25
March 2013
(viết
cho Đại Hội Phố Núi Pleiku tại Cali/USA tháng3/2013)
Thật lòng, tôi không
có nhiều gắn bó với Pleiku. Và dường như cái phố núi buồn hiu ấy đã cho tôi
nhiều nỗi buồn hơn là niềm vui. Vậy mà khi đã xa -thực sự vĩnh viễn xa- Pleiku
rồi, tôi lại thấy da diết nhớ, trăn trở với cái cảm giác mình có tội với
Pleiku, và mãi mãi sẽ còn nợ phố núi này một lời xin lỗi.
Tôi
chưa (và có thể không) có dịp về thăm lại Pleiku, nên cái xa cách ấy lại càng
thấy mịt mùng. Cái phố núi vốn đã bé nhỏ, như một ông nhà thơ đã ví von “đi dăm
phút trở về chốn cũ” ấy, giờ với tôi dường như chỉ còn là chút sương khói
trong lòng. Điều kỳ lạ là chút khói sương mờ ảo ấy cứ luôn lãng đãng trong ký
ức và trái tim già cỗi của tôi, như những mảng mù sương từng bao phủ, giăng mắc
trên phố núi Pleiku ngày trước.
Nếu
không có cuộc chiến Kontum, có lẽ sẽ không có dấu chân nào của tôi trên bùn lầy
đất đỏ Pleiku. Dẫu là dấu chân của người lính chiến. Chợt đến chợt đi, hay có
khi nằm lại vĩnh viễn trên núi rừng heo hút vô danh. Thống thuộc một đại đơn vị
có bản doanh tại Ban Mê Thuột, nhưng đơn vị tôi có hậu cứ tại Sông Mao (Phan
Thiêt) và đảm trách một vùng hành quân khá rộng lớn dọc theo miền duyên
hải. Đúng ngày cuối năm âm lịch 1972, khi cả đơn vị đang chuẩn bị cho quân sĩ
ăn Tết tại doanh trại Lý Thường Kiệt - Sông Mao, chúng tôi nhận lệnh di chuyển
khẩn cấp lên An Khê, thay thế cho một đơn vị của Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ
rút quân về nước, và tăng cường cho mặt trận Bình Định, khi một số đơn vị của
Sư Đoàn 22BB hoạt động ở đây, vừa di chuyển lên mặt trận Dakto, Tân Cảnh.
Loanh
quanh ở An Khê chưa được hai tháng, cùng với Thiết Đoàn 3 Kỵ Binh tăng phái, đánh
vài trận, giải tỏa một số căn cứ của Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn nằm dọc trên đèo
An Khê bị Cộng quân tạo nhiều vòng đai vây hãm, đơn vị chúng tôi được lệnh di
chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Bộ Tư
Lênh HQ Sư Đoàn 22BB vừa bị tràn ngập tại căn cứ Tân Cảnh và vị Tư Lệnh đã ở
lại để vùi thây nơi chiến địa cùng với quân sĩ dưới quyền. Địch quân đang trên
đà tràn xuống trong ý đồ chiếm lấy Kontum.
Tôi
đến Pleiku như vậy đó. Thời gian chưa đủ nhìn một dãy phố và núi đồi chạy dọc
theo con đường dẫn ra phi trường Cù Hanh. Tôi có cảm giác chưa đến thì đã rời
khỏi Pleiku. Hơn tám tháng sống chết với chiến trường và giữ vững Kontum, chúng
tôi được kéo về Pleiku dưỡng quân và bổ sung quân số. Đây là phần thưởng đặc
biệt cho một đơn vị tạo nên kỳ tích trong trận chiến đẩm máu để có một “Kontum
Kiêu Hùng”. Một tháng đóng quân trên Đồi Đức Mẹ. Lại là một tháng “gió
lạnh mưa mùa”. Cả núi đồi và thành phố Pleiku mờ mịt và lầy lội trong mưa. Hình
ảnh của bao nhiêu bạn bè đồng đội vừa mới hy sinh trên chiến trường Kontum lúc
nào cũng hiện ra trước mặt, đau đớn tựa hồ như những nhát chém còn rỉ máu trong
lòng. Muốn tạm quên chốc lác đã là một điều không dễ. Bọn tôi cần được say. Mỗi
ngày chỉ ra phố để uống rượu. Thỉnh thoảng đi nhận đám lính bị Quân Cảnh của
ông đại úy Hiển bắt. Khi đó tôi đâu có biết ông đồn trưởng Quân Cảnh này là nhà
thơ Hoàng Khởi Phong, cũng chịu chơi, nhậu nhẹt, lãng mạn (và vi phạm quân
phong quân kỷ?) như ai.
Pleiku
có nhiều quán cà phê và nhiều khuôn mặt mỹ nhân, nhưng chúng tôi chỉ chọn các
quán rượu. Dường như cà phê không đủ ấm, không đủ để quên, và cái say của rượu
cũng chóng phôi pha hơn cái say đàn bà, con gái. Hơn nữa chỉ được có một tháng,
mà trước mặt là những trận chiến đẫm máu đang chờ. Chẳng ai muốn vương vấn nợ
tình.
Riêng
tôi còn có một anh bạn, Liên Đoàn Trưởng BĐQ trú đóng ở Biển Hồ. Vợ và hai đứa
con chết thảm tại Quảng Đức vì xe bị VC giật mìn, nên bây giờ anh chỉ làm người
tình với rượu. Tôi bị anh kéo theo cái vòng “tục lụy” này.
Lúc
trước anh là một cấp chỉ huy nổi tiếng trong BĐQ, thời gian binh chủng này mới
thành lập. Nhưng sau đó do ảnh hưởng từ các phe nhóm chính trị, anh đã bị bắt
đi tù một thời gian, ngưng thăng cấp và sau đó chuyển đến đơn vị tôi, với cái
lệnh “không được giữ chức vụ chỉ huy nào.” Biết anh là một niên trưởng và từng
dạn dày lửa đạn, tôi tận tình giúp đỡ an ủi anh. Thời gian sau anh bỗng dưng
được “vô tội”, trở lại binh chủng, thăng cấp và chỉ huy một Liên Đoàn BĐQ tại
QK2.
Do
cái ân tình đó, nên những ngày không hành quân, anh đến kéo tôi ra quán rượu.
Tôi chỉ nhìn Pleiku qua những cơn say. Vì vậy Pleiku với tôi càng nhỏ hẹp hơn,
chỉ là không gian của một quán rượu trong khu Chợ Mới. Một tháng, tôi
chưa hề biết tên một con đường, thì làm sao biết được tên của một mỹ nhân , để
“may mà có em đời con dễ thương !”
Tôi
rời khỏi Pleiku một ngày sau khi thành phố Ban Mê Thuột vừa lọt vào tay giặc.
Sáng ngày 13.3.75, theo những toán quân đầu tiên của đơn vị được trực thăng vận
từ Hàm Rồng đổ xuống Phước An, quận lỵ duy nhất còn lại của tỉnh Darlac, nằm
cách BMT khoảng 30 cây số trên QL 21 về hướng Nha Trang. Khi một nửa đơn vị vừa
xuống Phước An, thì Pleiku có lệnh di tản. Một nửa quân số còn lại phải di
chuyển theo đoàn quân trên Tỉnh Lộ 7B. Một cuộc triệt thoái sai lầm, tệ hại và bi
thảm nhất trong chiến tranh. Nửa đơn vị của tôi gần như bị xóa sổ. Hai
người bạn thân của tôi đều là tiểu đoàn trưởng đã tự sát, nhiều đồng đội đã
chết trong đớn đau tức tưởi.
Hình
ảnh cuối cùng của Pleiku trong mắt tôi là dãy núi Hàm Rồng, nhưng trong trí óc
tôi chỉ còn đọng lại những cái chết bi tráng của đám bạn bè đồng đội cùng với
những người Pleiku mà tôi chưa kịp biết mặt, làm quen. Và trong lòng tôi, dường
như Pleiku chỉ có thế. Không phải là những con đường, góc phố, là rạp ciné Diệp
Kính, Thanh Bình, hội quán Phượng Hoàng, quán cà phê Dinh Điền, cà phê Văn, cà
phê Lính, Bắc Hương, Thiên Lý, và lại càng xa lạ với những ngôi trường mang tên
Pleime, Pleiku, Phạm Hồng Thái, Minh Đức, Bồ Đề..mà những cô học trò ngày ấy
bây giờ đang mang theo cái hồn Phố Núi đi khắp muôn phương. (Giờ nghĩ lại, tôi
thấy mình khờ khạo biết bao nhiêu!)
Ngày
ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ gian
truân và chết chóc. Tháng năm lặn lội trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn
và mục tiêu trước mặt. Được chút thời gian không đủ cho một cơn say, thì đâu
còn biết gì tới thơ với thẩn (mặc dù tôi vốn mê thơ - nhưng rất dốt về thơ).
Ngoài bài hát nổi danh được phổ từ thơ Vũ Hữu Định, tôi chưa hề được đọc thơ
các thi nhân nổi tiếng một thời của Pleiku hay viết về Pleiku. Sau này đọc
Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Mạnh Trinh, Kim Tuấn, Nguyễn Xuân Thiệp, Võ Ý, Cao Thoại
Châu, Hoàng Khời Phong…, tôi thấy hối tiếc quá chừng. Pleiku đẹp quá, dễ
thương, thơ mộng quá.
Nguyễn
Bắc Sơn, nhà thơ một thời hành quân đánh giặc ở Mật khu Lê Hồng Phong, Sông
Mao, nơi đơn vị tôi trú đóng, từng viết những câu thơ hào sảng ;
Ngày mai đánh giặc may còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
….
cũng
từng bị “đày” lên Phố Núi, nhưng giờ thì đắm say ánh mắt của một nàng thiếu nữ
Pleiku:
Ðứng trên núi thấy hàng đèn thị trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
….
Vậy
mà hơn một tháng ở Pleiku tôi đã ngu ngơ, lãng phí. Không nhìn ngắm, mơ mộng
với Pleiku mà chỉ biết say với rượu. “Ta say, trời đất cũng say.” Tôi đã bắt
Pleiku say với tôi, mà đáng lý ra tôi phải say đắm với Pleiku mới phải. Đôi khi
tôi cũng tự gạt để an ủi mình “Có thể chính mấy ông nhà thơ này đã làm cho Phố
Núi đẹp hơn, thơ mộng và lãng mạn hơn những gì nó có?” Nhưng có lẽ tôi đã nhầm,
sau này được dịp làm quen với những người Phố Núi, tôi chợt nhận ra rằng Pleiku
đâu chỉ có những ông thi sĩ tài danh ấy, mà dường như cứ mỗi người Pleiku
đã là một nhà thơ, hay ít nhất cũng là một bài thơ chưa được viết thành
lời. Dẫu gì, tôi cũng có tội với Pleiku.
Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều
đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công
Lâm, Đỗ Bê … những tiểu đoàn trưởng nổi danh, những người anh, người bạn
thân thiết như tình huynh đệ cùng một đơn vị từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã
vĩnh viễn ở lại với Kontum, với Pleiku. Khi tất cả -có lẽ cũng như
tôi- chưa biết rõ mặt Pleiku cùng những vần thơ tuyệt vời ca tụng phố núi
thơ mộng một thời.
Tôi
vẫn mãi đau đớn khi hình dung cuôc di tản bi thảm trên Tỉnh Lộ 7B vào những
ngày giữa tháng 3. Cùng với những đổng đội của tôi, còn có biết bao nhiêu người
Pleiku đã không đi hết đoạn đường kinh hoàng đẫm máu ấy. Trong đó chắc chắn có
rất nhiều “em Pleiku má đỏ môi hồng” của nhà thơ Vũ Hữu Định, những bông hoa
dại đã làm cho những thằng lính “bị đày” lên phố núi thấy đời dễ thương hơn.
Thiếu những bông hoa ấy, Phố núi sẽ không còn đẹp, không còn lãng mạn, để cho
bao thi nhân cảm xúc, để cho nhà thơ Không Quân Võ Ý vẫn mãi còn tiếc nhớ khôn
nguôi một thời “Xưa Trên Đó″:
Xưa trên đó sương nhòa hơi thở đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền
…
Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”
Chúng
tôi ra đi, cũng (rất vô tình) bỏ lại các cô gái Thượng. Những cô gái chân chất
hồn nhiên mà đẹp đẽ như những cánh lan rừng. Họ mới thực sự là những người chủ
Phố Núi, nên không đành bỏ núi đồi, buôn bản. Và chắc không hề biết đã từng là
niềm vui, là nỗi khát khao của những thằng lính trẻ xa nhà, khi rủ nhau ẩn nấp
sau những gốc cây, bờ đá để nhìn (trộm) các cô vô tư khoe mình bên các dòng
suối biếc. Tuyệt vời!
Thuở
ra đi, lòng dạ rối bời, chưa kịp nhận ra những điều gắn bó, giờ hồi tưởng,
trong lòng bỗng chợt dấy lên bao nỗi bâng khuâng.
Thì
ra, tôi đã mắc nợ phố núi quá nhiều. Nợ những người đã ở lại với Pleiku trong
cơn đổi đời khốn khó, nợ người Pleiku nằm lại đâu đó trên tỉnh lộ 7B kinh
hoàng, và nợ cả những người Pleiku ra đi mang theo bóng dáng mờ ảo mù sương và
cả cái hồn Phố Núi.
Nợ
ân tình thì không thể nào trả cho hết được. Đành viết mấy dòng này xin tạ lỗi
Pleiku. •
Phạm Tín An Ninh
No comments:
Post a Comment