn công voa trờ tới. Thọ chờ cho cả đoàn xe lọt trọn vào ổ phục kích, liền nổ súng khai hỏa. Quân lính từ hố cá nhân tràn lên, giáo mác, súng mút cà tông (Mousqueton: súng trường, còn gọi là “quảnh tầm sào”, vì dài như cây sào) xung phong ào ạt, khí thế mãnh liệt như chẽ tre. Nhiều xe bị cháy, nhiều chiếc lật xuống bên kia lề đường. Quân tiểu đoàn 303 làm chủ tình thế.
Bỗng nhiên, từ trong rừng cao su trước mặt, bọn lính Lê Dương xuất hiện, tấn công mãnh liệt, vũ khí tự động như mi trai dết, tôm song (Thompson), đã đè bẹp giáo mác và “quảnh tầm sào” bắn từng phát một với hộp đạn 5 viên.
Tiểu đoàn Hoàng Thọ thất thế, không có đường rút lui, mà phía trước là hoả lực mạnh mẽ của Lê Dương, nên phải đánh cận chiến. Cảnh hỗn loạn xảy ra. Đội hình tan rả, hệ thống chỉ huy không còn, mạnh ai nấy đánh và tìm đường thoát thân. Tiếng la hét, súng liên thanh nổ dòn, những cây thịt ngã xuống. Trong cảnh hỗn loạn, không ai thấy Hoàng Thọ đâu nữa.
Mưu mô, xảo trí và nhanh nhẹn như con sóc, không ai biết Hoàng Thọ thoát thân bằng cách nào. Chuồn về mật khu Bời Lời, kiểm điểm quân số, thì dưới tay Hoàng Thọ chỉ còn lại hơn 30 mạng, và gần 120 bỏ xác tại chiến trường.
“Thói quen trong chiến thuật” đại kỵ đối với người cầm binh, không biết Hoàng Thọ có hiểu ra cái lý lẻ đó không? Chỉ có một bài bản, xử dụng tới lui, xào qua, nấu lại, thì “đi đêm có ngày gặp ma”.

4.6. Hoàng Thọ giết đảng viên Năm Chiếu

Sau thất bại chua cay, Hoàng Thọ nghi ngờ có gián điệp nằm vùng làm nội tuyến. Người mà Hoàng Thọ chiếu tướng là Lê Minh Chiếu, tự Năm Chiếu.
Năm Chiếu là tay chân thân tín của Nguyễn Bình hoạt động nội thành, thường ra vào mật khu để báo cáo và nhận chỉ thị.

Hoàng Thọ cho người phục kích bắt Năm Chiếu trên đường trở về thành, đem đến cái lều hoang giữa rẫy bắp ở ven rừng.
Thọ mình trần, ngồi trên chõng tre dõng dạc hỏi tội Năm Chiếu. Năm Chiếu mặc đồ đen, khăn rằn quấn cổ, mặt không hể đổi sắc:
- Loạn rồi! ông biết tôi là ai không mà dám nói thế?
- Mầy là thằng điềm chỉ cho Tây.
- Ông không đủ tư cách để nói câu đó! Năm Chiếu cười mỉa.
- Tao đập đầu mầy như đập một con chó phản bội, Thọ gầm lên. Nói xong, Thọ ra lệnh trói Năm Chiếu lại và dẫn đi.
Năm Chiếu quay lại nói: “Anh em có mặt ở đây xin báo cáo việc nầy lên đồng chí Nguyễn Bình”. Hoàng Thọ xô Năm Chiếu chúi nhủi về phía trước và nói: “Nguyễn Bình không cứu nổi mầy đâu”. Thọ dẫn Năm Chiếu đến cái giếng lạn ven rừng, đưa khúc gỗ đập mạnh vào ót và đạp xác xuống giếng.
Khi Hoàng Thọ trở lại lều, có người nói: “Năm Chiếu là đảng viên đó”. Thọ vung tay bất cần: “Đảng cái con buồi tao!”

Ít lâu sau đó, Hoàng Thọ được gọi về gặp Nguyễn Bình.
- Sao giết Năm Chiếu? Nguyễn Bình hỏi.
- Hắn là gián điệp cho Tây.
- Hồ đồ! Năm Chiếu là người của Đảng, chú dám tự tiện ra tay, không cần chỉ thị cấp trên. Chú đương là đối tượng được đề nghị kết nạp, nhưng vô kỷ luật không còn xứng đáng nữa!.
Thọ quen thói du côn, coi trời bằng vung, không biết sợ là gì: “Thọ nầy đi kháng chiến vì dân vì nước, không cần Đảng. Đảng chỉ là bọn bè phái bênh vực cho nhau”. Lời vừa ra khỏi miệng, Thọ biết đã lỡ lời.

Nguyễn Bình cười nhạt, đuổi Thọ ra ngoài chờ chỉ thị.
Hoàng Thọ được chỉ thị ra Trung Ương nhận công tác mới. Con cáo tinh ranh biết được đường ra Bắc là đường không có điểm đến, đó là con đường chỉ có cửa tử, mà Thọ cũng đã nhiều lần đẩy người khác trên con đường đó vào cõi chết.

Nhớ lại vụ Kiều Đắc Thắng, một hung thần đã từng thi hành những bản án “Việt Gian”, Phản Động” mà Trần Văn Giàu và Nguyễn Bình kết tội. Kiều Đắc Thắng đã ám sát ông Phan Văn Hùm tại quê của ông là Bún, Lái Thiêu vào tháng 10 năm 1945. Về sau, thấy Thắng quyền hành quá lớn, muốn vượt qua mặt Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Trấn (Bảy Trấn) nên Nguyễn Bình đã gởi Kiều Đức Thắng “ra gặp bác Hồ”. Kiều Đắc Thắng được đổi tên là Vũ Tùy Nhàn, rồi người bị giết trên đường đi là Vũ Tùy Nhàn nên không gây xôn xao trong ba quân.
Thọ rời kháng chiến, đi biệt tích, xem như cái tên Hoàng Thọ không còn tồn tại trên đời nầy nữa.

Một năm sau.
Có một người khách từ miền Bắc đến Mỹ An. Khách nói năng hoạt bác, sành đời. Khách mở một quán lá bên đường, ven bờ kinh Nguyễn Văn Tiếp, làm kế sinh nhai. Người dân Đồng Tháp Mười gọi chủ quán là ông Bắc Kỳ.

Một năm sau nữa.
Có một người khách lỡ đường, ghé quán ông Bắc Kỳ xin trọ qua đêm. Trời chiều. Con kinh chạy dài hai bên bờ dừa nước mênh mông vắng lặng. Chủ khách nói chuyện tâm đắc bên ly rượu nồng.
Khách nhận xét chủ quán, ông có phong cách của người chỉ huy quân sự, ăn nói lớp lang, rành mạch, dứt khoát rõ ràng, đâu ra đó.
Ông Bắc Kỳ cười, đáp: “Lấy hình tướng để xét thực tướng là cái sai nhất của người đời”.
Ông khách đáp: “Ở đời, thực giả lẫn lộn nhau, qua cái giả để nhận ra cái thật, qua hiện tượng để nhận ra bản chất”.
Nửa đêm hôm ấy, ông Bắc Kỳ chủ quán bị bắt đem đến kinh 12, Đồng Tháp Mười. Ông khách nửa đùa nửa thật: “Năm Chiếu ở Suối vàng gởi lời thăm Hoàng Thọ và nhắn xuống dưới chơi.”
- Mầy là ai? Ông Bắc Kỳ hỏi.
- Tôi là bạn của Năm Chiến, được chỉ thị của đồng chí Nguyễn Bình đi tìm Hoàng Thọ bấy lâu nay.
Biết cuộc đời chấm dứt, Hoàng Thọ lớn tiếng chửi Đảng, tàu xà lúp chở không hết.
Thọ bị đập đầu ngã xuống đất, cơ thể co giật như thằn lằn đứt đuôi, địt tèn tẹt, cứt già cứt non bắn ra ướt cả đáy quần.
Ông khách cho lịnh phá nát khuôn mặt Hoàng Thọ để không còn ai nhận ra được danh tánh, và Đảng đã đứng ngoài việc thanh toán cựu công thần nầy.
Chuyến đi nầy thật sự không còn Hoàng Thọ trên đời nầy nữa. Nợ máu phải trả bằng máu.

5. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bình

5.1. Tóm tắt tiểu sử
Nguyễn Bình tên thật là Nguyễn Phương Thảo, sinh năm 1906 tại xã Tịnh Tiến, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
Năm 11 tuổi về ở với người anh cả làm công chức ở Hải Phòng. Năm 17 tuổi thôi học năm thứ hai trung học, sau đó làm thủy thủ trên chiếc tàu Pélican của hảng Messagenés Maritimes chạy tuyến Sài Gòn-Marseille (Pháp). Sau đó, bỏ tàu, về sống ở Khánh Hội.

5.2. Kết nghĩa anh em với tướng cướp Sơn Vương
Phương Thảo có máu giang hồ, thích phiêu lưu mạo hiểm nên kết nghĩa anh em với nhà văn-tướng cướp Sơn Vương, Trương Văn Thoại. Tham gia vụ cướp tiền của tên Tây René Gaillard, phó giám đốc đồn điền cao su Mimot, Cam Bốt, giáp ranh với Tây Ninh, thu được số tiền 50 ngàn đồng. Phương Thảo mở tiệm giặt ủi Thảo Sơn ở ĐaKao. Sau vụ cướp, Sơn Vương bị đi tù Côn Đảo.

5.2. Nguyễn Phương Thảo gia nhập Việt Nam Quốc Dân đảng
Phương Thảo kết bạn với nhà báo Trần Huy Liệu và được Liệu móc nối vào Việt Nam Quốc Dân đảng. Sau vụ khởi nghĩa thất bại ở Yên Bái, VNQDĐ bị phân tán. Trần Huy Liệu và Nguyễn Phương Thảo bị bắt, án tù 5 năm, đày đi Côn Đảo. Trong tù, Trần Huy Liệu được tù CS móc nối nên có khuynh hướng CS. Vì thế, tù VNQDĐ lên án tử hình và cắt cổ, nhưng Trần Huy Liệu thoát chết. Phương Thảo bị móc một mắt bằng bàn chải đánh răng mài nhọn. “Bị mất con mắt trái bởi đồng đảng, nhưng Phương Thảo như sáng ra, nhận thấy việc tham gia VNQDĐ là sai lầm, chủ nghĩa tam dân chỉ là lý thuyết suông”.

Từ đó, kinh nghiệm sống dựa trên nguyên tắc “Đánh lưỡi 7 lần trước khi nói”, “động não 7 lần trước khi quyết định tham gia đảng chính trị”. Vì thế, sau khi mãn tù về Hải Phòng, Phương Thảo đã từ chối đề nghị của Trần Huy Liệu, quyết không vào đảng Cộng Sản.

5.3. Nguyễn Bình lập căn cứ chống Pháp
Năm 1936, khi mãn hạn tù, bị trục xuất về nguyên quán Hải Phòng, Phương Thảo tuyên bố ly khai VNQDĐ, đổi tên thành Nguyễn Bình và cũng quyết định không vào đảng CSVN. Nguyễn Bình lập căn cứ Đông Triều chống Pháp, uy thế gia tăng. Theo Việt Minh sau cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tháng 12 năm 1945, Hồ Chí Minh cử Nguyễn Bình vào Nam Bộ.
Năm 1948 được kết nạp vào đảng CSVN. Ngày 29-9-1951, bị Tây phục kích giết chết trên đường ra Việt Bắc.

6. Những trang nhật ký cuối cùng

Ngày 26-7-1951, khi được lịnh ra Bắc, Nguyễn Bình cùng 22 nhân viên khởi hành từ Tân Uyên qua Cam Bốt để ra Bắc. Nhật ký của Nguyễn Bình viết:
“Đi từ Sốcky đến Suối Đá, rồi từ đó đi Tà Nốt, tôi phải nằm trên xe bò vì bịnh ngày càng nặng. Bác sĩ ở Cam Bốt cho biết, phải tạm nghỉ 2 tháng nếu không muốn ngã quỵ trên đường đi. Tôi nghĩ, phải nghỉ 2 tháng, rồi đến 3 tháng mùa mưa nữa mới tới TW ở Việt Bắc thì không thể được, vì một năm không hoạt động trong tình hình kháng chiến ác liệt, nên tôi quyết định ra đi. 80% đoàn bị sốt rét, 4 chiếc xe bò chở không hết. Gạo sắp hết. Giữa đường xe bò bị gãy trục là một điềm xấu.

Ngày 21-9-1951, tất cả đều bịnh, tôi phải vào bếp nấu cơm cho cả đoàn. Hai trinh sát viên đi liên lạc có thể đã bị bắt cho nên các đồng chí ở Nackor đã không hay biết gì đến chúng tôi.

Ngày 23 tháng 9, tôi quyết định thay đổi lộ trình để tránh gặp địch. Ngày 24, không còn gì ăn. Ngày 25, 26, 27 anh em câu được vài con cá đem nấu canh me.

Ngày 29-9-1951, sáng ra, cho người đi mua khoai sắn nhưng không có.”

Trưa ngày 29-9-1951, trung tướng Nguyễn Bình bị phục kích và hy sinh. Nhật ký chấm dứt.

8. Tại sao Cộng Sản giết Nguyễn Bình

Đây là một âm mưu giết hại “công thần” cho nên được xếp vào loại tuyệt mật.

8.1. Phái đoàn Nam Bộ ra Bắc báo cáo tình hình

Năm 1948, một phái đoàn Nam Bộ do Trần Văn Trà hướng dẫn ra Bắc báo cáo tình hình kháng chiến Nam Bộ. Nguyễn Bình cử người thân tín là Lương Văn Nho tháp tùng, và căn dặn, sau khi báo cáo phải xin phép về miền Nam liền. Thế nhưng, khi Nho xin phép, thì Võ Nguyên Giáp yêu cầu ở lại làm bản “đánh giá công tác vận động giang hồ tham gia kháng chiến”. Bản đánh giá được xem như bằng chứng mà Nguyễn Bình đã xử dụng đám lưu manh, đầu trộm đuôi cướp vào cuộc kháng chiến và đã phá hoại uy tín của Đảng, tạo lý do khai trừ.
Sau khi viết xong bản đánh giá, Lương Văn Nho cũng không được về Nam Bộ, mà được cử đi học ở Liên Xô.

8.2. Thành lập lực lượng chỉ đạo kháng chiến Nam Bộ

Thay ngựa giữa dòng
Sau khi nghe Trần Văn Trà báo cáo tình hình, thì đảng thành lập ban chỉ đạo kháng chiến Nam Bộ do Lê Đức Thọ lãnh đạo với sự tham dự của tướng Lê Hiếu Mai, Minh Đạo và đầy đủ thành phần các ban bệ như tình báo, chính trị, các đoàn thể như thanh niên, phụ nữ… Lực lượng chỉ đạo nầy vào Nam thay thế Nguyễn Bình.
Đồng thời, Nguyễn Bình được triệu hồi ra Bắc. Nói cụ thể là loại trừ Nguyễn Bình, là người đã hết vai trò xử dụng. Thay ngựa giữa dòng.

8.3. Giả thuyết về những biện pháp loại trừ Nguyễn Bình

- Có ý kiến cho rằng Hồ Chí Minh chỉ muốn đưa Nguyễn Bình ra Bắc còn sống, nghĩa là không chận giết dọc đường.

- Cũng có ý kiến cho rằng Trung Ương đã mật báo cho Tây biết lộ trình của Nguyễn Bình để mượn dao giết người, ném đá giấu tay.

- Một ý kiến khác cho rằng Mao Trạch Đông yêu cầu Hồ Chí Minh cải tổ đảng, loại trừ những thành phần trước kia là đảng viên các đảng chính trị khác, như Nguyễn Bình đã từng là đảng viên VNQDĐ, lý do nầy không vững, vì Trần Huy Liệu trước kia cũng là đảng viên VNQDĐ, nhưng không bị khai trừ.
Nói chung, Nguyễn Bình đã chết dưới tay của đảng CSVN.

9. Kết

Nguyễn Bình đã giết đồng đội của mình là Ba Nhỏ, Hoàng Thọ, Kiều Đắc Thắng và tới phiên hắn, cũng bị các đồng chí Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp diệt trừ. Đó là điển hình của tình đồng chí Cộng Sản và những bản án tử hình.

Và đó cũng là truyền thống của các đảng Cộng Sản thế giới. Đứng đầu là Staline của đảng Cộng Sản ở Nga. Người mà Tố Hữu của đảng Cộng Sản VN ca ngợi và noi gương:

“Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Xích Ta Lin bất diệt!”
(Tố Hữu)

Chỉ trong 2 năm 1937 và 1938, Staline đã cho xử bắn 1,548,367 người, tính ra trung bình có 1,000 người bị giết mỗi ngày.

14 trong 15 đồng chí Bolshevik (trừ Staline ra) bị xử bắn và thủ tiêu.

3 trong 5 nguyên soái bị tử hình. 3 trong 5 Tổng tư lịnh QĐ bị tử hình. 10 Phó tư lịnh bị tử hình. 57 trong 85 tư lịnh quân đoàn bị tử hình. 110 trong 195 tư lịnh sư đoàn bị tử hình.

Ở Trung Cộng, Mao Trạch Đông đã giết những đồng chí thân cận nhất của hắn, như Bành Đức Hoài, Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu…

Cộng Sản VN thì nhẹ nhàng và kín đáo hơn. Vụ 7 tướng lãnh trong đó có tướng Đào Trọng Lịch bị chết tai nạn trong chuyến bay công tác sang Lào. Đoàn cán bộ cao cấp quân đội chết nạn trong chuyến bay thăm đảo Sơn Trà. Cái chết đột tử của 2 đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn. Hoàng Văn Hoan phải đào tẩu mới sống sót.

Khi gọi nhau bằng “đồng chí” trong các câu chuyện đối đáp nhau thì báo hiệu là sẽ có vấn đề sanh tử, và đồng chí đi liền với đồng rận. Chí và rận cùng loại như nhau.

Trúc Giang
Minnesota ngày 13-7-2012
Ai là Anh Cả Quânđội Nhânzân Xứ Lừa?

(1) Câuhỏi này tưởngchừng đơnjản, nhưng trảlời đéo zễ, kểcả với các sửviên hàngđầu Xứ Lừa.
Bởi nếu chúng nói thật, chúng sẽ thành nói zối. Các cô sẽ đéo chấpnhận any lời nói thật, thế mới là Lừa, quân búzù.
Trước tới nay, ngót một thếkỷ, jáokhoa Lừa luôn zậyzỗ các cô, rằng Anh Cả của quânđội các cô chính là anh Thốngchế (RIP anh).
Đcm còn ai khác nữa? Anh Thốngchế đẻ ra quânđội tháng 12 năm 1944. Anh đeo bao boọchoọc (bao only, không có cả súng lẫn đạn) sừngsững 1m50 trước đoànbinh 34 anh nôngzân bắnđòm, mão calô lệch trán, jơ tay lên đầulâu thềthốt hysanh xươngmáu.
Đành rằng quânđội của nhânzân Lừa đã có từ lâu trước anh Thốngchế. Quânđội chống Fáp Lợn cũng. Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học.. đều triểnkhai binhlính đánh Fáp trước Ông Cụ nhiều năm. Nhưng vì những lýzo cánhân nhỏmọn, Ông Cụ đéo chấpnhận các lựclượng đó, zù chúng cũng cùng lýtưởng (chống Fáp) với cụ củ.

(2) Khi Ông Cụ từ China lẩn về Bắc Lừa tính chuyện binhbiến 1940, thì Nguyễn Bình, Chu Văn Tấn, đều đã triểnkhai quânđội, và địnhhướng fụctòng Ông Cụ.
Nguyễn Bình nguyên là tướng caocấp trong lựclượng Quốczânquân của Nguyễn Thái Học. Nhưng zo tranhjành quyềnbính với đồngnghiệp khi boss mới tèo, Bình bị đệ của Học đâm thủng mẹ một mắt, thành Bình Chột. Việc này khiến Bình hậnthù Quốczânquân rất, và xin theo Ông Cụ.
Quânđội (lykhai Quốczânquân) của Bình hoạtđộng từ 1936, khi anh Thốngchế còn đang làm mậtthám, mang-tên Bìnhthiênquân, rất janghồ hunghãn, đánh Fáp nhanh như rửa đít.
Chấpnhận theo Ông Cụ, Bình bị cụ củ buộc đổi tên Bìnhthiênquân thành Vệquốcđoàn, đồngthời vác toànbộ 3,000 chiếnbinh Vệquốcđoàn đấy nhập lựclượng anh Thốngchế, vốn kém Bình rất xa cả về tàinăng, bảnlãnh, thựclực, và kinhnghiệm, với vỏnvẹn ba chục anh bộđội thối mồm đéo anh nào biết bóp-cò súng mútcơtông.
Việc này khiến Bình cáukỉnh bứcxúc, và bỏ vào Nambộ theo lãnhtụ Ba Zuẩn.
Tại chiếntrường Nambộ, Bình khinh luôn anh Ba Zuẩn, và bị anh này đập chết tươi.
Khi chết, Bình đang đeo hàm trungtướng bộđội Ông Cụ (trungtướng zuynhất 194x, không có thượngtướng), nghĩa là chứcvụ chỉ sau anh Thốngchế (đạitướng) trong Quânđội Nhânzân, trên cả các anh Nguyễn Sơn (cựu-tướng của anh Mao China), Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái, Trần Đại Nghĩa, etc. Anh Nguyễn Chí Thanh năm nẳm thậmchí còn chưa thành bộđội.

(3) Chu Văn Tấn nguyên là tướng thổphỉ miền fùzung anhtúc, lẫylừng một thuở. Tấn thậmchí có quânđội chống Fáp riêng trước cả Nguyễn Bình, vào quãng 1934. Bộđội của Tấn đánh Fáp nhanh như rửa đít cũng, tên là Cứuquốcquân.
Khi Ông Cụ thufục được Tấn 194x (x
Việc này khiến Tấn điênkhùng và zọa lykhai Việtminh. Ông Cụ xoazịu Tấn bằng cách hứa tặng Tấn chức bộtrưởng quốcphòng tươnglai. Ông Cụ buộc fải hứa, vì Cứuquốcquân của Tấn chính là vệbinh ngựlâm bảovệ cụ củ trước vụ cướp chínhquyền 1945. Không có chúng, cụ củ chết chắc đừng lèonhèo. Mà cụ củ năm nẳm (1940-1941) nếu không vuốtve Tấn cẩnthận thì Tấn cũng đập chết ăn thịt luôn, bởi anh ý là toọc.
Và Cứuquốcquân của Tấn (với Kiên) mới chính là quânđội cáchmạng đầutiên zưới triềuđại Ông Cụ, chứ đéo phải Giảiphóngquân của anh Thốngchế, thànhlập tháng 12 năm 1944.
Ông Cụ sau đã jữ lời hứa với Tấn, nghiêmtúc fết. Tấn chính là bộtrưởng quốcphòng đầutiên của Lừa cộngsản. Anh Thốngchế bị tống sang bộ nộivụ.
Việc này khiến anh Thốngchế caycú rất, nhưng anh ý đéo zám bật. Suy cho cùng, Tấn cũng lại là hạng vượt rất xa anh Thốngchế cả về tàinăng, bảnlãnh, thựclực, và kinhnghiệm.

(4) Phùng Chí Kiên mới là nhânvật quantrọng nhất của loạt cồng này đcm thế mới tài. Anh ý làm đảolộn mẹ câu trảlời cho câuhỏi Zì đã đặt từ cồng đầu.
Trong đám đệ Ông Cụ, Kiên thuộc hàng râmran giàhói, tấtnhiên không tính bọn Thắng Đần aka Tôn Đức Thắng (1888), Bùi Tồ aka Bùi Bằng Đoàn (1889), và các thểloại búpbê ngộnghĩnh khác. Đám này chưa baogiờ nhận là đệ Ông Cụ. Ông Cụ cũng đéo chấpnhận các anh ý làm đệ. Các anh ý gọi Ông Cụ bằng Cụ chứ đéo gọi bằng Bác. Đó hầunhư là một sỉnhục.
Kiên (1901) chỉ kém tuổi Hồ Tùng Mậu (1896), nhưng hơn tuổi cả những anh được coi là bôlão côngthần bậusậu như Lê Hồng Phong aka Phong Bần (1902), Nguyễn Lương Bằng aka Anh Cả Đỏ (1904), Trần Phú aka Chú Lé (1904).
Ông Cụ fongcách jatrưởng bầnnông trungkỳ nhỏmọn, chỉ khoái bọn tintin nonnớt, chứ đéo ưa bọn jàhói. Đệ thântín của Ông Cụ chỉ có Phạm Văn Đồng aka Đồng Vều (1906) là jà nhất hiếmhoi. Anh Kiên kém Ông Cụ tận chục tuổi, mà vẫn bị cụ củ coi là quá jànua nhănnhúm.
Ông Cụ rất sợ bọn đệtử jàhói sẽ tinhtướng ngôngnghênh gànbướng mà ảnhhưởng côngnghiệp cụ củ. Nên anh Kiên cũng như anh Phong, anh Phú, anh Mậu, chắcchắn sẽ bị cụ củ mượn tay Fáp Lợn tỉn chết sớmsủa. Anh Bằng quá hãm và nhát, đéo tính.
Cụ củ sẽ chỉ tuyểnzụng những nhiđồng ngoanngoãn bảo sao nghe vậy, tầmcỡ anh Thốngchế (1912), anh Lê Quảng Ba (1914), thậmchí anh Phùng Thế Tài (1920). Thậntrọng vậy mà cụ củ vẫn bị anh Ba Zuẩn (1907) đập chết ăn thịt, thế mới cún.
Đây là thuật zùng-người truyềnthống của các lãnhtụ tàinăng hạnchế. Vì kém-tài, các anh ý cần trauzồi một fongđộ bềtrên kẻcả, lấy thâmniên tuổitác làm uytín chánhtrị, Lừa kêu là Đức (đứcđộ) và Thần (thầnthái).
Ông Cụ jàzặn hơn bọn đệ ruột đến 20 năm, mà vẫn nuôi râu bờmxơm quá ngực, bận áo cánh bàba, xỏ chân guốc lộccộc, đéo cưới phunhân, đéo nhận nhiđồng, nhằm thêm fần chachú.
Ông Cụ không là lãnhtụ Lừa đầutiên thựchành chiếnlược đó. Lê Lợi đã từng, rồi Trần Thủ Độ, Nguyễn Nhạc (anh ruột Hồ Thơm), vài anh nữa. Các anh ý có điểm chung: đều là bậc khaiquốc, chẳng được truyền ngôi.
Anh khaiquốc nào tinzùng bọn đệ jàhói ngangfân thường bị chúng đập chết ăn thịt luôn, như Lê Hoàn, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh. Anh Lê Lợi cũng suýt tiêutòng với vụ zùng anh Nguyễn Trãi, nhưng maymắn kịp sửa sai.
Anh Kiên được chính các lãnhtụ Sô Liên lẫn China bảolãnh và tiếncử. Về mứcđộ trungthành với lýtưởng cộngsản, anh ý là số 1, từng thamgia cả hồngquân Sô Liên lẫn hồngquân China Mẹ, đóng sĩquan caocấp, và zứtkhoát đéo đầuhàng bọn Nhật, bọn Fáp, và cả bọn Tàu Tưởng.
Các cô thấy, lãnhtụ cần đéo jì các cô trungthành với lýtưởng? Lãnhtụ chỉ cần các cô trungthành với chính lãnhtụ.
Các cô nghĩ các cô cứ lýtưởng lýtưởng lýtưởng thì được thăngtiến nên côngtrạng hoànhtráng à? Ngu đéo jì ngu thế hehe. Anh Kiên là một người như vậy.
PS. Sorry ở một cồng fía trên Zì ghi nhầm năm anh Thốngchế thànhlập Giảiphóngquân là 1941. Đínhchính fát cho hànlâm nhẻ.

(5) Kiên Phùng tuy bầnnông trungkỳ nhưng họchành khá chỉnchu chuyênnghiệp. Anh ý từng học trường sĩquan lụcquân Hoàngphố lừngzanh bên Mẹ China, sưfụ của anh tuyền caothủ gộc: thốngchế Tưởng (Giới Thạch), chuẩntướng Diệp (Kiếm Anh), chínhủy Chu (Ân Lai), cùng nhiều anhem quanlại Sô Liên khác nữa.
Kiên học bộbinh là chính, nhưng thựchành cả fáobinh và cơjới. Trần Canh, một đồngchí Khựa được Ông Cụ coi như "thánh cốvấn lụcquân", tổng chỉhuy chiếnzịch Điện Biên Phủ, chính là một bạn đồnghọc của Kiên. Anh Lê Hồng Phong, tìnhđịch Ông Cụ, cọcchèo của anh Thốngchế, cũng đồnghọc Kiên luôn.
Học xong trường Hoàngphố, Kiên thamja bộđội anh Mao tấncông luôn thày của mình aka anh Tưởng, thành một trungđoàn-trưởng. Anh đánh vài trận, có thua có thắng, rồi được tuyển vào đảng Mao China (hệt các anh Lê Hồng Phong, Nguyễn Sơn, etc), rồi sang Sô Liên thụjáo các đạica vôsản trong Đôngfương Họcviện và vài trường khác. Tại Sô Liên, anh học tiếp ngành tácchiến lụcquân và học thêm ngành chuyênchính vôsản, trongkhi anh Phong học lái tàubay.
Đầu 1940, Kiên chính là tưlệnh (commander) của Ông Cụ. Anh zắt Ông Cụ bươnchải khắp China qua Bắc Lừa sang Hạ Lào, vào hang rồi lên núi, lội suối rồi leo cây, cỡi ngựa rồi săn gái (mama anh Mạnh sinh anh trúng zịp này nha), everything everywhere.
Không có Kiên thì Ông Cụ bốc cứt nhai vã và đếm jun jải khuây hàng ngày. Kiên màymò tổchức một trungđội toọc liềumạng, lúc nào cũng lận đầy thủfáo trong bụng, loanhquanh hầuhạ Ông Cụ.
Saukhi anh Hoàng Văn Thụ thufục được Cứuquốcquân của anh Chu Văn Tấn, Ông Cụ bắt Tấn và tậpđoàn anhem Cứuquốcquân fụctòng Kiên mọi nhẽ. Tấn cũng được fâncông làm fótướng cho Kiên. Tấn khá cáukỉnh, nhưng Ông Cụ cũng zànxếp okay.
Đúng lúc này, anh Thốngchế thôi hợptác với phòng-nhì Deuxième Bureau, chínhthức theo Ông Cụ. Đươngnhiên anh ý fải làm fótướng cho Kiên, như anh Tấn Toọc.
Rõràng, xét trên mọi khíacạnh, thì Kiên Phùng chính là thốngsoái đầutiên của bộđội Ông Cụ.
Nhưng đéo hiểu sao Ông Cụ không tin Kiên. Cụ củ zùng Kiên như zùng chó săn. Nhẽ cụ củ nghi Kiên trungthành với quốctế cộngsản (với Linh Sôliên, với Mao China) hơn với mình?
Đươngnhiên, đến một mùa nhạtmáu, chó săn fải thăngthiên. Kiên trong liền 3 ngày zính liền 3 trận fụckích của bộđội Fáp, mộtcách ngẫunhiên bíhiểm. Kiên đéo chống được, bị tóm sống, và bị chặt mẹ đầulâu.
Hơn 3 năm sau, anh Thốngchế và Ông Cụ lọmọ thànhlập một đạobinh khác, cuối 1944. Ông Cụ khăngkhăng, đó mới là quânđội nhânzân đầutiên.
Sảnfẩm của Ông Cụ, cụ củ đặt tên đéo nào chả được? Cụ củ ban côngzanh cho anh Thốngchế, thì anh ý được hưởng mưamóc. Kiên Phùng đéo maymắn, đến mạng cũng đéo còn, fải chịu trầnjan quênlãng thôi.
Nhưng mọi chuyện đéo zừng ở đấy.

(6)
Thảoluận chútđỉnh zịkhảo nha, trước khi theozõi tiếp vụ anh Phùng Chí Kiên.
Anh Thốngchế theo cáchmạng Ông Cụ rất muộn. Mãi cuối 1940 anh ý mới bám chân anh Phạm Văn Đồng aka Đồng Vều bỏ Hanoi lên chiếnkhu mò Ông Cụ. Cũng trong năm nẳm, chị Quang Thái vợ anh bị bọn Fáp Lợn tóm và tống jam, gòi tèo.
Năm nẳm anh Thốngchế đã trungniên, tròmtrèm tamthập, đang làm jáovụ tại một trường tiểuhọc nộithành Hanoi, thuộc sởhữu của anh Hoàng Minh Giám, một thanhniên tâyhọc tiếngtăm.
Jáokhoa Lừa chép anh Thốngchế làm jáosư (môn lịchsử) trường trưởng. Chả có jáosư jáosãi nào đâu. Fịa đấy. Vụ này anh Giám đã vài lần thanhminh, nhưng không zám côngbố rộngrãi.
Hãy so tuổi theo cáchmạng của các côngthần Ông Cụ như anh Đồng Vều (20), Trường Chinh aka Chinh Khu (22), Lê Duẩn aka Ba Zuẩn (22), Lê Đức Thọ aka Sáu Búa (19), Phạm Hùng (18), Trần Quốc Hoàn (18), Chu Huy Mân (17), Nguyễn Chí Thanh (23), Nguyễn Lương Bằng (25), Hoàng Quốc Việt (24), thậmchí các vàngson Quang Thái (15), Minh Khai (20), Thị Thập (23), etc, thì thấy anh Thốngchế không yêu Ông Cụ sớm, nếu không muốn nói là hehe quá muộn, theo fongcách "trở-cờ". Đời cáchmạng anh chỉ tươngđương các anh Xuân Thủy (30), Lê Trọng Tấn (30), không khác mấy các anh Trần Đại Nghĩa (33), Hoàng Minh Giám (41), Nguyễn Bình (40), aka đám "trở-cờ" kinhđiển.
Như vậy, các cô thấy, ngay trong đảng mình, anh Thốngchế chưa baojờ được coi là bậc tiềnbối. Những bộđội thuộccấp của anh như Hoàng Văn Thái (23 @1938), Lê Thiết Hùng (22 @1930), Lê Hiến Mai (22 @1940), Hoàng Sâm (18 @1933), Văn Tiến Dũng (20 @1937), đều tiềnbối hơn anh nhiều boong, cả về thâmniên, lẫn thờiđiểm, lẫn tuổi thamja cáchmạng.
Vì nhẽ đó, anh Thốngchế rất hay bị thuộccấp bật như tôm, chưởi đù mẹ đù cha là thường. Nhưng anh cũng chẳng để-bụng thậmchí chẳng fànnàn. Đó hầunhư là một ưuđiểm, và được nhiều chiếnbinh lìutìu thánfục. Chúng nể anh ở chữ Nhẫn.
Anh Sáu Búa khi họp lãnhtụ chỉ gọi anh là Anh Văn, chả baojờ gọi anh bằng chứczanh mà anh khoái: đạitướng tổngtưlệnh. Anh cũng chẳng fiền.
Đáng tiếc, chữ Nhẫn không thể là fẩmchất của bậc zanhtướng. Anh Thốngchế, RIP anh, nhưng anh có hiểu điều đó không?

(7) Tiếptục thảoluận chút zịkhảo trước khi theozõi tiếp vụ anh Phùng Chí Kiên.
Cuối 1944, Ông Cụ chỉđạo anh Thốngchế cùng anh Hoàng Văn Thái thànhlập Đội Vietnam Tuyêntruyền Giảiphóng.
Ngay cách đặt tên mớimẻ này (so với Cứuquốcquân, Vệquốcđoàn hàonhoáng trước đấy), cùng với việc jao tráchnhiệm cho anh Thốngchế nontơ chả kinhnghiệm chiếntranh mẹ, đã cho thấy Ông Cụ đéo tintưởng lắm vào thànhcông của cáchmạng, cũng đéo tintưởng những tay võbiền khoái đụngđộ đâmchém như Kiên Phùng.
Ông Cụ chỉ zám gọi lựclượng vệbinh mới của mình là Đội (Team), và cẩnthận thêm chữ Tuyêntruyền (Propaganda) vào trước chữ Giảiphóng (Liberation), hàmý, lựclượng này chỉ làm nhiệmvụ tuyêntruyền là chính, và quymô nhonhỏ xinhxinh thôi.
Biênchế Đội của anh Thốngchế cũng khiêmtốn hơn Quân của anh Kiên anh Tấn nhiều boong, vỏnvẹn 34 chiếnbinh toọc, aka 3 tiểuđội. Các anh cũng đéo trangbị võkhí. Súng boọchoọc anh Thốngchế đeo bên sườn chỉ có vỏ chứ không có ruột. Anh Thái thậmchí chỉ đeo gươm. Các anh ý cần đéo jì đến súng fỏng. Các anh khác cũng.
Jảzụ Ông Cụ không thànhcông lần nữa, năm 1945 đéo cướp được chánhfủ của anh Trần Trọng Kim, thì anh Thốngchế cũng lên đường theo anh Kiên thôi. Ông Cụ tàihoa vụ này nhất. Và đươngnhiên một quânđội khác sẽ được thànhlập, với những biênchế mới, nhiệmvụ mới, chiếnlược mới.

(8) Kếtthúc vụ anh Phùng Chí Kiên nhẻ.
Anh Kiên bị bọn Fáp chặt đầulâu, Cứuquốcquân tantành, anh Chu Văn Tấn lánh mẹ sang Choang Khựa. Ông Cụ sai anh Thốngchế lập quânđội mới, 3 tiểuđội toọc chân trần mắt xếch tuổi 18-20.
Anh Thốngchế rốtcuộc thànhcông, anh Tấn thì kịpthời zây-máu-ăn-fần bởi lời hứa vộivàng của Ông Cụ. Nhưng anh Kiên Phùng hoàntoàn bị quênlãng.
Nếu Zì không kể lại trong loạt cồng này, Zì đoanchắc 50% số văncông ở đây đéo biết anh Kiên là ai, thậmchí chưa baojờ nghe tên anh. Jáokhoa của đảng không nhắc anh một lần nào. Anh thậmchí đéo lừngzanh bằng Nông Zền, Lê Tám, hay Văn Đàn, Đình Jót, Bá Ngọc, Viết Xuân, những huyềnthoại vănchương thuầntúy. Các đồngđội anh, hàng trăm chú toọc bị bổ gươm jữa gáy hoặc buộc thép thả sông, không một ai được ghicông liệtsĩ. Về các anh, chỉ còn lại nhõn hùngca Bắc Sơn của thợ-nhạc Văn Cao.
Hanoi có fố Phùng Chí Kiên, nhưng 99% cưzân nơi đó đéo biết Kiên là gã chăn trâu bỏmẹ nào.
Zì đôibận nghĩ lẩnthẩn rằng, nhẽ Ông Cụ sợ anh Kiên Phùng bẻmmép vụ mama anh Mạnh, nên quyết xóa sạch anh ý, hay chăng? Jảthiết thôi, nhưng cũng không hẳn không cólý.
Mãi 199x, anh Kiên Phùng mới được truytặng Huânchương Chiếncông Hạng Ba, còn kém papa Zì một hạng, kém đạitá Tai Vuông hai hạng. Cả hai anh bộđội vănfòng này đéo có chiếncông cặc nào, thậmchí suốt đời binhnghiệp các anh đéo bóp-cò súng-lục nhát nào. Tên fố Hanoi cho Kiên Phùng cũng xuấthiện sau những năm đó.
Tận 200x, cách nay tầm chục năm, bỗngzưng some lãnhtụ nhớ ra Kiên, và chúng quyếtđịnh fong cho anh hàm tướng.
Thật hàihước, chúng đéo nói rõ hàm tướng của Kiên Phùng là mấy sao. Năm sao nhẽ nhiều quá, mà bốn sao thì hóa ra công của anh còn thua công anh Thốngchế à?
Nhưng điều hàihước hơn, và khôngthể không khiến các cô cười sặc-sằng-sặc, là việc Kiên Phùng đang là người zuynhất trầnjan đeo lon sĩquan caocấp của một quânđội thànhlập sau khi anh chết.
Zì sẽ không ngạcnhiên, nếu vài năm nữa lãnhtụ các cô sẽ fong anh Trần Hưng Đạo hàm trungtá, hoặc anh Lý Thường Kiệt hàm đạiúy, của quânđội nhânzân các cô. Các anh ý cũng chết trước khi anh Thốngchế khaisinh quânlực, ychang Kiên Phùng bạcmệnh, đó thôi?

Xem thêm: Nửa thế kỷ một mối tình dang dở với tướng Nguyễn Bình:
http://d.violet.vn/uploads/previews/161/1524302/preview.swf


----------------------------------------------------

27.10.2013

SƠ BỘ ĐÁNH GIÁ THÔNG TIN HAI LUỒNG

Ba tuần lễ qua, tôi tự cuốn hút vào không khí quốc tang tướng Giáp.
Dịp này tôi đọc được nhiều tài liệu dồn dập về cuộc đời binh nghiệp và chính trị của tướng Giáp và nhiều bài bình luận trên báo chí ở cả hai bên “lề”.

 Báo chí nhà nước thì khỏi bàn nhiều, ngôn từ giọng điệu giống nhau như trứng gà trứng vịt, như đúc khuôn, nói những điều ai cũng biết, biết từ lâu. Mỗi khi trích dẫn báo chí nước ngoài, đài báo nước ta chỉ cắt chọn lấy những lời khen ngợi. Tuy vậy có một số tờ báo nhà nước tranh thủ không khí quốc tang bi thương, bật ra cái ấm ức của mình như Sài Gòn tiếp thị, Dân trí

 Báo chí tự do (trên mạng) thì phong phú hơn hẳn. Những bài viết của nhiều người cùng mối quan tâm đến số phận tướng Giáp và thời cuộc. Những bài viết dài ngắn khác nhau với phong cách đa dạng, bộc lộ được suy nghĩ độc lập tự chủ, tuy có sai có đúng (bỏ qua những lời phỉ báng bừa bãi). Nhiều bài viết với suy tư nghiêm túc, tránh cảm tính, lật đi lật lại vấn đề, không nghĩ theo một chiều.

 Gần đây nhất, tôi đọc được bài viết và biên dịch “Vài suy nghĩ nhân đọc bài Tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp của Tonneson (2 kỳ) của tác giả Anh Vũ thông tin về một cuộc gặp gỡ độc đáo của hai vị tướng đối đầu trong chiến tranh Việt Nam (1954-1975) – Võ Nguyên Giáp và Mc Namara của nhà báo Na uy. Bài viết giúp bạn đọc nhìn thấy chân dung Tướng Giáp rõ hơn một chút. Trong cuộc trò chuyện đó, với tướng Giáp thì chiến tranh chưa chấm hết, lòng ông vẫn bừng bừng lửa đốt, ngồi đối diện uống trà với tướng Mc Namara ở Hà Nội mà hùng hồn gay gắt như đối mặt giữa chiến tranh.

Cảm ơn thời đại internet tự do dân chủ tự phát (dù chỉ mới được “tự do dân chủ một nửa”, bởi báo chí nhà nước tuy không đăng các bài viết trái ý nhưng cũng để mặc người ta tự  thông tin và bàn luận).
 Bây giờ tôi đã bình tĩnh hơn.

 THƯƠNG TIẾC
  Nhớ lại câu thơ Xuân Diệu:
Yêu với căm hai đợt sóng ào ào
Vỗ bên lòng dội mãi tới trăng sao”.
 Yêu ai, ghét ai – hẳn bạn đọc đều biết rồi, tưởng không cần nói rõ.
 Có ý kiến cho rằng những giọt lệ tiếc thương tướng Giáp có ít độ mặn hơn nước mắt căm ghét đám đồng chí xấu làm hại ông.
 Biết bao cảm nghĩ và những lời bàn nghiêm túc trên công luận cả hai “lề” phần lớn đều có điệp từ “thương tiếc”.
“Thương tiếc” là một tổ hợp hai cảm xúc khác nhau tuỳ theo thực tế và quan niệm khác nhau, nhưng có nét bản chất chung:
 Thương một người tử tế mà sống phải chịu vất vả, khổ đau, thiệt thòi, oan ức hoặc buồn thương khi người tử biệt sinh ly.
 Tiếc một người chết trẻ, giá như người ấy còn sống thì còn hữu ích cho đời hơn nữa. Tiếc là một cảm giác bị mất mát (như tiếc của, tiếc rẻ).
 Rút cục thì nhân dân THƯƠNG hay TIẾC, hay là gồm cả TIẾC THƯƠNG trong và sau Lễ quốc tang?

 Một bạn đọc ghi bút danh “Quảng Nam” phản hồi sau khi đọc bài viết của ông Hạ Đình Nguyên (Về Tướng Giáp: lịch sử và hôm nay) đăng lại trên blog (giangnamlangtu.wordpress.), tôi xin trích hai câu:
 Xin hỏi anh Nguyên: Nếu không bị bạc đãi thì cụ Giáp có giúp cho VN thoát khỏi thân phận hiện nay không?
 Nếu không có viêc thanh trừng “từ trong trứng” những tinh hoa ưu tú của dân tộc thời “trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ” mà chính cụ Giáp là cây đa cây đề khi triệt tiêu đối lập không theo Việt Minh với bao nhiêu oan khốc, mà nếu thống kê được chắc cũng ghê rợn vô cùng! Mạnh Tây Tây giết, mạnh Việt Minh Việt Minh thủ tiêu”.

 Một câu hỏi thực bất ngờ ít người nghĩ tới suốt gần ba tuần qua. Người hỏi đã biết câu trả lời thoả đáng rồi.
 Tôi ngớ người ra, trí tuệ tỉnh táo trong dân gian có nhiều lắm.

Thực vậy, trả lời câu hỏi trên của bạn đọc QN không khó. Nếu tướng Giáp không bị “đồng chí” đố kỵ, hãm hại, có thể ông được bầu làm Chủ tịch nước hay Tổng bí thư trong Đại hội VI. Và nếu thế, ông có thể làm được gì để cứu vận nước nhà ?

 Chắc hẳn, ông vẫn “đi theo con đường Bác Hồ đã chọn” như trước sau ông từng nói với thế hệ trẻ, với mọi người như thế (Có lẽ tôi không cần phải trích dẫn nguồn tài liệu mà tướng Giáp đã từng nói viết không ít về lý tưởng của mình, vì đã được in sách, đăng báo, đọc trên đài rất nhiều lần).

 Có thể, với bản lĩnh văn hoá, ông không sa vào “nhóm lợi ích” nào hết, không tham nhũng, nhưng ông sẽ là thiểu số nên không thể khắc phục được “lỗi hệ thống”. Một mình ông dù có thêm cả một số đồng chí tâm huyết nữa (chỉ là thuộc cấp của ông) cũng không thể ngăn cản tình trạng suy thoái toàn diện như ngày nay. Nhưng thôi, người xưa đã nói “Mãnh hổ nan địch quần hồ”. Ít ra ông cũng có hai cố gắng nhỏ cuối đời:  Ngăn cản việc bán bauxite Tây Nguyên cho ngoại quốc và Tự chọn nơi an nghỉ cuối cùng cho mình.

 Và, rồi sao nữa, chỉ thế thôi sao ?

Bản chất nước mắt dành cho Tướng Giáp là thương hay tiếc, hay là gồm cả tiéc thương, hẳn không cần phải bàn thêm nữa.

 Nhà văn Dạ Ngân viết tuỳ bút về tiếng khóc trong quốc tang “chắc là trên hết, người ta khóc cho chính mình, cho sự bế tắc của chính mình”.

 Nhưng thôi, chúng ta cũng không thể đòi hỏi quá nhiều vào nước mắt.

 Theo báo Dân trí, từ khi an táng Đại tướng đến nay, trung bình mỗi ngày có khoảng 1.000 người khắp mọi miền tổ quốc đến thăm viếng Đại tướng, đặc biệt những ngày nghỉ cuối tuần lượng người đến viếng rất đông, có ngày lên đến hơn 4.000 người (thông tin này bác bỏ quan điểm của vài nhà phân tích trước đây rằng người ta đến viếng tướng Giáp ở nhà số 30 vì tò mò muốn xem ngôi biệt thự ra sao).

 Có điều này là chắc chắn, nhiều bài báo đã thống nhất khẳng định rằng, cuộc ra đi của tướng Giáp là dịp khiến cả dân tộc tỉnh dậy và nhận thức mọi việc nghiêm túc hơn, tỉnh táo hơn.
 GNLT


No comments:

Post a Comment

View My Stats