Mohan
Malik
The
Diplomat,
30/8/2013
Trần
Ngọc Cư dịch
17/09/2013
Trung Quốc cho rằng quyền lịch sử hỗ trợ các đòi hỏi
chủ quyền biển đảo của mình. Nhưng trong lịch sử, Trung Quốc thực sự có chủ
quyền trên đó hay không?
Tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh trên gần hết Biển
Đông [the South China Sea] hiện được in lên hộ chiếu và bản đồ chính thức của
Trung Quốc. Các lãnh đạo và người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày càng
táo tợn lặp đi lặp lại rằng các đảo, đá, và đá ngầm trong biển này là “lãnh thổ
Trung Quốc từ thời xa xưa”. Thông thường, những tuyên bố chủ quyền và biên giới
lãnh hải chồng lấn lên nhau phải được giải quyết thông qua một sự kết hợp gồm
có luật quốc tế thông thường, việc xét xử trước Toà án Công lý Quốc tế hay Toà
án Quốc tế về Luật Biển, hay được trọng tài hòa giải theo Phụ lục VII của Công
ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Mặc dù Trung Quốc phê chuẩn UNCLOS,
nhưng nói chung công ước này bác bỏ các đòi hỏi chủ quyền “dựa vào lịch sử”,
tức loại chủ quyền mà Bắc Kinh thường tuyên bố một cách quyết đoán. Vào ngày 4
tháng Chín 2012, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Yang Jiechi [Dương Khiết Trì] nói
với Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton rằng có “nhiều bằng chứng lịch sử
và pháp lý cho thấy rằng Trung Quốc có chủ quyền trên các đảo trong biển Hoa
Nam [Biển Đông] và các vùng biển tiếp giáp.”
Về “bằng chứng pháp lý”, đại đa số các chuyên gia pháp
lý quốc tế đã kết luận rằng việc Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền lịch sử trên Biển
Đông, với ngụ ý có đầy đủ quyền chủ quyền và quyền đồng ý cho các quốc gia khác
quá cảnh, là vô giá trị và phi pháp. Bằng chứng lịch sử, nếu có chăng nữa, lại
càng thiếu tính thuyết phục. Có một số mâu thuẫn trong việc Trung Quốc sử dụng
lịch sử để biện minh cho các đòi hỏi chủ quyền của mình đối với các đảo và đá
ngầm trong Biển Đông, mà mâu thuẫn không nhỏ là quyết đoán mang tính luận chiến
[polemic assertion] cho rằng chủ quyền biển đảo của Trung Quốc có những điểm
tương đồng với sự bành trướng đế quốc của Mỹ và các cường quốc châu Âu ở thế kỷ
18 và thế kỷ 19. Biện minh cho những toan tính của Trung Quốc trong việc bành
trướng biên cương trên biển bằng cách đòi hỏi chủ quyền trên những đảo và những
bãi đá ngầm cách xa bờ biển của mình, Jia Qingguo [Giả Khánh Quốc], một giáo sư
tại Trường Nghiên cứu Quốc tế thuộc Đại học Bắc Kinh, tranh luận rằng Trung
Quốc chỉ theo gương các nước phương Tây. “Mỹ làm chủ đảo Guam tại châu Á cách
rất xa nước Mỹ, và Pháp có các đảo trong Nam Thái Bình Dương, vì thế điều này
không có gì mới lạ [khi áp dụng cho Trung Quốc]”, Jia đã trả lời AFP gần đây.
Một phân tích kỹ lưỡng về những “bằng chứng lịch sử”
làm cơ sở cho đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc sẽ cho thấy rằng trên thực tế
lịch sử không đứng về phía Trung Quốc. Trái lại, đòi hỏi chủ quyền của Trung
Quốc trên cơ sở lịch sử sẽ mâu thuẫn với thực tế là các đế chế xưa của khu vực
này không thể hiện quyền chủ quyền (sovereignty). Ở châu Á trước thời hiện đại,
các đế chế đều có đặc tính chung là biên cương của chúng không được xác định rõ
ràng, không được bảo vệ và thường thay đổi. Ở khu vực này, khái niệm hệ thống
bá chủ triều cống [suzerainty] chiếm ưu thế. Khác với một quốc gia-dân tộc có
chủ quyền [a nation-state], biên cương của các đế chế Trung Hoa vừa không được
vẽ ra chu đáo vừa không được canh gác kỹ lưỡng, mà gần như là những vùng vây
quanh hay khu vực, càng xa trung tâm văn minh thì ảnh hưởng của Thiên triều
càng trở nên mờ nhạt, cho đến một ngoại vi không được xác định rõ ràng của các
giống man rợ bên ngoài [alien barbarians]. Một điều quan trọng hơn nữa là,
trong các tranh chấp lãnh thổ trước đây với các nước láng giềng như Ấn Độ, Miến
Điện, và Việt Nam, Bắc Kinh luôn luôn có lập trường là lãnh thổ trên bộ của
mình không bao giờ được định rõ, được phân ranh, và được đặt mốc giới. Nhưng
hiện nay, đối với các đảo, bãi cạn, và bãi đá ngầm trong Biển Đông, Bắc Kinh
tuyên bố ngược lại. Nói cách khác, lập trường của Trung Quốc cho rằng trong lịch
sử, biên giới trên bộ của mình chưa bao giờ được định rõ và được đặt mốc giới
đã mâu thuẫn rõ rệt với lập trường cho rằng biên giới trên biển của Trung Quốc
luôn luôn được xác định rõ ràng và có mốc giới hẳn hoi. Đây là chỗ mâu thuẫn cơ
bản trong lập trường Trung Quốc về biên giới trên bộ và trên biển, một lập
trường không thể đứng vững. Thật ra, chính những nỗ lực diễn ra giữa thế kỷ 20
nhằm chuyển đổi những biên cương không được xác định rõ ràng của các nền văn
minh cổ và những vương quốc hưởng chế độ triều cống thành những biên giới được
xác định rõ ràng, được đặt mốc giới, và được phân ranh của các quốc gia-dân tộc
hiện đại thực thi quyền chủ quyền, đã nằm ngay trung tâm của các cuộc tranh
chấp lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc với các nước láng giềng. Tắt một câu,
chủ quyền là một khái niệm hậu-đế chế [a post-imperial notion] được áp dụng cho
các quốc gia-dân tộc [nation-states], chứ không phải cho các đế chế cổ đại
[ancient empires].
Khái niệm chủ quyền không phải là một khái niệm của
Trung Hoa hay của châu Á, mà là một khái niệm châu Âu phát sinh từ việc ký kết
Hiệp định Westphalia năm 1648. Nó chủ yếu là một quan niệm về chủ quyền trên
đất liền [a land-based concept] và mãi đến giữa thế kỷ 20 mới được áp dụng cho
các quốc gia-dân tộc có chủ quyền tại châu Á và châu Phi. Hệ thống nhà nước
Westphalia đặt cơ sở trên quan niệm các nước được bình đẳng về pháp lý hay có
chủ quyền quốc gia trong các biên giới được xác định rõ ràng; hệ thống này
không những khác với hệ thống phong kiến châu Âu cũ, mà còn khác với những dạng
thức bá quyền [hegemomy] hay bá chủ thụ hưởng triều cống [suzerainty] khác tại
châu Á.
Như mọi người đều biết, lịch sử thường được viết ra
bởi phe chiến thắng, chứ không phải bởi phe chiến bại. Những đường biên giới
hiện nay của Trung Quốc phần lớn phản ánh những biên cương được thiết lập trong
giai đoạn bành trướng huy hoàng của nhà Mãn Thanh ở thế kỷ 18, mà qua thời gian
chúng đã được củng cố để trở thành biên giới quốc gia cố định (trừ Ngoại Mông,
chủ yếu nhờ Liên Xô) sau khi hệ thống quốc gia-dân tộc Westphalia được áp đặt
tại châu Á vào thế kỷ 19 và thế kỷ 20. Tuy nhiên, sử quan chính thống Trung
Quốc ngày nay thường bóp méo tiến trình lịch sử phức tạp này, khi cho rằng các
dân tộc Mông Cổ, Tây Tạng, Mãn Châu, và Hán đều là người Trung Hoa, trong khi
trên thực tế Vạn Lý Trường Thành được các vương triều Trung Hoa dựng lên để
chặn đứng các bộ lạc Mông Cổ và Mãn Châu thường gây rối và xâm chiếm nước Trung
Hoa của dân tộc Hán [Han China]; Vạn Lý Trường Thành thực sự tiêu biểu cho chu vi
an ninh vòng ngoài của đế chế Hán Hoa. Mặc dù hầu hết các sử gia coi cuộc càn
quét thô bạo của các đội quân Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn lãnh đạo vào đầu thế
kỷ 13 là một đại họa đe dọa cho chính sự sống còn của các nền văn minh cổ tại
Trung Hoa, Ấn Độ, Ba Tư và các quốc gia khác, nhưng các sử gia Trung Quốc đã cố
tình đề cao huyền thoại cho rằng Thành Cát Tư Hãn thực sự là “người Trung Hoa”,
và do đó tất cả các vùng mà người Mông Cổ (Nhà Nguyên) đã có thời chiếm đóng
hoặc chinh phục (như Tây Tạng và nhiều vùng Trung Á và Nội Á) đều thuộc chủ
quyền Trung Quốc bằng cách áp đặt ngược thời gian một quan niệm chủ quyền châu
Âu của thế kỷ 16 vào một châu Á thế kỷ 12. Tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc
trên đảo Đài Loan và Biển Đông cũng đặt cơ sở trên luận cứ cho rằng cả hai đều
là lãnh thổ của đế quốc Mãn Thanh. (Thật ra, theo các bản đồ của Mãn Châu hay
nhà Thanh, chính đảo Hải Nam, chứ không phải các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, được mô tả là biên giới cực nam của Trung Quốc.) Theo phiên bản lịch sử
này, bất cứ lãnh thổ nào được “người Trung Hoa” chinh phục trong quá khứ, thì
xưa sao nay vẫn thế, đều thuộc về Trung Quốc, bất luận cuộc chinh phục đó đã
diễn ra ở thời điểm lịch sử nào.
Cách viết đi viết lại lịch sử này, từ một quan điểm
dân tộc chủ nghĩa nhằm đề cao tình đoàn kết quốc gia và chính nghĩa của chế độ,
luôn luôn được các lãnh đạo Trung Hoa, cả Quốc Dân Đảng lẫn Cộng sản, đặt lên
ưu tiên hàng đầu. Giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc cố tình hành xử như là
kẻ kế thừa di sản của các đế chế Trung Hoa, thường sử dụng các biểu tượng và
luận điệu của một đế chế. Từ sách giáo khoa bậc tiểu học đến tuồng tích lịch sử
truyền hình, hệ thống thông tin do nhà nước kiểm soát thường xuyên tống vào đầu
óc nhiều thế hệ người Trung Quốc một món ăn tinh thần là sự huy hoàng của đế
chế Trung Hoa. Như nhà nghiên cứu Trung Hoa Geremie Barmé người Australia đã
giải thích rõ: “Trong nhiều thập kỷ, hệ thống giáo dục và tuyên truyền Trung
Quốc liên tục nhấn mạnh vai trò của lịch sử trong vận mệnh của quốc gia-dân tộc
Trung Hoa [the Chinese nation-state]… Mặc dù chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Mao Trạch Đông đã bị từ bỏ trên mọi lãnh vực ngoại trừ danh xưng, nhưng vai trò
của lịch sử trong tiền đồ của Trung Quốc vẫn được kiên định”. Kiên định đến nỗi
lịch sử đã được các viện nghiên cứu, các phương tiện truyền thông, và các cơ
quan giáo dục do nhà nước kiểm soát gọt dũa thành một công cụ trong nghệ thuật
điều hành quốc gia (còn được biết đến là “xâm lấn bằng bản đồ” [cartographic
aggression]).
Trung Quốc dùng văn học dân gian, huyền thoại, và
truyền thuyết, cũng như lịch sử, để củng cố các đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ và
lãnh hải rộng lớn hơn, đồng thời tạo ra các tình hình thực tế mới trên đất liền
và trên biển. Sách giáo khoa Trung Quốc rao giảng ý niệm Vương quốc Trung tâm [the
Middle Kingdom = Trung Quốc] như là một nền văn minh lâu đời nhất và tiến bộ
nhất nằm ngay giữa trung tâm vũ trụ, được vây quanh bởi những tiểu quốc được
Hán hóa phần nào trong khu vực Đông và Đông Nam Á; những quốc gia nhỏ bé này
phải luôn luôn hướng về Trung Quốc để khấu đầu và bày tỏ sự thần phục. Phiên
bản lịch sử của Trung Quốc thường cố tình xóa nhòa sự khác biệt giữa ảnh hưởng
bá quyền, quan hệ triều cống với quyền kiểm soát thực sự [chủ quyền]. Tin tưởng
vào quan điểm cho rằng những ai làm chủ quá khứ thì nhất định kiểm soát được
hiện tại và vạch hướng đi tương lai, Bắc Kinh luôn luôn đánh giá rất cao “lá
bài lịch sử” (thường là một lối giải thích lịch sử có tính xét lại) trong các
nỗ lực ngoại giao nhằm đạt được những mục tiêu của chính sách đối ngoại, nhất
là để giành lấy các nhượng bộ lãnh thổ và ngoại giao từ nước khác. Gần như mọi
quốc gia tiếp giáp với Trung Quốc, hoặc lúc này hoặc lúc khác, đều đã nếm mùi
vũ lực của Trung Quốc – Mông Cổ, Tây Tạng, Miến Điện, Triều Tiên, Nga, Ấn Độ,
Việt Nam, Philippines, và Đài Loan – và là một đối tượng cho lịch sử xét lại
của Trung Quốc. Như Martin Jacques nhận xét trong cuốn When China Rules the
World [Khi Trung Quốc thống trị thế giới], “Chủ nghĩa Thiên triều Trung
Quốc [Imperial Sinocentrism] hình thành và đặt cơ sở cho chủ nghĩa dân tộc
Trung Quốc hiện đại”. Nếu không bị chặn đứng, lòng kiêu hãnh của một đế chế hay
tham vọng tái tạo dĩ vãng có thể mang lại những hậu quả khó lường cho hòa bình
và an ninh khu vực.
Nếu khái niệm chủ quyền quốc gia có gốc rễ từ châu
Âu vào thế kỷ 17 và từ hệ thống chính trị đã ra đời cùng với Hiệp định
Westphalia, thì khái niệm chủ quyền trên biển lại gần như là một điều bịa đặt
của Mỹ giữa thế kỷ 20, mà Trung Quốc và các nước khác đã lợi dụng để nới rộng
biên cương trên biển. Như Jacques nhận xét, “Khái niệm chủ quyền trên biển là
một phát kiến tương đối mới mẻ, có từ năm 1945 khi Mỹ tuyên bố ý định thực thi
quyền chủ quyền trên các lãnh hải của mình”. Thật ra, thỏa ước Liên Hợp Quốc về
Luật Biển là nỗ lực quốc tế nổi bật nhất nhằm áp dụng ý niệm chủ quyền trên đất
liền cho các vùng biển trên toàn thế giới – nhưng có một điều quan trọng là,
thỏa ước này bác bỏ quan niệm dùng quyền lịch sử để biện minh cho quyền chủ
quyền. Như vậy, mặc dù Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền đối với khoảng 80% Biển Đông
như là “vùng biển lịch sử” của mình (và đang ra sức nâng cấp đòi hỏi này thành
một “lợi ích cốt lõi” tương tự các đòi hỏi chủ quyền đối với Đài Loan và Tây
Tạng), nhưng trên quan điểm lịch sử, việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với
Biển Đông chẳng khác nào Mexico tuyên bố đặc quyền đối với Vịnh Mexico, hay
Iran đối với Vịnh Ba Tư, hay Ấn Độ đối với Ấn Độ Dương. Nói cách khác, Trung
Quốc không có quyền làm như thế. Từ một quan điểm pháp lý, “việc sử dụng rộng
rãi tên gọi ‘biển Hoa Nam’ không ban phát chủ quyền lịch sử cho Trung Quốc.”
Những nước từng dùng lịch sử để đòi hỏi chủ quyền trên các đảo đều có sự đồng ý
của các nước khác và có một cách lý giải lịch sử mà các bên đều chấp nhận – cả
hai yếu tố này đều thiếu tại Biển Đông.
Các đế chế cổ đại hoặc giành quyền kiểm soát các
lãnh thổ thông qua hành động xâm lược, sáp nhập, hay đồng hóa, hoặc mất những
lãnh thổ ấy sang tay các địch thủ có vũ lực hay tài cai trị ưu việt hơn. Sự
bành trướng hay mất dần lãnh thổ là một thông lệ, được định đoạt bởi sức mạnh
hay sự suy yếu của một vương quốc hay một đế chế. Chính khái niệm “những vùng
đất thiêng liêng” là phi lịch sử [ahistorical] vì việc kiểm soát lãnh thổ đặt
trên cơ sở ai là kẻ cuối cùng giành giật được hay lấy trộm được lãnh thổ của ai.
Các biên cương của những vương triều Tần, Hán, Đường, Tống, và Minh thay đổi
theo vận nước thịnh suy suốt chiều dài lịch sử. Một đế chế Trung Hoa hùng mạnh,
rất giống nước Nga Sa hoàng, có xu thế mở mang bờ cõi trong vùng Nội Á và Đông
Dương khi cơ hội đến và sức mạnh cho phép. Việc bành trướng lãnh thổ diễn ra
từng bước qua những thế kỷ dưới các triều đại ngoại-Hán (non-Chinese) như Mông
Cổ và Mãn Châu đã nới rộng quyền kiểm soát của đế chế Trung Hoa đối với Tây
Tạng và nhiều vùng tại Trung Á (nay là Tân Cương), Đài Loan, và Đông Nam Á.
Trên thực tế, Trung Quốc hiện đại là một “nhà nước đế chế” đội lốt một quốc
gia-dân tộc.
Thậm chí nếu ta tạm thời chấp nhận lý luận của Bắc
Kinh trong các “đòi hỏi chủ quyền lịch sử” đi nữa, thì vẫn còn một vấn đề là,
đế chế Trung Hoa không phải là đế chế duy nhất tại châu Á và trên thế giới
trước thời hiện đại. Có nhiều đế quốc và vương quốc khác nữa. Nhiều nước có thể
đưa ra những “đòi hỏi chủ quyền lịch sử” có giá trị không kém đối với những
vùng đất hiện không nằm trong lãnh thổ của họ, mà ở dưới quyền kiểm soát của
Trung Quốc (chẳng hạn, vùng Gian Đảo [Gando] trong tỉnh Cát Lâm của Trung Quốc
là của Triều Tiên). Trước thế kỷ 20, tại châu Á không có quốc gia-dân tộc có
chủ quyền [sovereign nation-states] nào có biên giới với quyền tài phán và kiểm
soát rõ ràng và được xác định trên pháp lý. Nếu đòi hỏi chủ quyền của Trung
Quốc được biện minh trên cơ sở lịch sử, thì đòi hỏi chủ quyền của người Việt
Nam và của người Philippines cũng được biện minh dựa vào lịch sử của họ. Các
nhà nghiên cứu lịch sử chân Á, chẳng hạn, biết rằng các sắc dân Mã lai có cùng
gốc gác với dân Philippines ngày nay có thể đưa ra đòi hỏi chủ quyền đối với
Đài Loan hợp lý hơn cả Bắc Kinh. Đài Loan được định cư từ đầu bởi hậu sinh của
giống dân Mã Lai – Đa đảo [Malay-Polynesian] – tổ tiên của những nhóm thổ dân
ngày nay – trước đây đã từng sống ở các đồng bằng vùng thấp ven biển của đảo
Đài Loan. Nhà nghiên cứu châu Á nổi tiếng Philip Bowring tranh luận rằng “sự
thể Trung Quốc có một lịch sử được ghi chép lâu đời không xóa mất giá trị của
lịch sử các quốc gia khác được minh họa bằng dụng cụ tạo tác, ngôn ngữ, huyết
thống và các tương đồng di truyền, các bằng chứng về giao thương và đi lại.”
Trừ phi ta tán thành quan niệm cho rằng Trung Quốc
là một quốc gia ngoại lệ vì tính cách phi thường của nó [Chinese
exceptionalism], các “đòi hỏi chủ quyền lịch sử” của đế chế Trung Hoa chỉ có
giá trị như những đòi hỏi chủ quyền lịch sử của các vương quốc và đế chế khác
tại Đông Nam Á và Nam Á. Cái rắc rối của bằng chứng lịch sử là phải vạch cho
được đường ranh giới nằm ở đâu và vào thời điểm nào, tại sao phải như vậy, và
quan trọng hơn nữa, phiên bản lịch sử của ai là chính xác. Việc Trung Quốc đưa
yêu sách chủ quyền đối với các thuộc địa của những đế chế Mông Cổ và Mãn Châu
chẳng khác thể Ấn Độ đòi chủ quyền đối với Afghanistan, Bangladesh, Miến Điện,
Malaysia (Srivijaya), Nepal, Pakistan, và Sri Lanka trên cơ sở là tất cả những
nước này đã từng nằm trong những đế chế của các triều đại Ashoka, Maurya, Chola
hay các đế quốc Moghul và Ấn Anh. Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 13, một số vua của
hai triều đại Pallava và Chola ở miền Nam Ấn đã huy động những lực lượng hải
quân và bộ binh để lật đổ các vương quốc láng giềng và chinh phạt các nước
trong vùng Vịnh Bengal. Họ cũng dùng đường biển để chinh phục những vùng đất
bây giờ là Sri Lanka, Malaysia và Indonesia. Trong một tác phẩm nghiên cứu về
văn hóa chiến lược Ấn Độ, George Tanham nhận xét: “Trong một đụng độ mà thực tế
là một trận chiến thương mại giữa Trung Quốc, Ấn Độ và châu Âu, những vị vua
Chola đã hoàn toàn giành được thắng lợi trong các cuộc giao tranh trên biển
cũng như trên bộ và đã cai trị nhiều vùng tại Đông Nam Á một thời gian ngắn”.
Đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông cũng
là một thay đổi chính sách quan trọng, đi ra ngoài định hướng địa chiến lược
lâu đời của Trung Quốc là củng cố quyền lực trên lục địa. Khi rêu rao về truyền
thống hàng hải có bề dày của mình, Trung Quốc đã khai thác quá đáng những cuộc
viễn hành của Zheng He [Trịnh Hòa] đến Ấn Độ Dương và châu Phi vào đầu thế kỷ
15. Nhưng, như Bowring vạch rõ, “Trên thực tế, người Trung Hoa chỉ là những kẻ
đến sau trong ngành hàng hải bên ngoài vùng nước duyên hải. Qua hàng thế kỷ,
người làm chủ đại dương là các dân tộc Mã Lai – Đa đảo, từng chiếm thuộc địa
nhiều vùng trên thế giới, từ Đài Loan đến tận New Zealand và Hawaii về hướng
Nam và hướng Đông, và đến tận Madagascar về hướng Tây. Các chậu đồng được họ
đem ra trao đổi hàng hóa với cư dân Palawan, ở ngay phía nam bãi cạn
Scarborough, vào thời đại Khổng Tử. Khi các tín đồ Phật giáo Trung Hoa như
Faxian [Pháp Hiền] đi hành hương đến Sri Lanka [vùng Nam Ấn] vào thế kỷ 5, họ
đi trên những chiếc thuyền do các dân tộc Mã Lai làm chủ và điều khiển. Các
thuyền buôn từ vùng đất mà bây giờ là Philippines đã giao thương với Phù Nam,
một vương quốc trên vùng đất bây giờ là Nam Bộ, cả ngàn năm trước triều đại nhà
Nguyên.”
Và sau cùng, cái gọi là “đòi hỏi chủ quyền lịch sử”
của Trung Quốc đối với Biển Đông trên thực tế không phải là chuyện của “hàng
thế kỷ trước”. Đòi hỏi này chỉ mới được đưa ra năm 1947, khi chính phủ dân tộc
chủ nghĩa của Tưởng Giới Thạch vẽ ra cái gọi là “đường đứt đoạn mười một gạch
ngắn” trên các bản đồ Biển Đông, bao gồm quần đảo Trường Sa và càc chuỗi đảo
khác mà Quốc Dân Đảng đang cầm quyền tuyên bố là thuộc chủ quyền Trung Quốc.
Bản thân Tưởng Giới Thạch, người từng nói rằng ông coi chế độ Phát-xít Đức là
mô hình cho Trung Quốc, rất say mê một khái niệm của Đức Quốc Xã gọi là Lebensraum
(“không gian sinh sống”) được mở rộng cho dân tộc Trung Hoa. Tưởng không có cơ
hội để chính mình theo đuổi chủ nghĩa bành trướng vì Nhật Bản luôn đẩy ông vào
thế phòng thủ, nhưng các nhà địa dư của chế độ dân tộc chủ nghĩa này đã vẽ ra
hình chữ U gồm mười một gạch ngắn trong một mưu toan nới rộng “không gian sinh
sống” của Trung Quốc trên Biển Đông ngay sau khi Nhật Bản bị đánh bại trong Thế
chiến II. Rõ ràng là, chính phủ dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa Dân Quốc cũng phẫn
nộ về việc các bản đồ Nhật Bản trong Chế chiến II mô tả toàn bộ Biển Đông như
một ao nhà của Nhật. Chính phủ Trung Quốc lần đầu tiên thực sự gửi tàu vào biển
Biển Đông năm 1947 với cuộc hải hành của các tàu Trung Hoa Dân Quốc mang tên Zhongjian
[Trung Kiện], Zhongye [Trung Nghiệp], Taiping [Thái
Bình] và Yongxing [Vĩnh Hưng]. Nhưng mãi đến nhiều năm
sau, Trung Quốc mới bắt đầu xúc tiến nghiên cứu địa hình. Tiếp theo sau chiến
thắng của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong nội chiến Quốc-Cộng vào năm 1949, Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa chấp nhận theo đuổi cuộc đảo chánh bằng bản đồ
[cartographic coup] này, bằng cách sửa lại ý đồ của Tưởng thành một “đường đứt
đoạn chín gạch ngắn” sau khi xóa bỏ hai gạch trong Vịnh Bắc Bộ vào năm 1953 cho
thấy những nơi Tưởng chưa bao giờ gửi tàu đến. Mãi cho đến 2005, Hải quân Quân
Giải phóng Nhân dân mới cho xuất bản tấm bản đồ Bãi cạn Scarborough, một phiên
bản sao chép từng chi tiết một từ bản đồ Hải quân Mỹ (xin cảm ơn Barney
Moreland đã cung cấp cho tác giả thông tin này).
Kể từ khi Thế chiến II chấm dứt, Trung Quốc liên tục
vẽ lại bản đồ của mình, xác định lại các biên giới, ngụy tạo bằng chứng lịch
sử, dùng vũ lực để tạo ra các thực tế mới về lãnh thổ, đặt tên lại các đảo, và
tìm cách áp đặt phiên bản lịch sử của mình lên các vùng biển trong khu vực.
Việc thông qua luật nội địa 1992, “Luật về các lãnh hải và các vùng tiếp giáp
chúng”, một đạo luật tuyên bố chủ quyền trên 4/5 Biển Đông, đã được tiếp nối
bằng những cuộc đụng độ vũ trang với hải quân Philippines và Việt Nam trong
những năm 1990. Gần đây hơn, việc Trung Quốc gửi những đoàn tàu đánh cá đông
đảo và tàu hải giám vào các vùng nước đang tranh chấp trong một chiến dịch
tương đương với một “chiến tranh nhân dân trên biển cả” đã làm tăng thêm các
căng thẳng. Xin trích lời của Sujit Dutta [nhà nghiên cứu thâm niên tại Viện
Nghiên cứu và Phân tích Quốc phòng New Delhi], “Chủ trương phục hồi lãnh thổ
không khoan nhượng của Trung Quốc đặt cơ sở trên học thuyết cho rằng cần phải
chiếm đóng vùng ngoại vi để giữ vững trung tâm. Trên cơ bản, đây là một quan
niệm đế quốc được các phần tử dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc, cả Quốc Dân Đảng
lẫn Cộng sản, tiếp thu một cách chủ quan. Các mưu mô của chế độ [hiện nay] nhằm
vói tới các biên cương tưởng tượng thiếu căn cứ lịch sử đã và đang mang lại
những hậu quả chiến lược gây bất ổn cao độ.”
Rõ ràng là, một lý do mà người Đông Nam Á thấy khó
chấp nhận những đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc là vì việc này sẽ
đồng nghĩa với việc chấp nhận cái quan niệm về tính ưu việt của chủng tộc Hán
đối với các chủng tộc và các đế chế châu Á khác. Jay Batongbacal, một giáo sư
trường luật Đại học Philippines, nói rằng: “Bằng trực giác người ta sẽ thấy
việc chấp nhận đường đứt đoạn chín điểm của Trung Quốc là tương đương với việc
từ bỏ chính bản sắc và lịch sử tổ tiên của các dân tộc Việt Nam, Philippines,
và Mã Lai; trên thực tế đó là một mưu mô làm tái sinh giữa thời hiện đại cái
thái độ khinh thị của Trung Quốc đối với các dân tộc ngoại-Hán [non-Chinese] mà
họ cho là ‘bọn man rợ’ không đáng được tôn trọng và không có nhân phẩm của
những dân tộc.”
Nói tóm lại, các đế chế và vương quốc cổ đại không
bao giờ thực thi quyền chủ quyền. “Vấn đề lịch sử” là rất phức tạp và thách
thức mọi lý giải dễ dãi. Nếu đòi hỏi chủ quyền dựa vào lịch sử có giá trị, thì
Mông Cổ có thể giành toàn bộ châu Á chỉ vì quân Mông đã có thời chinh phục các
nước của châu lục này. Tuyệt đối không có một cơ sở lịch sử nào để hậu thuẫn
cho cả hai đòi hỏi chủ quyền bằng những đường đứt đoạn [mà Quốc Dân Đảng và
Cộng sản Trung Quốc đưa ra], nhất là khi xét rằng lãnh thổ các đế chế Trung Hoa
không bao giờ được đặt mốc giới rõ ràng như trường hợp các quốc gia-dân tộc, mà
chúng chỉ là những vùng ảnh hưởng, càng xa trung tâm văn minh thì Thiên triều
càng mất dần quyền lực, mờ nhạt dần cho đến chu vi của các giống rợ bên ngoài
[alien barbarians]. Đây là lập trường mà Trung Quốc đương đại đã chấp nhận kể
từ những năm 1960, trong khi đàm phán về biên giới trên bộ với nhiều nước láng
giềng. Nhưng đây không phải là lập trường mà Trung Quốc chấp nhận ngày nay
trong các cuộc xung đột bằng bản đồ, bằng ngoại giao, và bằng quân sự ở cường
độ thấp để xác định đường biên giới trên biển của mình.
Việc liên tục giải thích lại lịch sử để đẩy mạnh các
đòi hỏi chủ quyền chính trị, lãnh thổ, và lãnh hải hiện nay của Trung Quốc, kết
hợp với khả năng của giới lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc trong việc phát động và
dập tắt “các cuộc biểu tình yêu nước tự phát” như mở và đóng một vòi nước vào
những thời điểm căng thẳng với Mỹ, Nhật Bản, Nam Hàn, Ấn Độ, Việt Nam, và
Philippines, khiến Bắc Kinh khó có thể trấn an các nước láng giềng rằng “cuộc
trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc là hoàn toàn hoà hoãn. Chấp nhận phiên bản
lịch sử của Trung Quốc có nghĩa là bác bỏ lịch sử của các nước khác và ý niệm
bình đẳng giữa các quốc gia-dân tộc có chủ quyền. Vì có đến sáu quốc gia đòi
hỏi chủ quyền trên các đảo san hô, các đảo, các tảng đá, và các trữ lượng dầu
hỏa trong Biển Đông, những tranh chấp về quần đảo Trường Sa, theo đúng nghĩa,
là những tranh chấp đa phương đòi hỏi phải có trọng tài quốc tế. Nhưng Bắc Kinh
cứ khăng khăng theo đuổi đường lối song phương để giải quyết tranh chấp chỉ vì
tin tưởng rằng Bắc Kinh có thể thành công nhờ ưu thế tương đối của mình và nhờ
sự chia rẽ trong khối ASEAN. Đòi hỏi “chủ quyền không thể tranh cãi của Trung
Quốc trên Biển Đông”, một đòi hỏi mới phát sinh vào những năm cuối của thập
niên 1940, chứ không phải trong lịch sử cổ đại, đang đặt ra một thách thức đối
với tất cả các quốc gia trên biển.
M.
M.
Mohan Malik là Giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An
ninh châu Á – Thái Bình Dương, Honolulu. Đây là quan điểm cá nhân của tác giả
và không phản ánh quan điểm của Trung tâm châu Á – Thái Bình Dương. Một phiên
bản ra sớm hơn và ngắn hơn của bài bày đã xuất hiện trên World Affairs, số tháng Năm/tháng Sáu 2013. Tác giả đặc biệt cảm ơn
Carleton Cramer, Carlyle Thayer, Justin Nankivell, Denny Roy và Barney Moreland
về những bình luận và đề nghị vô giá.
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN.
No comments:
Post a Comment