Rob Cox
Lê Quốc Tuấn. X-CafeVN chuyển ngữ
Tue, 10/02/2012
- 03:57
Tuần này, gần
đúng hai năm trước, Christine Gregoire, Thống đốc tiểu bang Washington của Mỹ
đã ở Việt Nam để phát French Fries làm từ khoai tây trồng trong tiểu bang mình
tại một cửa hàng Kentucky Fried Chicken tại thành phố Hồ Chí Minh. Gregoire,
cùng với đại diện của hơn 50 công ty từ quê nhà, có mặt ở Việt Nam để nỗ lực cỗ
vũ doanh thương cho người đối thủ cũ về quân sự của Mỹ. Tuy nhiên, điểm dừng
chân quan trọng nhất trên hành trình của Gregoire có lẽ là buổi lễ cắt băng
khánh thành trạm cảng nước sâu tại Cái Mép.
Dạo đó mọi thứ
trông tràn trề hy vọng. Nhưng hiện nay, cuộc liên doanh ấy, cũng như rất nhiều
công cuộc làm ăn khác ở Việt Nam, đã bị cản trở bởi các vụ bê bối và thủ tục
quan liêu. Đấy là một câu chuyện buồn nhưng lại chẳng phải là điều không bình
thường. Đất nước này từng trông thấy đã đi đúng đường để đạt được vị trí như
một nền kinh tế con hổ ở châu Á, một phiên bản nhỏ hơn của người láng giềng
khổng lồ Trung Quốc phía bắc. Quốc gia này tự hào có một dân số đông, trẻ
trung, tỷ lệ biết chữ rất cao, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nông
nghiệp tự cung tự cấp, một dải bờ biển dài sáng ngang với California hoặc Thái
Lan, và một vị trí chiến lược trong bối cảnh các tuyến đường thương mại trong
khu vực Thái Bình Dương. Thế mà, Việt Nam hiện đang ngày càng nhìn giống như
một kẻ bế tắc vô dụng- và là một ví dụ cho các nước vừa nổi lên như Miến Điện
hiểu chính xác được việc không tìm cách mở cửa kinh tế sẽ có hậu quả ra sao.
Cơ sở Cái Mép ở
Bà Rịa - Vũng Tàu,nằm trên bờ biển phía nam khoảng 50 dặm từ thành phố Hồ Chí
MInh, thủ đô thương mại của Việt Nam - có vẻ lý tưởng. Đấy là liên doanh giữa
tập đoàn khai thác cảng Marine SSA Carrix tại Seattle Mỹ và Saigon Port, một bộ
phận của National Shipping Lines , công ty vận tải biển nhà nước Việt Nam, được
biết đến với tên Vinalines. Sau sáu năm được SSA chuẩn bị, hải cảng trị giá 160
triệu đã được Thống đốc Gregoire xức dầu thánh, hứa hẹn sẽ bù được vào khoảng
trống rất lớn cho hạ tầng cơ sở của Việt Nam. Tuy nhiên, về sau này, dự án đã
khốn khổ vì cú song cước quen thuộc với nhiều nhà đầu tư nước ngoài: cuộc suy
thoái kinh tế toàn cầu cùng với nạn tham nhũng trong đất nước này.
Số lượng tàu chở
hàng ghé cảng và hai liên doanh nước ngoài khác do Vinalines điều hành đã giảm
xuống một nửa trong quý thứ hai giữa bối cảnh của cuộc chiến dành giá cả giữa
các nhà khai thác cảng khác đang gặp khó khăn với công suất chưa sử dụng hết.
Và công ty Vinalines chìm dưới một lượng nợ quá lớn cùng một vụ bê bối về tham
ô khiến đưa đến việc bắt giữ sáu giám đốc điều hành của nó trong tháng Bảy. Sau
ba tháng bị truy lùng bởi Interpol, chủ tịch Dương Chí Dũng, người từng đứng
đầu ngành quản lý công ty hàng hải này, đã bị bắt giữ ở nước ngoài và bị dẫn độ
về Việt Nam vào tháng trước.
Tóm lại, Việt
Nam đã đi từ việc không còn là đứa con cưng của đầu tư toàn cầu đến việc quản
lý yếu kém. Quá nhiều tiền bạc đã đổ vào đất nước này trong thập kỷ qua, đặc
biệt là sau khi nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào tháng Giêng năm 2007. Theo
Ngân hàng thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào năm đó đã vượt qua số lượng
tiền đô la đi đến Indonesia, Philippines, Thái Lan và các phần còn lại của khu
vực hợp lại. Các tổ chức cộng sản còn yếu kém của đất nước không hấp thụ nổi
tất cả các nguồn tiền ấy, dẫn đến một ví dụ trong sách giáo khoa mà các nhà
kinh tế học gọi đặt đồng vốn sai chỗ.
"Việt Nam
mang lại một trường hợp cổ điển của một nước nhỏ mang gánh một lực đẩy quá
lớn", theo Ruchir Sharma, tác giả cuốn Breakout Nations, lãnh đạo Morgan
Stanley Investments ở New York cho biết. "Các nhà lãnh đạo của đất nước
này không được chuẩn bị và cũng không có thẩm quyền để xử lý các dòng khởi động
rất lớn của vốn đầu tư nước ngoài trong thập kỷ qua."
Thoạt tiên,
lượng tiền mặt đi vào các công trình xây dựng các cơ sở hạ tầng có vẻ hữu ích,
chẳng hạn như cảng Cái Mép, các đường giao thông, cầu bắc ngang sông Hồng, sông
Mekong và các đường cao tốc - mặc dù có rất ít dấu hiệu cho thấy có sự nâng cấp
kể từ khi Mỹ rút đi từ năm 1973. Sau đó, lượng tiền vốn chảy vào các tòa nhà
chung cư, bao gồm cả các khu nhà ở sang trọng. Nhiều công trình trong số này,
đặc biệt là xung quanh thành phố Hồ Chí Minh, bỏ trống không người ở hoặc chưa
thực hiện xong. Và đã có các khu công nghiệp được dùng để đón tiếp tất cả những
nhà sản xuất nước ngoài, được xây dựng ở vùng ngoại ô của thành phố bằng cách
thay các cánh đồng lúa và trang trại trồng bưởi của người nông dân. Thật vậy,
riêng trong tỉnh Cửu Long đã có 20 công viên như thế trải dài khoảng 3.645 ha
được xây dựng trên đất nông nghiệp trước đây. Tuy nhiên, theo một báo cáo từ
các hãng tin Việt Nam chính thức, tính đến tháng Bảy, chỉ có 810 ha của các nhà
máy công trường ấy được nước ngoài thuê mướn.
Tình trạng đầu
tư quá mức này sẽ tạo ra một dư vị khó chịu của chính nó. Nhưng khi cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu làm sứt mẻ thương mại thế giới và làm chậm nguồn vốn
đầu tư nước ngoài chảy vào đầu năm 2008, các ngân hàng của Việt Nam, bị chính
phủ thúc giục mãnh liệt đã can thiệp vào để giữ cho lượng tiền vốn tiếp tục lưu
thông. Theo tính toán của HSBC, trong sáu năm qua tín dụng đã tăng gấp bốn lần.
Tệ hơn nữa, phần lớn số tiền này lại chảy vào các doanh nghiệp nhà nước kém
hiệu quả như Vinalines, dẫn đạo bởi các hệ thống cấu kết chân rết chính trị và
các thành phần được hưởng lợi từ các kết nối tốt với một hệ thống đảng hư hỏng.
Hãng thông tấn Reiters tính toán răng 100 công ty doanh nghiệp nhà nước lớn
nhất hiện nay mắc nợ vào khoảng 50 tỷ USD, hoặc quá một phần ba GDP của nước
này. Nếu một số các tập đoàn này sụp đổ - mà hầu như là sự thật sẽ đến chứ
không phải cường điệu - có thể gây nên một cuộc khủng hoảng ngân hàng rất lớn.
Cuộc bắt giữ
Nguyễn Đức Kiên, một trong những doanh nhân giàu nhất của đất nước, tiếp tục
cho thấy hệ thống tài chính kém cỏi của Việt Nam. Kiên đã bị bắt giữ vì bị cáo
buộc gian lận và quản lý kinh tế kém phát sinh từ những nỗ lực nhằm vực dậy
ngân hàng Á Châu mà ông tạo dựng nên. Tin tức cho thấy đã có lượng người gửi
tiền xếp hàng đến ngân hàng rút tiền ra, cổ phiếu giảm mạnh và gây ra một đột
biến trong giá vàng bán lẻ, nơi trú ẩn truyền thống của người Việt Nam muốn dự
trữ tiền.
Các khó khăn về
ngân hàng của Việt Nam không chỉ giới hạn trong Ngân hàng Thương mại Á Châu, mà
người sáng lập từng có mối quan hệ chặt chẽ với Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn
Dũng đã gây ra suy đoán rằng Đảng Cộng sản đang dồn nỗ lực để trấn áp nạn tham
nhũng trong chính phủ. Thống đốc Ngân hàng trung ương Nguyễn Văn Bình đã gây
chấn động trên cả nước vào tháng Bảy khi ông cảnh báo rằng những khoản nợ xấu
đã chiếm gần 9% tất cả các khoản vay - mâu thuẫn với số liệu chính thức từng
đưa ra một vài tháng trước đó vốn cho biết các khoản nợ xấu chỉ lên tới 4%. Tuy
nhiên, giới ngân hàng ngoại quốc cho biết con số thực tế có thể cao hơn nhiều.
Vì vậy, các ngân
hàng cần được tiêm chích một liều vốn. Ngày 4 tháng 9, Ủy ban Kinh tế Quốc hội
ước tính rằng khoảng $ 12 tỷ USD sẽ cần đến cho liều tiêm chủng ấy - nhưng đó
có lẽ chỉ là lượng mở đầu. Với dự trữ ngoại tế quốc tế chỉ có khoảng 14 tỷ USD,
theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), điều ấy thực không dễ dàng thực hiện . Chính
phủ có thể chạy máy in tiền, nhưng giải phái ấy sẽ đánh vào tiền đồng của đất
nước và đổ nhiên liệu vào nạn lạm phát mà chính quyền từng nỗ .lực với các
thành công hỗn hợp để chế ngự.
Có một cách khác
để cải thiện khó khăn là thu hút vốn đầu tư nước ngoài trở lại Việt Nam. Tuy
nhiên, những người nước ngoài từng một thời nhiệt tình hiện đang rụt rè khi
biết rằng mình đã bị con hổ ăn thịt. Năm nay đất nước này chỉ xoay sở chào mời
được một loại trái phiếu quốc tế - một hợp đồng trị giá 250 triệu USD cho Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Công thương của Viêt Nam, VietinBank. Sự kiện đó xảy ra
vào tháng trước khi mọi điều trở nên tồi tệ như hiện nay, và ngay cả như vậy
các ngân hàng đã chỉ tạo được một nửa số lượng trái phiếu mà họ dự kiến. Đấy là
nỗ lực đầu tiên nhằm gây dựng vốn sau khi Tập đoàn Công nghiệp Đóng tàu Việt
Nam Vinashin, đổ nợ với một khoản vay trị giá 600 triệu USD.
Tất cả những
điều này, có thể được lập luận là xuất phát từ các nền tảng kinh tế kém cỏi.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài bây giờ cũng ranh mãnh và có lý do khiến
khiến không tin tưởng vào chính quyền. Ví dụ như, trong cuộc phá sản của
Vinashin, Hà Nội đã không giải quyết đúng các khoản nợ của những gì rõ ràng là
của một doanh nghiệp do nhà nước kiểm soát, khiến gây ra các vụ kiện của giới
chủ sở hữu trái phiếu bao gồm cả công ty đầu tư Elliott Associates tại New
York.
Và nếu tất cả
những chuyện đó tựa như nanh vuốt của quỹ bảo hộ (hedge fund) Mỹ, còn có những
tình huống khác cho thấy mối nghi ngờ về cam kết với luật pháp của Việt Nam.
Một trong những tình huống ấy, Tập đoàn Dệt may Quốc tế (ITG), thuộc sở hữu của
ông trùm cổ phần tư nhân của Mỹ Wilbur Ross, đang chiến đấu với Phong Phú, công
ty đối tác của mình trong một liên doanh may quần áo được hình thành từ sáu năm
trước tại Đà Nẵng. Phong Phú được kiểm soát bởi Vinatex, Tập đoàn Dệt May Nhà
nước Việt Nam. Cuộc tranh chấp về các cam kết tài chính, lẽ ra phải được giải
quyết thông qua trọng tài tại Singapore. Tuy nhiên, các thành phần chính phủ
thông cảm với Vinatex đã gây áp lực các tòa án Việt Nam phải giải quyết những
vấn đề giữa hai công ty. Việc tham gia của tòa án Việt Nam đã mâu thuẫn trực
tiếp với thoả thuận của các bên để được phân xử ở Singpore.
Sự kết hợp giữa
nguồn lực tài chính trong nước bị khan hiếm và thái độ gần như tẩy chay của các
nhà đầu tư quốc tế khiến Việt Nam không còn bao nhiêu lựa chọn. Sư tình cho
thấy không thể loại trừ một gói cứu trợ hay tương tự. Dù Trung Quốc có nguồn
vốn nhưng thật khó để tưởng tượng người Việt Nam có thể đầu hàng dù một chút
mảy may chủ quyền của mình cho kẻ thù lịch sử. Hoa Kỳ, vốn đang nhích gần lại
Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á khác như một bức tường thành nhằm chống lại
sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực, dù giàu có nhưng cũng có
vấn đề tài chính của riêng mình. Tuy nhiên, Washington có thể dễ dàng hỗ trợ
trong việc hình thành một gói tài trợ của IMF. Một cuộc dàn xếp như thế thậm
chí có thể đặt nền tảng cho việc các tàu hải quân Mỹ quay trở lại các hải cảng
như vịnh Cam Ranh của Việt Nam .
Dù bằng cách
nào, cuộc vỡ cơn mộng thành Hổ hiện tại cho thấy rằng bất cứ khoản tiền nào
chảy vào Việt Nam cũng nên đi theo một sự ràng buộc. Cải cách sâu sắc, bao gồm
tư nhân hóa các doanh nghiệp quốc doanh ì ạch của đất nước và sự tuân thủ hơn
các quy định của pháp luật sẽ phải được yêu cầu đến. Cả hai sẽ làm khó chịu
giới cầm quyền, vốn đang chạy những chiếc Porsche và Bentley tranh đua với xe
kéo với xe đạp trên các đường phố tắc nghẽn của Hà Nội cũ. Người Việt Nam với
lòng tự hào chính đáng sẽ không muốn nhường nhịn nhiều đến ảnh hưởng cũa những
tổ chức tương tự như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Nhưng nếu họ có thể tìm được
cách để thay đổi mọi thứ cho tốt hơn một cách thận trọng, họ vẫn chưa mang lại
được một ví dụ tích cực hơn so với Miến Điện và các nền kinh tế mới nổi khác.
Nguồn: Newsweek
No comments:
Post a Comment