Sunday,
September 1, 2013
Xin giới thiệu các bạn một cuộc trò chuyện với phóng
viên trên Sài Gòn Tiếp Thị nhân ngày 2/9/1945. Bài phỏng vấn này được phóng
viên biến thành một bài viết dưới tựa đề “Tự vấn, tự trọng, tự do, tự đổi mới”.
Vì không đủ “đất” nên một số đoạn phải cắt bỏ trên báo. Thời đại internet có
cái hay là độc giả có thể đọc nguyên bản (dưới đây) bên cạnh bản in, và có thể
rút ra vài nhận xét.
http://sgtt.vn/goc-nhin/182783/tu-van-tu-trong-tu-do-tu-doi-moi.html
http://sgtt.vn/goc-nhin/182783/tu-van-tu-trong-tu-do-tu-doi-moi.html
NVT
*
SGTT:
Thưa GS, cảm xúc của GS thế nào khi nghĩ về ngày độc lập 2/9 của đất nước?
NVT: Tôi nhìn ngày 2/9/1945 như là một ngày Việt Nam giành quyền độc lập, không còn lệ thuộc ngoại bang. Có lẽ ấn tượng nhất với tôi là bản tuyên ngôn độc lập do cụ Hồ Chí Minh đọc và trích từ câu đầu trong bản tuyên ngôn độc lập của Mĩ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Đó là những câu phát ngôn rất đẹp và lí tưởng. Do đó, có thể nói rằng ngày 2/9 mở đầu cho một lí tưởng nhân văn và cao đẹp cho Việt Nam. Còn những gì xảy ra sau đó thì cần phải bàn thêm.
SGTT: Ngày Độc lập có gắn với kỷ niệm nào của Giáo sư không?
NVT: Tôi sinh sau ngày 2/9/1945 và ở trong Nam nên không có kỉ niệm nào với ngày đó cả. Tuy nhiên, Ba tôi lúc sinh tiền thì nhắc đến ngày này như là một bước ngoặc trong đời.
SGTT: Chúng ta có độc lập gần 70 năm qua, nhưng về mặt phát triển chúng ta vẫn lệ thuộc nhiều thứ của nước ngoài. (Đơn cử, trong lĩnh vực y tế, mỗi năm dân ta phải mất rất nhiều tiền để đi các nước chữa bệnh). GS chia sẻ gì về câu chuyện này?
NVT: Thật ra, hầu như bất cứ lĩnh vực nào liên quan đến khoa học, công nghệ, kĩ thuật, chúng ta đều phụ thuộc vào nước ngoài. Nhìn chung, nhiều kĩ nghệ ở Việt Nam chủ yếu là gia công, chứ không phải thực sự sản xuất và cũng không có nghiên cứu khoa học. Chúng ta còn lệ thuộc nước ngoài về khoa học. Khoảng 80% các công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam là do hợp tác với hay qua hỗ trợ từ nước ngoài.
Tôi nghĩ rằng trình độ của chúng ta (người Việt) chưa theo kịp với những vấn đề mà phát triển kinh tế - xã hội đặt ra. Điểm xuất phát của chúng ta là một nền văn minh và văn hóa nông nghiệp, và khi trong quá trình hội nhập thế giới được định hình bởi nền văn minh công nghiệp, thì nảy sinh rất nhiều vấn đề. Có nhiều sự chênh lệch giữa nhu cầu phát triển đặt ra và khả năng đáp ứng của nội lực Việt Nam. Điều này có thể giải thích tại sao các công trình xây dựng, công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam không đạt chất lượng cao.
Ngoài ra, sự phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam còn thiếu tính đồng bộ và thiếu tính hệ thống. Đây đó chúng ta có những chuyên gia có thực tài, nhưng nhìn chung họ chỉ là những cá nhân đơn lẻ, không đủ để định hình một nền khoa học. Ví dụ như Việt Nam có những bác sĩ phẫu thuật không thua kém gì so với Singapore, nhưng chúng ta không có một hệ thống hỗ trợ hậu phẫu để lấy được niềm tin tưởng của bệnh nhân. Có thể chúng ta chỉ giỏi về kĩ thuật, mà kĩ thuật thì chỉ là một khâu trong nhiều khâu quan trọng. Chính vì thế mà một số bệnh nhân chưa cảm thấy an tâm và tin tưởng vào hệ thống y tế của Việt Nam.
SGTT: Khi giành độc lập, VN là một khối thống nhất, triệu con tim một ý chí quật cường? GS có thể giải mã gì về hiện tượng này dưới con mắt của một nhà nghiên cứu?
NVT: Tôi nhớ đến câu “Mùa thu rồi ngày 23 / ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến”. Đó lời hiệu triệu chống ngoại xâm. Do đó, tôi nghĩ bởi đơn giản là lúc đó ai cũng muốn đánh đuổi ngoại xâm để có được độc lập, tự do, và bình đẳng. Người Việt Nam có thể bất đồng với nhau về nhiều vấn đề, nhưng rất đồng lòng trong việc đánh đuổi ngoại xâm. Ngày nay cũng thế, khi có đe dọa hay nguy cơ từ ngoại xâm thì người dân đồng loạt đứng lên.
Nhưng lịch sử cũng chỉ ra rằng trong thời bình người Việt Nam không đoàn kết như trong thời chiến tranh chống ngoại xâm. Đất nước đã thống nhất gần 40 năm, nhưng lòng người hình như chưa thống nhất. Bất công xã hội ngày càng nhân rộng. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng rộng hơn. Người Việt trong và ngoài nước chưa thật sự đồng lòng. Tất cả những yếu tố đó chỉ làm suy yếu cộng đồng dân tộc, và làm cho Việt Nam chưa phát triển đúng với tiềm năng của dân tộc.
SGTT: Theo GS, vì sao một dân tộc từng ngẩn cao đầu trong những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để giữ nước, nhưng lại là một dân tộc quẩn quanh với mệt nhoài ở những chặng hoà bình tìm kế bứt phá vươn lên?
NVT: Trong lịch sử cận đại, chưa bao giờ nước ta có một thời gian hoà bình lâu dài như hiện nay. Thế mà cho đến nay, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia nghèo, có thời gian nằm trong nhóm các nước nghèo nhất thế giới. Câu hỏi đặt ra là tại sao, và đã có nhiều câu trả lời cũng như cách tiếp cận câu hỏi đó. Tôi nghĩ lí do gần mà chúng ta có thể nhận ra được là chúng ta đã dành quá nhiều sức lực và tài nguyên cho chiến tranh. Đối với các nước lớn, chiến tranh là một cuộc chơi, hay thậm chí là một thương vụ; nếu không có lợi thì họ rút lui, họ không mấy quan tâm đến thắng hay thua theo nghĩa kinh điển. Nhưng đối với nước nghèo như Việt Nam thì khi chiến tranh xảy ra là dốc toàn lực toàn tâm để giành thắng lợi. Trong cuộc chiến vừa qua, có trên 50 ngàn quân nhân Mĩ tử vong, nhưng Việt Nam thì trên 2 triệu người tử vong. Sau hơn 20 năm chiến tranh thì xã hội có dấu hiệu mệt mỏi cũng là điều không khó hiểu.
Nhưng tại sao có những nước, như Hàn Quốc và Nhật, họ lại vươn lên rất nhanh sau chiến tranh, còn Việt Nam thì vẫn còn nghèo. Có ba giả thuyết chính được đề ra để giải thích sự khác biệt về mức độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các quốc gia trên thế giới: địa lí / khí hậu, văn hóa, và thể chế. Có học giả (như Montesquieu chẳng hạn) cho rằng ở những nước nhiệt đới người dân thiếu óc tò mò, hay bị mệt mỏi, dễ mắc bệnh, và năng suất lao động thấp, nên mức độ phát triển không bằng các nước ôn đới. Giả thuyết thứ hai cho rằng yếu tố văn hóa có ảnh hưởng đến phát triển, và đã có khá nhiều học giả cho rằng một số nét về văn hoá Việt Nam là những rào cản cho phát triển kinh tế trong thời đại toàn cầu hoá. Nhưng một giả thuyết mới nhất cho rằng một thể chế thiếu dung hợp là một yếu tố làm cho đất nước nghèo yếu. Một thể thiếu dung hợp như Phi Luật Tân, trong đó các nhóm lợi ích và đại gia chiếm đoạt tài nguyên quốc gia thì đất nước không thể nào giàu được. Có thể nói rằng cả ba giả thuyết trên đây đều có thể giải thích tại sao Việt Nam nghèo. Chúng ta không thay đổi được địa lí, nhưng chúng ta có thể thay đổi văn hoá và tạo ra một thể chế dung hợp hơn nữa, một thể chế mà trong đó mọi thành viên có cơ hội đóng góp chứ không phải chỉ vài nhóm lợi ích chiếm đoạt tài nguyên và lũng đoạn quốc gia.
SGTT: Thách thức lớn nhất đối với việc phát triển đất nước hiện nay, là gì, thưa GS?
NVT: Tôi nghĩ mối đe dọa lớn nhất đến phát triển đất nước hiện nay là môi sinh và đạo đức xã hội. Nước ta là nước nhỏ (về diện tích), mật độ dân số khá cao, và môi trường sống đang xuống cấp nghiêm trọng. Sự phá hủy môi sinh ở Việt Nam rất ư là kinh khủng, và nếu không ngăn chận hay khắc phục kịp thời, thì chúng ta sẽ không có gì để lại cho các thế hệ tiếp nối. Kinh nghiệm của các nước như China cho thấy phát triển kinh tế nhanh nhưng phá hủy môi trường sẽ làm cho sự phát triển trả giá rất đắt về lâu dài.
SGTT: Theo GS, trong giai đoạn hiện nay, cách thức nào hạn chế những thức thức đó để đưa dân tộc đi lên?
NVT: Tôi nghĩ chúng ta nên quay lại với một lí tưởng quan trọng của ngày 2/9/1945: đó là tự do. Hai chữ này có thể hiểu rất khác nhau giữa các cá nhân, nhưng ở đây, tôi muốn hiểu tự do theo nghĩa tự do tinh thần, tự do chính trị, và tự do kinh tế. Tự do tinh thần đồng nghĩa với tự do lựa chọn niềm tin, triết lí, và không lệ thuộc vào người khác. Tự do chính trị là tiền đề của một thể chế dân chủ. Cần phải đảm bảo quyền tự do ngôn luận và quyền tranh luận của xã hội và công dân đối với những hoạt động đó. Tự do kinh tế là động lực và cũng là nguyên khí của phát triển kinh tế xã hội. Do đó, tôi rất tâm đắc với nhận xét của Amartya Sen (nhà kinh tế học gốc Ấn Độ được trao giải thưởng Nobel kinh tế) rằng “phát triển như là tự do”.
SGTT: Những trở trăn của GS với ngành y ở Việt Nam là gì? Làm thế nào để có một ngành y mạnh và theo triết lý phụng sự người dân?
NVT: Tôi nghĩ tình trạng y tế và bệnh tật ở nước ta thật đáng lo ngại. Trước đây, chúng tôi đã từng lên tiếng rằng số người chết vì tai nạn giao thông làm nhức nhối xã hội, nhưng nguyên nhân tử vong trong các bệnh viêm phổi, viêm họng, viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp, tiêu chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn, cúm, sốt rét còn cao hơn nhiều. Mẫu số chung của các bệnh này là tình trạng thiếu dinh dưỡng vì nghèo khó, là môi trường bị ô nhiễm trầm trọng.
Nền y tế của VN càng ngày càng bị thương mại hóa. Nhiều người nhìn thấy ngành y là một môi trường kinh doanh để kiếm tiền nhanh, hơn là một thiên chức chăm sóc sức khỏe cho người dân. Y đức đang là một vấn đề nhức nhối, và đang làm rẻ rúng ngành y và suy giảm uy tín của những người làm trong ngành y.
Chúng tôi từng đề nghị và xin nhắc lại: cần phải tăng đầu tư xây dựng bệnh viện, xây dựng các cơ sở y tế ở nông thôn và phổ cập bảo hiểm y tế để người nghèo có thể tiếp cận dịch vụ y tế với phụ phí thấp. Nên có chính sách miễn phí khám bệnh và phí nhập viện cho người dân nghèo hoặc cận nghèo.
SGTT: Triết lý phát triển nào cho Việt Nam là phù hợp với bối cảnh hiện nay, thưa thầy?
NVT: Người ta hay nói đến triết lý phát triển, còn tôi thì suy nghĩ đến nguyên lý phát triển. Tôi nghĩ đến nguyên lý “phát triển bền vững” sẽ là cách phù hợp nhất để Việt Nam đi lên trong bối cảnh hiện nay. Phát triển đi đôi với huỷ hoại môi sinh, hay phát triển mà chỉ lệ thuộc nước ngoài về khoa học và công nghệ, thì không thể xem là phát triển lâu dài được. Do đó, phát triển bền vững có nghĩa là chú trọng chất lượng cuộc sống cho người dân, và đồng thời tăng nội lực dân tộc.
SGTT: Câu chuyện giáo dục truyền thống ở những nước phát triển thường được kể lại cho dân họ như thế nào, thưa GS?
NVT: Có danh nhân từng nói đại khái rằng biết được sự thật sẽ làm cho chúng ta tự do. Sự thật có thể không phải lúc nào cũng đẹp, nhưng vẫn là bài học để chúng ta vươn lên. Ở Úc, tôi thấy họ lấy cuộc chiến mà Úc thất trận ra dạy cho học sinh tiểu học và trung học. Họ không mặc cảm vì thất trận. Nhưng họ cũng không hạ thấp đối phương (là cựu thù). Trong sách giáo khoa sử của Úc, tôi không thấy những hận thù trong đó, tất cả sự kiện đều được trình bày bằng một văn phong khách quan và không cảm tính. Tôi được biết ở Nhật, người ta cũng dạy học sinh rằng Nhật từng là nước chiến bại.
SGTT: Làm thế nào để những người trẻ ý thức được rằng, để có độc lập dân tộc ta phải trả bằng máu, vậy đưa đất nước đi lên là trách nhiệm của những người con người hiện tại?
NVT: Tôi cho rằng, trong việc giáo dục lòng yêu nước, cần phải truyền đạt cho giới trẻ nằm lòng rằng: làm thế nào để không cần đổ xương máu mà vẫn có độc lập. Chuyện quá khứ là quá khứ, nhưng chuyện quan trọng hơn là hiện tại: Việt Nam đang đứng trước một chặng đường đầy nguy cơ: kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học đều suy thoái, nền tảng đạo đức xã hội lung lay và trên nhiều mặt ngày càng lệ thuộc vào nước láng giềng phương Bắc. Để tránh nguy cơ đó, tôi nghĩ mỗi chúng ta phải tự mình đổi mới. Mỗi chúng ta, chứ không ai khác, có nghĩa vụ đưa đất nước đi lên.
SGTT: Xin cảm ơn GS!
NVT: Tôi nhìn ngày 2/9/1945 như là một ngày Việt Nam giành quyền độc lập, không còn lệ thuộc ngoại bang. Có lẽ ấn tượng nhất với tôi là bản tuyên ngôn độc lập do cụ Hồ Chí Minh đọc và trích từ câu đầu trong bản tuyên ngôn độc lập của Mĩ: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Đó là những câu phát ngôn rất đẹp và lí tưởng. Do đó, có thể nói rằng ngày 2/9 mở đầu cho một lí tưởng nhân văn và cao đẹp cho Việt Nam. Còn những gì xảy ra sau đó thì cần phải bàn thêm.
SGTT: Ngày Độc lập có gắn với kỷ niệm nào của Giáo sư không?
NVT: Tôi sinh sau ngày 2/9/1945 và ở trong Nam nên không có kỉ niệm nào với ngày đó cả. Tuy nhiên, Ba tôi lúc sinh tiền thì nhắc đến ngày này như là một bước ngoặc trong đời.
SGTT: Chúng ta có độc lập gần 70 năm qua, nhưng về mặt phát triển chúng ta vẫn lệ thuộc nhiều thứ của nước ngoài. (Đơn cử, trong lĩnh vực y tế, mỗi năm dân ta phải mất rất nhiều tiền để đi các nước chữa bệnh). GS chia sẻ gì về câu chuyện này?
NVT: Thật ra, hầu như bất cứ lĩnh vực nào liên quan đến khoa học, công nghệ, kĩ thuật, chúng ta đều phụ thuộc vào nước ngoài. Nhìn chung, nhiều kĩ nghệ ở Việt Nam chủ yếu là gia công, chứ không phải thực sự sản xuất và cũng không có nghiên cứu khoa học. Chúng ta còn lệ thuộc nước ngoài về khoa học. Khoảng 80% các công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam là do hợp tác với hay qua hỗ trợ từ nước ngoài.
Tôi nghĩ rằng trình độ của chúng ta (người Việt) chưa theo kịp với những vấn đề mà phát triển kinh tế - xã hội đặt ra. Điểm xuất phát của chúng ta là một nền văn minh và văn hóa nông nghiệp, và khi trong quá trình hội nhập thế giới được định hình bởi nền văn minh công nghiệp, thì nảy sinh rất nhiều vấn đề. Có nhiều sự chênh lệch giữa nhu cầu phát triển đặt ra và khả năng đáp ứng của nội lực Việt Nam. Điều này có thể giải thích tại sao các công trình xây dựng, công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam không đạt chất lượng cao.
Ngoài ra, sự phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam còn thiếu tính đồng bộ và thiếu tính hệ thống. Đây đó chúng ta có những chuyên gia có thực tài, nhưng nhìn chung họ chỉ là những cá nhân đơn lẻ, không đủ để định hình một nền khoa học. Ví dụ như Việt Nam có những bác sĩ phẫu thuật không thua kém gì so với Singapore, nhưng chúng ta không có một hệ thống hỗ trợ hậu phẫu để lấy được niềm tin tưởng của bệnh nhân. Có thể chúng ta chỉ giỏi về kĩ thuật, mà kĩ thuật thì chỉ là một khâu trong nhiều khâu quan trọng. Chính vì thế mà một số bệnh nhân chưa cảm thấy an tâm và tin tưởng vào hệ thống y tế của Việt Nam.
SGTT: Khi giành độc lập, VN là một khối thống nhất, triệu con tim một ý chí quật cường? GS có thể giải mã gì về hiện tượng này dưới con mắt của một nhà nghiên cứu?
NVT: Tôi nhớ đến câu “Mùa thu rồi ngày 23 / ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến”. Đó lời hiệu triệu chống ngoại xâm. Do đó, tôi nghĩ bởi đơn giản là lúc đó ai cũng muốn đánh đuổi ngoại xâm để có được độc lập, tự do, và bình đẳng. Người Việt Nam có thể bất đồng với nhau về nhiều vấn đề, nhưng rất đồng lòng trong việc đánh đuổi ngoại xâm. Ngày nay cũng thế, khi có đe dọa hay nguy cơ từ ngoại xâm thì người dân đồng loạt đứng lên.
Nhưng lịch sử cũng chỉ ra rằng trong thời bình người Việt Nam không đoàn kết như trong thời chiến tranh chống ngoại xâm. Đất nước đã thống nhất gần 40 năm, nhưng lòng người hình như chưa thống nhất. Bất công xã hội ngày càng nhân rộng. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng rộng hơn. Người Việt trong và ngoài nước chưa thật sự đồng lòng. Tất cả những yếu tố đó chỉ làm suy yếu cộng đồng dân tộc, và làm cho Việt Nam chưa phát triển đúng với tiềm năng của dân tộc.
SGTT: Theo GS, vì sao một dân tộc từng ngẩn cao đầu trong những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để giữ nước, nhưng lại là một dân tộc quẩn quanh với mệt nhoài ở những chặng hoà bình tìm kế bứt phá vươn lên?
NVT: Trong lịch sử cận đại, chưa bao giờ nước ta có một thời gian hoà bình lâu dài như hiện nay. Thế mà cho đến nay, Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia nghèo, có thời gian nằm trong nhóm các nước nghèo nhất thế giới. Câu hỏi đặt ra là tại sao, và đã có nhiều câu trả lời cũng như cách tiếp cận câu hỏi đó. Tôi nghĩ lí do gần mà chúng ta có thể nhận ra được là chúng ta đã dành quá nhiều sức lực và tài nguyên cho chiến tranh. Đối với các nước lớn, chiến tranh là một cuộc chơi, hay thậm chí là một thương vụ; nếu không có lợi thì họ rút lui, họ không mấy quan tâm đến thắng hay thua theo nghĩa kinh điển. Nhưng đối với nước nghèo như Việt Nam thì khi chiến tranh xảy ra là dốc toàn lực toàn tâm để giành thắng lợi. Trong cuộc chiến vừa qua, có trên 50 ngàn quân nhân Mĩ tử vong, nhưng Việt Nam thì trên 2 triệu người tử vong. Sau hơn 20 năm chiến tranh thì xã hội có dấu hiệu mệt mỏi cũng là điều không khó hiểu.
Nhưng tại sao có những nước, như Hàn Quốc và Nhật, họ lại vươn lên rất nhanh sau chiến tranh, còn Việt Nam thì vẫn còn nghèo. Có ba giả thuyết chính được đề ra để giải thích sự khác biệt về mức độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các quốc gia trên thế giới: địa lí / khí hậu, văn hóa, và thể chế. Có học giả (như Montesquieu chẳng hạn) cho rằng ở những nước nhiệt đới người dân thiếu óc tò mò, hay bị mệt mỏi, dễ mắc bệnh, và năng suất lao động thấp, nên mức độ phát triển không bằng các nước ôn đới. Giả thuyết thứ hai cho rằng yếu tố văn hóa có ảnh hưởng đến phát triển, và đã có khá nhiều học giả cho rằng một số nét về văn hoá Việt Nam là những rào cản cho phát triển kinh tế trong thời đại toàn cầu hoá. Nhưng một giả thuyết mới nhất cho rằng một thể chế thiếu dung hợp là một yếu tố làm cho đất nước nghèo yếu. Một thể thiếu dung hợp như Phi Luật Tân, trong đó các nhóm lợi ích và đại gia chiếm đoạt tài nguyên quốc gia thì đất nước không thể nào giàu được. Có thể nói rằng cả ba giả thuyết trên đây đều có thể giải thích tại sao Việt Nam nghèo. Chúng ta không thay đổi được địa lí, nhưng chúng ta có thể thay đổi văn hoá và tạo ra một thể chế dung hợp hơn nữa, một thể chế mà trong đó mọi thành viên có cơ hội đóng góp chứ không phải chỉ vài nhóm lợi ích chiếm đoạt tài nguyên và lũng đoạn quốc gia.
SGTT: Thách thức lớn nhất đối với việc phát triển đất nước hiện nay, là gì, thưa GS?
NVT: Tôi nghĩ mối đe dọa lớn nhất đến phát triển đất nước hiện nay là môi sinh và đạo đức xã hội. Nước ta là nước nhỏ (về diện tích), mật độ dân số khá cao, và môi trường sống đang xuống cấp nghiêm trọng. Sự phá hủy môi sinh ở Việt Nam rất ư là kinh khủng, và nếu không ngăn chận hay khắc phục kịp thời, thì chúng ta sẽ không có gì để lại cho các thế hệ tiếp nối. Kinh nghiệm của các nước như China cho thấy phát triển kinh tế nhanh nhưng phá hủy môi trường sẽ làm cho sự phát triển trả giá rất đắt về lâu dài.
SGTT: Theo GS, trong giai đoạn hiện nay, cách thức nào hạn chế những thức thức đó để đưa dân tộc đi lên?
NVT: Tôi nghĩ chúng ta nên quay lại với một lí tưởng quan trọng của ngày 2/9/1945: đó là tự do. Hai chữ này có thể hiểu rất khác nhau giữa các cá nhân, nhưng ở đây, tôi muốn hiểu tự do theo nghĩa tự do tinh thần, tự do chính trị, và tự do kinh tế. Tự do tinh thần đồng nghĩa với tự do lựa chọn niềm tin, triết lí, và không lệ thuộc vào người khác. Tự do chính trị là tiền đề của một thể chế dân chủ. Cần phải đảm bảo quyền tự do ngôn luận và quyền tranh luận của xã hội và công dân đối với những hoạt động đó. Tự do kinh tế là động lực và cũng là nguyên khí của phát triển kinh tế xã hội. Do đó, tôi rất tâm đắc với nhận xét của Amartya Sen (nhà kinh tế học gốc Ấn Độ được trao giải thưởng Nobel kinh tế) rằng “phát triển như là tự do”.
SGTT: Những trở trăn của GS với ngành y ở Việt Nam là gì? Làm thế nào để có một ngành y mạnh và theo triết lý phụng sự người dân?
NVT: Tôi nghĩ tình trạng y tế và bệnh tật ở nước ta thật đáng lo ngại. Trước đây, chúng tôi đã từng lên tiếng rằng số người chết vì tai nạn giao thông làm nhức nhối xã hội, nhưng nguyên nhân tử vong trong các bệnh viêm phổi, viêm họng, viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp, tiêu chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn, cúm, sốt rét còn cao hơn nhiều. Mẫu số chung của các bệnh này là tình trạng thiếu dinh dưỡng vì nghèo khó, là môi trường bị ô nhiễm trầm trọng.
Nền y tế của VN càng ngày càng bị thương mại hóa. Nhiều người nhìn thấy ngành y là một môi trường kinh doanh để kiếm tiền nhanh, hơn là một thiên chức chăm sóc sức khỏe cho người dân. Y đức đang là một vấn đề nhức nhối, và đang làm rẻ rúng ngành y và suy giảm uy tín của những người làm trong ngành y.
Chúng tôi từng đề nghị và xin nhắc lại: cần phải tăng đầu tư xây dựng bệnh viện, xây dựng các cơ sở y tế ở nông thôn và phổ cập bảo hiểm y tế để người nghèo có thể tiếp cận dịch vụ y tế với phụ phí thấp. Nên có chính sách miễn phí khám bệnh và phí nhập viện cho người dân nghèo hoặc cận nghèo.
SGTT: Triết lý phát triển nào cho Việt Nam là phù hợp với bối cảnh hiện nay, thưa thầy?
NVT: Người ta hay nói đến triết lý phát triển, còn tôi thì suy nghĩ đến nguyên lý phát triển. Tôi nghĩ đến nguyên lý “phát triển bền vững” sẽ là cách phù hợp nhất để Việt Nam đi lên trong bối cảnh hiện nay. Phát triển đi đôi với huỷ hoại môi sinh, hay phát triển mà chỉ lệ thuộc nước ngoài về khoa học và công nghệ, thì không thể xem là phát triển lâu dài được. Do đó, phát triển bền vững có nghĩa là chú trọng chất lượng cuộc sống cho người dân, và đồng thời tăng nội lực dân tộc.
SGTT: Câu chuyện giáo dục truyền thống ở những nước phát triển thường được kể lại cho dân họ như thế nào, thưa GS?
NVT: Có danh nhân từng nói đại khái rằng biết được sự thật sẽ làm cho chúng ta tự do. Sự thật có thể không phải lúc nào cũng đẹp, nhưng vẫn là bài học để chúng ta vươn lên. Ở Úc, tôi thấy họ lấy cuộc chiến mà Úc thất trận ra dạy cho học sinh tiểu học và trung học. Họ không mặc cảm vì thất trận. Nhưng họ cũng không hạ thấp đối phương (là cựu thù). Trong sách giáo khoa sử của Úc, tôi không thấy những hận thù trong đó, tất cả sự kiện đều được trình bày bằng một văn phong khách quan và không cảm tính. Tôi được biết ở Nhật, người ta cũng dạy học sinh rằng Nhật từng là nước chiến bại.
SGTT: Làm thế nào để những người trẻ ý thức được rằng, để có độc lập dân tộc ta phải trả bằng máu, vậy đưa đất nước đi lên là trách nhiệm của những người con người hiện tại?
NVT: Tôi cho rằng, trong việc giáo dục lòng yêu nước, cần phải truyền đạt cho giới trẻ nằm lòng rằng: làm thế nào để không cần đổ xương máu mà vẫn có độc lập. Chuyện quá khứ là quá khứ, nhưng chuyện quan trọng hơn là hiện tại: Việt Nam đang đứng trước một chặng đường đầy nguy cơ: kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học đều suy thoái, nền tảng đạo đức xã hội lung lay và trên nhiều mặt ngày càng lệ thuộc vào nước láng giềng phương Bắc. Để tránh nguy cơ đó, tôi nghĩ mỗi chúng ta phải tự mình đổi mới. Mỗi chúng ta, chứ không ai khác, có nghĩa vụ đưa đất nước đi lên.
SGTT: Xin cảm ơn GS!
Posted by Tuan
Nguyen at 4:22 PM 3
comments:
No comments:
Post a Comment