Cứ tưởng sau 30/4/1975 khi đất nước
đã quy về một mối, hết còn chiến tranh thì mọi người Việt Nam ở hai chiến tuyến
Bắc-Nam sẽ tay bắt mặt mừng, cùng nhau xây dựng lại Tổ quốc để được sống hạnh
phúc, nhưng 38 năm sau lòng người vẫn phân tán, hạnh phúc còn xa tầm tay và đất
nước chưa thấy ngày mai. Đó là thực tế phũ phàng và đáng buồn, không ai muốn
thấy nhưng nó đã xảy ra và chưa ai biết rồi vận nước và phận mình sẽ đi về đâu.
Sau đây là những nguyên nhân tạo
thành bức tranh u ám ấy:
Thứ nhất,
đảng cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã mất định hướng, kể từ sau Cuộc cách mạng “Đổi
mới hay là chết” 1986 để cứu nguy đất nước dưới thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh. Hy vọng vội vàng muốn đảng “mở cửa chính trị” và “tư do tư tưởng” đã bị
khoanh lại chỉ sau 2 năm ngắn ngủi.
Ngay cả những bài viết, được người
dân và đảng viên hoan nghênh, trong mục “Những việc cần làm ngay” trên
báo Nhân Dân của Tác giả N.V.L. (Nói Và Làm hay Nguyễn Văn Linh) bàn về những
việc cần phải sửa đổi trong xã hội và chính quyền cũng bị rút lại.
Đến thời Tổng Bí thư Đỗ Mười, sau
Đại hội đảng kỳ VII (27/06/1991), chính sách bóp nghẹt hà khắc được áp dụng
theo Cương lĩnh gọi là “Xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên Chủ nghĩa
Xã hội”. Kinh tế phát triển ngập ngừng “nửa nạc nửa mỡ” theo “định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Tham nhũng nở rộ. Đảng viên đi chệch hướng, nghi ngờ tính hữu
hiệu của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh lên cao sau khi
các nước Cộng sản Đông Âu rồi Nga Sô tan rã (từ 1989 đến 1991).
Ông Mười bỏ Nga theo Trung Cộng để
được bảo vệ cả về an ninh, kinh tế lẫn lý thuyết chính trị Cộng sản.
Có tin loan truyền rộng rãi ở Việt
Nam nói rằng, khi ông Đỗ Mười sang Thành Đô (Trung Cộng), trong tư cách Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) tháp tùng Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh
và Cố vấn Phạm Văn Đồng họp với Tổng Bí thư đảng CS Trung Cộng Giang Trạch Dân
và Thủ tướng Lý Bằng năm 1990, trước Đại hội đảng CSVN kỳ VII, phía Việt Nam đã
ký với Trung Cộng một thỏa hiệp gọi là “Kỷ yếu hội nghị”, nhưng cả hai phía đều
“giữ bí mật”.
Ngoài việc hai nước nối lại bang
giao sau Hội nghị Thành Đô, sau khi Việt Nam buộc phải rút quân khỏi chiến
trường Cao Miên mà Việt Nam đã xâm lăng tháng 12/1978, đảng CSVN không cho ai
biết ba ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng đã “thỏa hiệp” với Trung
Cộng những gì!?
Nhưng từ đó đến nay, Trung Cộng đã
công khai “xâm lăng” Việt Nam từ kinh tế, lãnh thổ đến đến chính trị mà Việt
Nam chỉ dám phản ứng yếu ớt.
Ông Lê Khả Phiêu thay ông Đỗ Mười
từ Đại hội đảng VIII (28-6-1996), nhưng nội bộ đảng lại rệu rã thêm với tình
trạng tham nhũng gia tăng, kỷ luật kém, nạn chạy chức chạy quyền lên cao. Cán
bộ, đảng viên xa đảng và xa cả dân khiến liên hệ được gọi là “máu thịt” giữa
dân và đảng loãng ra.
Vào tháng 2/1999, Ban Chấp hành
Trung ương đưa ra Nghị quyết 6 (lần 2) về “một số vấn đề cơ bản và cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay” nhằm xây dựng, chỉnh đốn đảng.
Nghị quyết 1999 viết rằng: “Trước
yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong đảng đang bộc lộ một
số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan
liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển
nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ
máy tổ chức của đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Để đáp ứng yêu
cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu
điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, để ngày
càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống, tổ chức và cán bộ.”
Đến Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp
hành Trung ương đảng (khóa XI), sau khi ông Nguyễn Phú Trọng lên làm Tổng Bí
Thư, thì Nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay”,
giống hệt như Nghị quyết 6 (lần 2) của 13 năm trước được chấp thuận ngày
31/12/2011.
Văn kiện quan trọng này viết: “Bên
cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu
kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được
khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với đảng; nếu không được sửa
chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của đảng và sự tồn vong của chế
độ.”
Nghị quyết nói rõ rằng: “Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh
đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào
chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn
cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”
Như thế thì đảng CSVN đã “ mất định
hướng” chưa hay vẫn còn nói là mới có “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”, chưa
đến tình trạng “tự rã đám” hay “tự ý tan hàng”?
Ai theo Tàu hơn ai?
Thứ hai,
nội bộ thì như thế, nhưng trong quan hệ với Trung Cộng thì ông Phiêu đã lưu lại
vết nhơ không kém hai ông Linh và Mười bao nhiêu.
Dù Việt Nam đã nhiều lần cải chính,
nhưng việc nhượng đất ở biên giới và lãnh hải cho Trung Cộng của “triều đại” Lê
Khả Phiêu đã rõ trong 3 “Hiệp ước biên giới trên đất liền” (30/12/1999);
“Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
hai nước trong vịnh Bắc Bộ” và “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ”
(25/12/2000)
Cụ thể Việt Nam đã mất đất như thế
nào thì hãy nghe lời kể của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ của
CSVN tại Bắc Kinh từ 1974 đến 1989, như sau:
“Đánh ta năm 1979 một mặt gạt bỏ sự
hàm ơn của ta đối với những giúp đỡ trước đây của nhân dân Trung Quốc, mặt khác
tự phơi bày ý đồ vụ lợi trong sự viện trợ cho ta. Khi không đạt được thì trở
mặt... Năm 1984, Trung Quốc huy động một Trung đoàn với hỏa lực mạnh liên tục
tấn công bắn giết phân đội quân ta đóng giữ cao điểm 1.502 ở huyện Vị Xuyên,
cuối cùng chiếm lấy cao điểm ấy làm điểm quan sát từ xa, nhòm vào nội địa ta. Ở
biên giới phía Bắc nước ta từ trước đến nay, dân hai bên đã có những việc xâm
canh, xâm cư, dân ta cũng có một số điểm xâm canh sang đất Trung Quốc, diện
tích không đáng kể, dân Trung Quốc xâm canh, xâm cư sang nước ta tại rất nhiều
điểm, tổng diện tích khá lớn. Trong đàm phán phân định biên giới, Trung Quốc
luôn nêu lên “phân định theo hiện trạng”, tranh luận qua lại, Trung Quốc luôn
nêu “nhân nhượng lẫn nhau vì đại cục (?), cuối cùng Trung Quốc vẫn ăn hơn thì
mới chịu. Thác Bản Giốc vốn của ta nay họ chiếm đứt được một nửa. Xưa Nguyễn
Trãi tiễn cha đến tận ải Nam Quan, trước nay ta vẫn nói đất nước ta từ ải Nam
Quan đến mũi Cà Mau, sau đàm phán, biên giới nước ta tụt lùi xuống mãi đến chợ
Tân Thanh, đối diện đã là trụ sở hải quan của Trung Quốc….” (17-03-2010, Bauxite Viet Nam)
Sau ông Phiêu, đến phiên ông Nông
Đức Mạnh lên giữ chức Tổng Bí thư liền hai khóa đảng IX và X (từ 22/04/2001 đến
12/01/2011).
Trong 10 năm, ông Mạnh đã để cho
Trung Cộng vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, mặc dù không có phép của Ủy ban
Trung ương đảng và của Quốc hội. Rất nhiều Công ty của Trung Cộng đã được ưu
tiên “trúng thầu” nhiều dự án kinh tế với giá rẻ, chiếm nhiều vị trí chiến lược
dọc theo bờ biển và dọc theo biền giới, qua kế họach cho thuê đất rừng dài hạn
đến 50 năm!
Về khai thác Bauxite, mặc dù đã bị
hàng ngàn người dân, trong số có nhiều Trí thức và chuyên viên Khoáng sản hàng
đầu của Việt Nam, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Nguyên Phó Chủ tịch Nước Bà
Nguyễn Thị Bình và Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ban Công lý và Hòa bình
của Hội đồng Giám mục Việt Nam khuyên can “dừng lại”, đảng vẫn hăm hở thực hiện
mà chưa biết lợi hại về an ninh và kinh tế sẽ đưa đất nước đến đâu!
Ngày 24/4/2009, ông Trương Tấn Sang
(khi ấy là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư) đã thay mặt Bộ Chính
trị ký Thông báo số 245- TB/TW về Kết luận của Bộ Chính trị về Quy hoạch phân
vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét
đến năm 2025.
Kết luận viết: “Chủ trương thăm
dò, khai thác, chế biến bô-xít là chủ trương nhất quán từ Đại hội IX và Đại hội
X của đảng đến nay. Triển khai các nghị quyết Đại hội, trong 2 nhiệm kỳ, Bộ
Chính trị đã nhiều lần bàn và ra các nghị quyết, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo
xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm, phục vụ phát triển kinh tế đất
nước nói chung, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên nói riêng.
Thực hiện Nghị quyết của đảng,
Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai
thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025 với
bước đi cụ thể và chỉ đạo triển khai 2 dự án khai thác bô-xít, sản xuất alumin
đầu tiên tại Tân Rai (Bảo Lộc, Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông); đồng thời, chỉ
đạo tìm kiếm, lựa chọn đối tác nước ngoài có năng lực để hợp tác phát triển kết
cấu hạ tầng và đầu tư xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm. Chính
phủ đã giao Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam là đơn vị có kinh
nghiệm trong khai thác khoáng sản làm chủ đầu tư thực hiện 2 dự án và chủ trì
đàm phán với các đối tác nước ngoài.”
“Đối tác nước ngoài”, không ai khác
hơn chính là nhà thầu Chalieco của Trung Cộng, nước đã thúc ép ông Nông Đức
Mạnh phải để cho họ nhảy vào khai thác vì nhu cầu cầu quặng nhôm kỹ nghệ của
Bắc Kinh!
Mắc mưu Trung cộng?
Thứ ba,
việc làm ì ạch của hai nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông) đã
khiến nhiều chuyên viên lo ngại sẽ sa lầy như nhiều dự án kinh tế khác có bàn
tay người Trung Quốc dính vào.
Sự lo âu này đã được trả lời bằng
việc sản xuất chậm mất 2 năm của Nhà máy Tân Rai, nhưng sau khi chính phủ quyết
định đình chỉ kế họach làm cảng Kê Gà, Bình Thuận (18/02/2013) vì phương án xây
dựng cảng “không mang lại hiệu quả” để xuất khẩu quặng Alumin (sản xuất từ
quặng Bauxite) thì các chuyên viên đã báo động “sẽ thua lỗ nặng” nếu Tập đoàn
Than và Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) cứ “cố đấm ăn xôi”.
Trong khi Vinacomin tiếp tục cảng
cổ ra cãi “sẽ có lời” thì từ Nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) các viên chức của Công
ty TNHH MTV nhôm Lâm Đồng (đơn vị quản lý xí nghiệp mỏ tuyển) đã xác nhận tin
20.000 tấn alumin làm ra bị tồn kho chưa biết bán cho ai!
Báo Đất Việt Online ngày 19/04/2013
báo động: “Hàng ế tồn kho, công nhân thiếu việc làm, nợ lương, đường nát …
là những điều có thể dễ kể ra khi người ta đến ‘thực mục’ tại tổ hợp bauxite
nhôm Tân Rai (Bảo Lâm, Lâm Đồng).”
Báo này viết: “Đã 3 ngày qua,
hơn 50 tài xế lái các loại xe đào, xe múc và xe ủi thuộc phân xưởng thi công cơ
giới (Xí nghiệp mỏ tuyển bôxit Tân Rai) đã đồng loạt ngưng làm việc để phản đối
các chính sách về định mức xăng dầu, tiền lương và thiếu việc làm khiến họ phải
nghỉ triền miên.
Anh Nguyễn Đình Đề (tài xế xe ủi)
phản ánh, anh đã làm việc ở đây đã sáu năm liền. Từ đó đến nay, anh và nhiều
anh em khác chỉ được hưởng lương theo khối lượng công việc. Trong khi đó việc
làm thì thất thường, mỗi tháng chỉ làm việc khoảng 16 ngày công.
Cũng theo anh Đề, từ đầu năm 2013
đến nay, lương của anh em rất thấp. Tháng 1, anh Đề chỉ nhận được gần 1,1 triệu
đồng và tháng 2 là 1,2 triệu đồng, hiện vẫn chưa nhận được lương tháng 3. Định
mức xăng dầu dùng cho các đầu xe ngày càng xuống thấp khiến tài xế lâm vào cảnh
nợ nần.”
Ông Nguyễn Văn Thắng, phó tổng giám
đốc Công ty TNHH MTV nhôm Lâm Đồng nói: “Nhà máy tuyển quặng và nhà máy sản
xuất alumin đang chạy theo công suất không tương xứng nhau. Nhà máy tuyển quặng
đã bàn giao nên sản xuất hết công suất, còn nhà máy alumin thì đang chạy thử
nên chỉ chạy 50% công suất”.
Hiện tại, kho của nhà máy tuyển
quặng đang tồn 40.000 tấn quặng tinh, nhà máy alumin tồn kho 20.000 tấn do chưa
bán được. Hiện nhà máy alumin vẫn tiếp tục hoạt động, mỗi ngày sản xuất khoảng
1.000 tấn.
Ông Thắng cho biết hiện sản phẩm
alumin chỉ mới được tiêu thụ trong nước với số lượng rất ít và chưa có hợp đồng
xuất khẩu. Dự kiến đến tháng 6/2013 toàn bộ tổ hợp mới được bàn giao từ nhà
thầu Chalieco (Trung Quốc). Khi việc kinh doanh sản phẩm alumin đi vào ổn định,
hạn chế tồn kho thì 1.300 công nhân tại tổ hợp bauxite nhôm Tân Rai mới ổn định
việc làm.”
Một trở ngại lớn và quan trọng khác
là việc sửa chữa, nâng cấp Quốc lộ 20 để chuyên chở Alumin từ Tân Rai về cảng
Gò Dầu (Tỉnh Đồng Nai) không tiến triển như dự liệu.
Báo Đất Việt cho biết: “Quốc lộ
20 sẽ là cung đường chính phục vụ quá trình vận chuyển bauxite từ nhà máy
Alumin Tân Rai (Lâm Đồng) về cảng Gò Dầu (Đồng Nai). Mặc dù việc nâng cấp, cải
tạo đã thực hiện hơn 1 năm nhưng đến nay, con đường này vẫn chằng chịt ổ voi, ổ
gà khiến người lưu thông qua đây lúc nào cũng nơm nớp lo tai nạn.
Trước đó Dự án cải tạo, nâng cấp
Quốc lộ 20 đoạn từ ngã tư Dầu Giây, huyện Thống Nhất - Đồng Nai đến TP Bảo Lộc
- Lâm Đồng dài 120 km, khởi công từ tháng 12/2011 với tổng vốn đầu tư hơn 4.600
tỉ đồng từ nguồn vốn ngân sách, do Công ty Cổ phần BT20 thực hiện dưới hình
thức xây dựng - chuyển giao.
Mục tiêu của dự án là làm cho con
đường cũ kỹ, xuống cấp này có đủ độ lớn và sức chịu tải phục vụ quá trình vận
chuyển bauxite, đồng thời bảo đảm nhu cầu đi lại an toàn cho người dân. Thế
nhưng chỉ riêng đoạn đường dài hơn 75 km chạy qua các huyện Thống Nhất, Định
Quán, Tân Phú - Đồng Nai vẫn đầy dẫy ổ gà, ổ voi.
Mặt đường hẹp, có đoạn không đến 7
m, sờn tróc nham nhở và không có phần đường riêng cho xe máy. Một số đoạn đã
thi công, cải tạo nhưng những “miếng vá” chưa kịp khô đã lại bong tróc và trở
thành cái “bẫy” trên đường.”
Như thế thì “giấc mơ sẽ lời to” của
Dự án Bauxite Tây Nguyên sẽ đi về đâu? Và trong khi thị trường quặng Alumin
đang hạ giá trên thế giới khoảng 320 Mỹ kim 1 tấn thì các chuyên viên Khoáng
sản độc lập của Việt Nam lo ngại Công ty Vinacomin của Chính phủ chỉ có thua và
lỗ nặng, nếu họ thật lòng công khai và minh bạch “tổng cộng giá thành” gồm tất
cả các khoản tiền phí tổn để có được 1 tấn Alumin!
Giả thử như Trung Cộng sẽ mua nhưng
bắt Việt Nam phải hạ giá xuống đến mức tối đa, trong khi không nước nào muốn
mua hàng Việt Nam thì Vinacomin tính sao? Chẳng nhẽ cứ “giữ hàng tồn kho” để
chờ giá lên cao mới bán thì đến bao giờ?
Và trong khi “hàng làm ra nhiều mà
bán chẳng được bao nhiêu” thì lấy tiền đâu trả nợ và trả tiền công cho nhân
viên, thợ thuyền?
Đấy là hiểm họa kinh tế đang treo
trên đầu mỗi người dân Việt Nam, chưa kể thảm họa “bùn đỏ” độc hại ở thượng
nguồn Tây Nguyên mà ông Nông Đức Mạnh đã để lại cho người dân sau 10 năm làm
Tổng Bí thư đảng!
Cùng khai thác của ai?
Thứ tư,
sau ông Mạnh thì đến phiên ông Nguyễn Phú Trọng nhận chức Tổng Bí thư ngày
19-01-2011 tại Đại hội đảng khóa XI.
Nhưng chỉ 10 tháng sau đó ông Trọng
đã sang Bắc Kinh, gọi là thăm Trung Cộng, nhưng thật ra là để ký 6 điểm thỏa
hiệp với Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Cộng Hồ Cẩm Đào, được gọi hoa mỹ là “Nguyên
tắc giải quyết vấn đề trên biển Việt-Trung”, trong đó điểm nổi bật và then
chốt là “hợp tác cùng phát triển”.
Thỏa hiệp ông Nguyễn Phú Trọng ký ở
Bắc Kinh ngày 11/10/2011 có 3 điểm quan trọng nhất là:
Điểm 2: “Trên tinh thần tôn
trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch
sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố
gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình
đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc
tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm
giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề
tranh chấp trên Biển.”
Điều 4: “Trong tiến trình tìm
kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng
lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những
giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ
trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp
tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận
này.”
Điểm 5: “Giải quyết các vấn đề
trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc
đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn
bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp
tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa
học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại
do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải
quyết các vấn đề khó khăn hơn.”
Cha đẻ của thuyết “gác tranh
chấp để cùng khai thác”, ông Đặng Tiểu Bình cũng chính là người đã xua
khoảng 600,000 quân Trung Cộng vượt biên giới đánh sang 6 tỉnh cực bắc của Việt
Nam hồi tháng 2/1979 mà ông ta bảo là “dạy cho Việt Nam một bài học”!
Nhưng Trung Cộng làm gì có chủ
quyền lãnh thổ ở Biển Đông mà đòi “hợp tác cùng phát triển”? Và dù biết
rõ hai-năm-rõ-mười như thế mà tại sao ông Nguyễn Phú Trọng dám ký để “chia đôi
chủ quyền” với người hàng xóm chưa bao giờ “làm theo lời hứa” này?
Giờ đây, Trung Cộng đã gọi đấu thầu
Quốc tế ít nhất là 9 lô tìm kiếm dầu trong vùng “đặc quyền kinh tế”, hoặc “nằm
chồng lên” các lô tìm kiếm mà chính Việt Nam đã gọi thầu Quốc tế trước Trung
Cộng ở giữa Quần đảo Trường Sa và bở biển tỉnh Khánh Hòa!
Trung Cộng cũng đã và đang khai
thác dầu trong vùng Vịnh Bắc Bộ dù hai bên chưa ngã ngũ về đường ranh giới chủ
quyền, theo Thỏa hiệp năm 2000 thời ông Lê Khả Phiêu?
Tăng cường đe dọa Việt Nam
Thứ năm,
song song với hành động chiếm lấn chủ quyền biển đảo trắng trợn này, Trung Cộng
còn tăng cường các Tầu Hải quân, ngụy trang Hải Giám có võ trang đi tuần tra
khắp vùng Biển Đông từ Hoàng Sa xuống Trường Sa của Việt Nam để ngăn chặn, truy
kích và bắn phá các ngư dân Việt Nam đến đánh cá ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhiều tầu đánh cá của Việt Nam đã
bị đâm chìm khi đang hành nghề sâu trong vùng biển Vũng Tầu, Hải Phòng, Đà Nẵng
và Quảng Ngãi từ 2 năm qua mà Hải quân và lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam
không làm gì được!
Bằng chứng bỏ ngư trường mà chạy để
bảo vệ tính mạng và tài sản đã được ngư dân đảo Lý Sơn nói thằng với Chủ tịch
Nước Trương Tấn Sáng khi ông ra thăm đảo ngày 15/4 (2013) vừa qua.
Đấy là chưa kể vụ 1 tầu cá Quảng
Ngãi bị tầu Hải Giám Trung Cộng bắn cháy rụi nóc tầu ngày 20/3 (2013) mà Trung
Cộng bảo vì tầu Việt Nam xâm phạm “vùng biền của họ”?
Những vụ tấn công tầu cá Việt Nam
diễn ra song song với cuộc tập trận 16 ngày (17/3-1/4/013) ở Biển Đông của 4
Tầu chiến Trung Cộng thuộc Hạm đội Hải Nam đã khiến các nước trong khu vực,
trong đó có Việt Nam và Phi Luật Tân lo ngại.
Nhưng Hải quân Trung Cộng đã cho
biết các tầu chiến của họ sẽ tập trận quy mô hơn thêm 40 lần nữa ở Biển Đông
trong năm 2013. Các sỹ quan Hải quân Trung Cộng nói là các cuộc tập trận là
nhằm “đánh dấu lãnh thổ” của Trung Cộng trên Biển Đông!
Trên mặt trận tuyên truyền để dành
lấy biển đảo, Trung Cộng đã tổ chức du lịch ở Hoàng Sa và tung ra bản đồ mới vẽ
Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Cộng, nhưng Việt Nam chỉ “phản đối suông” và
cổ võ “giải quyết tranh chấp với Trung Cộng bằng biện pháp hòa bình”!
Những tiếng nói phẫn uất
Trước hiểm họa “lưỡng đầu thọ địch”
của đất nước như thế mà lãnh đạo Đảng chỉ biết tập trung vào công tác đàn áp
dân lành đi khiếu kiện oan sai và tố cáo cán bộ, đảng viên tham nhũng như đe
dọa của ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng Thanh tra Chính phủ đưa ra tại Hà Nội ngày
18/4 (2013) thì có lương tâm không?
Bản tin của Ban Thanh tra viết: “Riêng
UBND TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh phải kịp thời nắm bắt tình hình khiếu kiện
đông người, có phương án cưỡng chế, giải tỏa đối với các công dân khiếu nại, tố
cáo tập trung sai quy định về Trụ sở Tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà
nước để tổ chức tiếp, hướng dẫn, vận động công dân trở về địa phương.
Đồng thời, không để các đoàn khiếu
kiện đông người đến các khu vực hội trường nơi diễn ra các cuộc họp và nhà
riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, xử lý kiên quyết hiện tượng người
khiếu kiện trưng băng rôn, biểu ngữ, ngăn chặn việc chặn, đón xe Đại biểu Quốc
hội.”
Như thế là ông Tranh chỉ mong sao
cho các Ủy viên Trung ương đảng về họp Hội nghị kỳ 7 ở Hà Nội vào đầu tháng 5
(2013) và sau đó đến lượt các Đại biểu Quốc hội về họp khóa 5, khai mạc ngày
20/5 (2013), đừng nhìn thấy mặt dân khiếu kiện kẻo xấu mặt nhà nước hay sao?
Vì tính toán có hành động phản dân
chủ, coi thường dân của Chính phủ trong khi lại chểnh mảng trước đe dọa của
Trung Cộng ở Biển Đông đã rõ như ban ngày đã làm cho một số cựu tướng lãnh, Nhà
thơ và Nhà báo nổi tiếng của Việt Nam phải lên tiếng trong phẫn uất chưa bao
giờ thấy có ở Việt Nam.
Trước hết hãy đọc lời cảnh giác của
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (nguyên Đại sứ của CSVN tại Trung Cộng): “Việt
Nam ta tất yếu phải cuốn theo kinh tế thị trường, nhưng lãnh đạo vẫn lấy CN Mác
– Lênin làm cơ sở tư tưởng, vẫn chủ trương xây dựng CNXH. Thử hỏi xây dựng CNXH
theo mô hình nào? Trong xã hội ta hiện nay, nội dung gì là XHCN, không ai chỉ
ra được. Còn nói phát triển kinh tế thị trường “theo định hướng XHCN”. Cái đuôi
“theo định hướng XHCN” thật là mơ hồ, vô nghĩa.”
Ông nói thẳng với lãnh đạo Nhà nước:
“Vấn đề đặt ra đối với nước ta hiện nay là: thoát ra khỏi mọi ràng buộc tham
lam, ác ý, thực hiện đường lối chủ trương độc lập tự chủ, thực hiện ngoại giao
cân bằng giữa các nước lớn, một mặt không phá bỏ hiện trạng hữu nghị hòa bình
với Trung Quốc, mặt khác thắt chặt mối quan hệ hữu nghị với các nước lớn Nga,
Nhật, Ấn Độ, Mỹ, cải cách thể chế, thực hiện dân chủ, gắn bó với khối đại đoàn
kết dân tộc, trọng dụng hiền tài, xóa bỏ mọi lợi ích nhóm, phe phái quyền lực
để đưa đất nước thoát khỏi yếu kém tụt hậu và tiến lên.” (Trích từ Bài viết mới nhất của ông phổ biến trên các
mạng báo Truyền thông Xã hội trong nước: “Giữa Việt Nam và Trung Quốc không
truyền thống hữu nghị, cũng không tương đồng về ý thức hệ”)
Và sau đây là những dòng thơ thật
buồn cho hoàn cảnh của đất nước hôm nay của một số Nhà Thơ, Nhà báo nổi tiếng ở
Việt Nam.
Hãy đọc Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm,
nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trường ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương:
Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một tin
lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc
Chung quanh yên ắng cả
Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại
qua
Người giàu, người nghèo đều ngủ
Cả bầy ve vừa lột xác
Sao mình thức?
Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày
mai tốt lành?
Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên
sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác?
Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn
ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi
Ấm áp ly cà phê sớm
Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời
Hớn hở tập thể dục
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người
Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi?
Những cây thông trên núi Ngự Bình
thấp thoáng ngọn nến xanh
Đời đời an ủi
Cho người đã khuất và người sống
hôm nay …
(22/04/103)
(Trích từ Quê Choa của Nhà văn
Nguyễn Quang Lập)
-------------
Điềm ơi
Viết sau khi đọc bài thơ “Đất nước những
tháng năm thật buồn thật buồn” của Nguyễn Khoa Điềm
Khi Điềm còn ở trên cao
Cái buồn thế sự đã vào chúng tôi
Bây giờ trời đã chiều rồi
Ngẩn ra thì muộn khóc cười làm chi
Phố phường vẫn lắm người đi
Hoa vẫn nở chẳng có gì khác đâu
Khác là ở chốn xa sâu
Trẻ em đi học không cầu qua sông
Khác là tận ngoài biển đông
Chủ quyền ta họ nói không lập lờ
Riêng màu đỏ của ngọn cờ
Ở Đại Nội hay biển bờ xa xôi
Vẫn luôn phơi phới đỏ tươi
Nhạt là nhạt ở tình người Điềm ơi
Lê Duy Phương
(Từ Quê Choa)
-------------
Nhà Thơ Trần Mạnh Hảo đáp lời:
Đất nước có bao giờ buồn thế này chăng?
Đêm trường ma giáo mặt trời đỏ
Những dòng sông là đất nước thở dài
Chó sủa trăng nhà ai?
Không phải vầng trăng đất nước
Tôi ngồi ngót bảy mươi năm
Chờ một lời nói thật
Bầy sói tru ý thức hệ lang băm
Người nông dân bị cướp đất phải hát
bài dân chủ
Đêm đêm thạch sùng tắc lưỡi bỏ đi
Đất nước đang treo trên sợi chỉ
mành
Sợi chỉ mành 16 chữ vàng và dối lừa
4 tốt (1)
Có kẻ rước giặc lên bàn thờ
Xì sụp lạy khấn tàn nhang chủ nghĩa
Những giáo điều làm cơm nguội bơ vơ
Xin cứ tự do bán lương tâm cho chó
Vãi linh hồn vào thùng rác nhân dân
Mối mọt ăn rào rào lòng rường cột
Ôi thương thay giẻ rách cũng tâm
thần
Anh sẩm bạc đầu dẫn đường dân tộc
Đám gà què bàn hiến pháp cối xay
Đất nước có bao giờ buồn như hôm
nay
Những thiên đường vỡ chợ
Những học thuyết đứng đường
Hoàn lương tượng đài
Hoàn lương chân lý
Nghị quyết còn trinh bạch cũng hoàn
lương
Không ai đuổi cũng giật mình bỏ
chạy
Nhốt hết mây trời vào hiến pháp tự
do
Mơ được đứng bên lề đường
Nói một câu gan ruột
Đất nước buồn
Đất nước bị ruồi bu
Đất nước bị cầm tù trong ngực trái
Chưa kịp nghĩ một điều gì
Sao đã toát mồ hôi?
Có nơi nào buồn hơn đất nước tôi?
Lý tưởng của loài dơi là muỗi
Dơi bay đêm cho đất nước đỡ buồn
Không ai tin vào hoa hồng nữa
Không ai tin vào dơi nữa
Dơi trở về làm chuột khoét quê
hương
Sài Gòn, 24-4-2013
(Trên Internet)
(1) Chú thích của Phạm Trần: “Láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và
tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” do
phía Trung Cộng (Giang Trạch Dân) nói với Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tại Bắc Kinh
năm 1999.
---------
Bùi Minh Quốc
Nhân đọc bài thơ “Đất nước những
tháng năm thật buồn” của nhà thơ – chiến sĩ Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ “Điềm
ơi!” của nhà thơ – chiến sĩ Lê Duy Phương trên Quê choa của nhà văn – chiến
sĩ Nguyễn Quang Lập, trân trọng gửi đến các đồng nghiệp đồng đội chiến sĩ –
nghệ sĩ trong Hội nhà văn Việt Nam bài thơ dưới đây của tôi:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn
năm
Tổ Quốc bao giờ nhục thế này
chăng?*
Hãy trông kìa!
Hãy trông kìa!
Bọn thẻ – đỏ – tim – đen tiếm quyền
hóa giặc
Bịt miệng người kêu nỗi đau Ải Bắc
Bóp cổ người thét nỗi nhục Hoàng Sa
Sông có nghe nỗi nhục chuyển sơn
hà?
Hãy trông kìa!
Hãy trông kìa!
Bọn thẻ – đỏ – tim – đen tiếm quyền
hóa giặc
Một lũ sói nhe nanh kết bầy nhâng
nháo khắp
Móc túi dân
Cướp đất dân
Bóp cổ dân
Nỗi oan dâng núi thét sông gầm!…
Hỡi sông Hồng
Hỡi sông Hồng
Hỡi sông Hồng tiếng thét bốn nghìn
năm
Tổ Quốc bao giờ nhục thế này chăng?
Đà Lạt 12.09.2008
_________
* Bài “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này
chăng? ” của Chế Lan Viên có 2 câu mở đầu:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn
năm
Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
(Từ Quê Choa)
Sau cùng, chúng ta hãy lắng nghe
tác giả Đoàn Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, 79 tuổi, cựu phóng viên TTXVN
giãi bày tâm tư của ông trước thời thế trên mạng báo Quê Choa của Nhà văn
Nguyễn Quang Lập:
“Tôi rất thích đọc thơ Nguyễn Khoa
Điềm, trong đó có bài Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ...Tôi đồng cảm
nỗi buồn của Nguyễn Khoa Điềm và nỗi buồn của nhiều nhà văn, nhà thơ đã từng có
thời gian lăn lộn trên các chiến trường ác liệt, nỗi buồn của nhiều ông tướng,
ông Bộ trưởng về hưu hoặc sắp về hưu, cả nỗi buồn mất đất của nông dân, nỗi
buồn một số trí thức muốn góp ý vào xây dựng Hiến pháp mới bị coi là “trí thức
rởm” “suy thoái”, nỗi buồn của học sinh sinh viên đang thụ hưởng một nền giáo
dục bế tắc…
Còn trong hệ thống chính trị, không
thiếu những kẻ bất tài vô học, chỉ đua đòi ăn chơi trác táng... Lại con gái,
con trai mấy vị vào hàng “nguyên thủ” xây “khách sạn 5 sao”, du học nước ngoài,
chỉ suốt ngày gái gú, chơi game... Khi cần thì vẫn có thể xếp vào những cai ghế
êm ru hái ra tiền. Con gái một vị to đầu tư cho một khu đô thị sinh thái chiếm
đoạt 500 ha đất canh tác của nông dân, nay không rõ ôm tiền đi đâu. Đặc biệt,
những thông tin về nhóm lợi ích, về phe phái này “chiến đấu” với phái kia,
dường như “một mất một còn”.
Một số vị ở vị trí cao của đất nước
vẫn có những hành xử không đẹp đẽ chút nào, vẫn vì động cơ cá nhân ích kỷ...
Vì sao, đất nước sau gần 40 năm
được thống nhất, có độc lập, hòa bình mà vẫn có mấy chục vạn phụ nữ trẻ phải “trần
như nhông” để “bọn nước ngoài” lựa chọn để cưới làm vợ. Ai đã cấp hộ chiếu cho
gần 30 vạn phụ nữ sang Hàn Quốc, Đài Loan “tìm chồng”, “lấy chồng”, trong nước
còn có đến 30 vạn gái điếm và một lũ “đĩ quý tộc”?...
Ông Nguyễn Phú Trọng Tổng Bí thứ
của Đảng, đã dũng cảm thừa nhận “đi đến đâu cũng thấy người hư hỏng...” mà lại
chính là những người của ông, đã được rèn luyện phấn đấu nhiều năm. Bộ máy
chính quyền vừa đông vừa không được việc, vừa nhiều vừa quan liêu. Cơ quan hành
chính thì hành dân là chính, dân khiếu nại theo luật định thì bị ghép vào tội
làm mất trật tự xã hội.”
Tất cả những dòng chữ, dòng thơ
trên đây, tuy không ai có thể nhìn ra nước mắt, nhưng mỗi chữ, mỗi câu đã mang
một nỗi buồn man mác như thúc giục phải thoát ra từ mỗi trái tim đáng rướm máu
vào dịp 30 tháng 4 năm 2013.
Cái mốc thời gian của 38 năm sau
ngày đất nước “thống nhất” lý ra phải tươi mát và rực rỡ hoan ca chứ đâu có
buồn thảm đến nhường này?
Lỗi tại ai, hãy lỗi tại tất cả
chúng ta, những người dân đã sống nhục quen?
Bài này viết không đúng sự thật. Tôi xin trích vài dẫn chứng "thứ hai, nội bộ thì như thế, nhưng trong quan hệ với Trung Cộng thì ông Phiêu đã lưu lại vết nhơ không kém hai ông Linh và Mười bao nhiêu". Ông Phiêu là một người chống tiêu cực và tham nhũng quyết liệt. Thứ hai, tác giả phê phán cách giải quyết tranh chấp với Trung Quốc: “giải quyết tranh chấp với Trung Cộng bằng biện pháp hòa bình”. Nếu không giải quyết theo cách này thì có cách nào tốt hơn trong lúc này hay không. Cho hải quân của Mỹ vào hải phận Việt Nam chăng? Điều đó là không thể vì Mĩ không tốt hơn Trung Quốc.
ReplyDelete