Ben
Bland
Đỗ
Đăng Khoa
chuyển ngữ, CTV Phía Trước
15/10/2012
Sau một thời gian trở thành thị trường mới
nổi nóng nhất tại châu Á, Việt Nam đã buộc phải kiểm tra lại tình hình thực tế
khi nền kinh tế bong bóng sắp đổ vỡ. Đã bốn năm, độ co giật vẫn còn nghiệm
trọng.
Thiếu thông tin trung thực
Mặc dù Trịnh Thị Huyền đã có công việc kế
toán tại một công ty vận chuyển tại Hà Nội nhưng cô vẫn tiếp tục tìm kiếm việc
để làm thêm.
Chồng của cô, một công nhân xây dựng, đã
không thể tìm việc trong nhiều tháng vì thị trường bất động sản tại Việt Nam
sụp đổ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
“Tôi rất sợ, khi mỗi ngày giá cả tiếp tục
gia tăng và tôi là nguồn thu nhập duy nhất cho cả gia đình trong sáu tháng
qua”, cô nói.
Sau hai thập niên tăng trưởng và thịnh vượng, Việt Nam trở thành một trong
những thị trường mới nổi nóng nhất tại châu Á, nhưng nhiều người Việt như Huyền
đã buộc phải kiểm tra lại thực tế khi nền kinh tế trở nên quá nóng trong năm
2008 và đã trải qua một loạt các cơn co giật đau đớn từ đó đến nay.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chỉ tăng 4,4%
trong nửa năm 2012 so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số này cũng giảm mạnh từ 7%
trong gia đoạn trước khủng hoảng khi chính phủ thắt chặt cung tiền cùng với nỗ
lực ngăn giảm lạm phát.
Vào cuối tháng Chín vừa qua, Moody’s đã cắt
giảm tín dụng của Việt Nam xuống một bậc thành B2. Đây là mức đánh giá thấp
nhất mà Moody’s đã từng dành cho nước này. Đánh giá của Moody’s hiện nay thấp
hơn Standard & Poor hai bậc BB- và dưới Fitch một bậc B-.
Các vụ bắt giữ gần đây đối với một số doanh
nhân nổi tiếng, trong đó có Nguyễn Đức Kiên – người sáng lập ngân hàng ACB, một
trong những ngân hàng tư nhân lớn nhất tại Việt Nam – về những cáo buộc phạm
tội tài chính đã làm lung lay thêm nhiều vấn đề. Việc này đã tập trung tất cả
sự chú ý vào sự quản lý yếu kém trong lãnh vực ngân hàng cũng như nợ quốc gia.
Với thể chế chính phủ độc tài không muốn
thông báo các thông tin rõ ràng và kịp thời về các vụ bắt giữ cũng như những
thông tin liên quan đến ngành ngân hàng, các nhà đầu tư nước ngoài và Việt Nam
vẫn tiếp tục bày tỏ sự lo lắng về triển vọng đối với nền kinh tế nước này.
“Các vấn đề chính là hàng loạt hoạt động
cho vay không hiệu quả và tài sản thị trường bất động sản đang đóng băng, với
rất nhiều công ty mang nợ nặng nề”, Jonathan Pincus – người đứng đầu chương
trình giảng dạy kinh tế và chính sách cho các quan chức chính phủ tại thành phố
Hồ Chí Minh thuộc Đại học Harvard – cho biết.
“Ưu tiên hàng đầu là phải đối phó với các
khoản nợ xấu. Nền kinh tế cần phải giải nợ, và điều này có thể mất một thời
gian dài hoặc chính phủ có thể giới thiệu các chính sách để giúp tăng tốc công
việc. Họ đã nói về chuyện này nhưng chưa thấy thực hiện chúng”.
Bất cứ điều gì xảy ra tiếp theo thì những
thách thức đối với Việt Nam không phải là điều gì mới, và các giải pháp có thể
rất khó để thực hiện.
Trong những năm nền kinh tế nước này bùng
nổ trước khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007,
nhiều nhà đầu tư, nhà tài trợ và chính phủ đã bỏ qua các vấn đề như tham nhũng,
các quy định yếu kém của nhà nước và sự thiếu đầu tư vào các lĩnh vực chủ chốt
nhu y tế và giáo dục.
Khi tiền nước ngoài bắt đầu đổ vào, chính
phủ đã mở rộng tín dụng rất nhanh chóng, với số tiền giá rẻ được phân bổ cho
các công ty lớn thuộc nhà nước và các tập đoàn tư nhân chính trị thân hữu. Tín
dụng ngân hàng như một tỷ lệ của GDP đã tăng từ khoảng 20% vào cuối những năm
1990 lên đến 136% vào cuối năm 2010, dẫn đến tình trạng Việt Nam trở thành một
trong những quốc gia mang nợ nhiều nhất ở châu Á.
Phần lớn số tiền này đã được bơm vào các
doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả và đầu cơ vào thị trường chứng khoán cũng
như bất động sản chứ không phải là các doanh nghiệp thực sự sản xuất sinh lời.
Nhưng khi Việt Nam bắt đầu nhanh chóng đối mặt với hai cuộc khủng hoảng lạm
phát và khủng hoảng tài chính toàn cầu lan rộng thì việc sụp đổ là không thể
tránh khỏi.
Hai tập đoàn nhà nước khổng lồ Vinashin –
công ty đóng tàu, và Vinalines – công ty vận chuyển đường biển, là hai trong
những công ty nổi bật nhất đã sụp đổ trong bối cảnh nợ nần hàng tỷ đô la và đầu
tư lãng phí. Hơn một chục giám đốc điều hành từ cả hai công ty này đã bị buộc
tội hoặc bị kết án về các tội kinh tế và phải đối mặt với các bản án dài hạn
không khoan nhượng tại Việt Nam.
Hậu quả chính trị từ thất bại đó đối với mô
hình hình tăng trưởng nhanh chóng của Việt Nam hầu như đã được bịt kín trong
nội bộ Đảng Cộng sản.
Cần sân chơi cạnh tranh công bằng
Một số kinh tế gia và nhà đầu tư nhìn thấy
niềm hy vọng giữa cơn bĩ cực trong cuộc khủng hoảng đang diễn ra, tranh cãi
rằng đây là dấu hiệu cho thấy chính phủ đang chuẩn bị đối đầu với các vấn đề mà
đất nước phải đối mặt.
“Chúng tôi rất lạc quan về quyết tâm của
chính phủ trong việc làm sạch các khoản nợ xấu cũng như cải cách khu vực doanh
nghiệp nhà nước và đầu tư công”, Trinh Nguyễn, một kinh tế gia trong khu vực
châu Á thuộc Ngân hàng HSBC tại Hồng Kông cho biết. “Câu hỏi là liệu điều này
sẽ sớm diễn ra như thế nào”.
Mặc dù chính phủ tập trung hỗ trợ khu vực
kinh tế nhà nước, nhưng nền kinh tế Việt Nam đã năng động hơn rất nhiều và chủ
yếu dựa vào đầu tư nước ngoài cũng như lĩnh vực sản xuất – hai lĩnh vực chính
đã giúp giữ nền kinh tế phát triển.
Cạnh tranh xuất khẩu quần áo và hàng điện
tử của Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển bất chấp sự sụt giảm tại các nước phát
triển khác.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gần đây đã cắt
giảm mục tiêu tăng trưởng năm nay xuống còn 5,2% vì tình hình đã trở nên xấu
đi.
Với lịch sử gần đây và mức phát triển của
các nước láng giềng như Indonesia, nơi được dự báo sẽ có mức tăng trưởng ở
khoảng 6% trong năm nay thì Việt Nam không có nhiều điều để tự hào.
Nhưng Việt Nam có thể sống với mức tăng
trưởng thấp trong một vài năm tới nếu chính phủ nước này học được những bài học
đúng từ khả năng phục hồi của khu vực sản xuất. Nếu nước này thúc đẩy một sân
chơi công bằng có sự cạnh tranh và tăng năng suất trong thời gian trung hạn thì
cả nước có thể tận dụng lợi thế tự nhiên của lực lượng lao động trẻ, giá rẻ, và
vị trí chiến lược giữa Trung Quốc và phần còn lại của Đông Nam Á.
“Chúng tôi nghĩ tăng trưởng vẫn còn ở mức
thấp trong hai năm tới”, Trinh Nguyễn nói. “Tuy nhiên, nếu Việt Nam thực hiện
các cải cách như dự đoán thì nền kinh tế nước này có thể trở nên tốt hơn để
cạnh tranh khi nền kinh tế toàn cầu hồi phục”.
Bài báo có thêm các chi tiết được bổ sung
bởi Nguyễn Phương Linh tại Hà Nội.
Nguồn: Emergin Markets
© Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2012
No comments:
Post a Comment