The Economist
October 24, 2012 11:16 PM
Tuần báo The Economist mới đây đã dành nguyên một trang
báo để viết về Nguyễn Chí Thiện. Tờ báo này gọi ông là Solzhenitsyn Việt Nam
ngay trên trang bìa số đề ngày 13-19 tháng 10 năm 2012. Sau đây là bản dịch
Việt ngữ bài báo viết về ông Thiện.
Nguyễn Chí Thiện, nhà thơ Việt Nam
qua đời ngày 2 tháng 10 hưởng thọ 73 tuổi.
Giấu trong ngực áo sơ mi của ông là 400 bài thơ ông viết trong những năm tù ngục. Ông nhớ rất rõ hôm đó là ngày 16 tháng 7 năm 1979, hai hôm sau ngày kỷ niệm phá ngục Bastille. Ngày tự do. Ông chạy thật nhanh vào tòa đại sứ Anh ở Hà Nội, qua mặt một người gác ở cổng, đòi gặp ông đại sứ. Người gác không ngăn được ông. Tại bàn tiếp khách, có mấy nhân viên người Việt đang ngồi. Ông xô những người này ra khi họ tìm cách chặn ông làm chiếc bàn đổ nghiêng. Trong phòng treo quần áo ở gần đó, một phụ nữ trẻ người Anh đang chải đầu, cô hoảng sợ đến nỗi làm rơi chiếc lược đang cầm trong tay. Tiếng động khiến ba người đàn ông Anh khác chạy ra. Ông dúi vào tay một trong ba người này xấp thơ của ông. Rồi ông lấy lại bình tĩnh và để yên cho công an bắt đem đi.
Và đó là chuyện ông gửi tập thơ ra khỏi Việt Nam. Ít lâu sau, ở ngoại quốc, tập thơ được in thành sách dưới tựa đề Hoa Địa Ngục và được dịch sang năm, sáu thứ tiếng. Tập thơ được trao giải thưởng của tổ chức Thi Ca Thế Giới năm 1985. Trong những nhà tù khác nhau nơi ông bị giam ông có mơ hồ nghe được chuyện này. Tại Hỏa Lò, một người coi tù đã giận giữ dí vào mặt ông một cuốn sách. Ông cảm thấy thú vị khi thấy cuốn sách đó chính là tập thơ của ông.
Về thể chất, ông không phải là người khỏe mạnh. Từ nhỏ ông đã bị lao. Gia đình ông đã phải bán nhà để lấy tiền thuốc men cho ông. Rồi kể từ năm 1960 trở đi, vì những tội khác nhau mà người ta gán ghép cho ông, như bất đồng với nhà nước về mấy vấn đề lịch sử, hay làm thơ chống nhà nước, ông bị tù nhiều lần trong những trại tù, những trại khổ sai. Chế độ ăn uống tồi tệ trong tù toàn cơm hẩm, nước muối đã khiến ông gầy tọp, tóc rụng rất nhiều khi mới ở tuổi 40. Nhưng bên trong, ông là một con người thép về đầu óc, trái tim và tâm hồn. Chính ý chí cương quyết đã khiến ông liều lĩnh chạy vào sứ quán Anh hôm ấy. Thực ra thì nhà cầm quyền càng hành hạ ông thì ông lại càng mạnh:
… Đảng đầy tôi trong rừng
Mong tôi xác bón từng gốc sắn
Tôi hóa thành người săn bắn
Và trở ra đầy ngọc rắn sừng tê
Đảng dìm tôi xuống bể
Mong tôi đáy nước chìm sâu
Tôi hóa thành người thơ lặn
Và nổi lên ngời sáng ngọc châu…
Mong tôi xác bón từng gốc sắn
Tôi hóa thành người săn bắn
Và trở ra đầy ngọc rắn sừng tê
Đảng dìm tôi xuống bể
Mong tôi đáy nước chìm sâu
Tôi hóa thành người thơ lặn
Và nổi lên ngời sáng ngọc châu…
Những viên ngọc đó là thơ của ông.
Ông cất những bài thơ ông viết thời trẻ tuổi trong chiếc ngăn kéo nơi bầy gián
đã nhấm nát. Nhưng nơi an toàn nhất để cất giữ những bài thơ ông viết là trí óc
của ông. Đó cũng là nơi trú ẩn bình yên duy nhất trong gần nửa cuộc đời của
ông. Trong tù, ông không có giấy bút, sách vở. Vì thế nên trong những đêm dài
yên ắng, ông đã nhập tâm ghi nhớ lại hàng trăm bài thơ ông viết. Ông sửa đi sửa
lại chúng rồi cất vào trí nhớ. Nếu không thích, ông lại xóa đi, bỏ ra ngòai trí
nhớ. Bài thơ nào bốc mùi, như bài thơ ông viết về Hồ Chí Minh, ông biến chúng
thành chiếc phi tiêu phóng đi:
Mặc thây bọn văn sĩ cô đầu
Vuốt râu, xoa đầu, mơn trớn Bác
Thế rồi tôi đi làm việc khác
Kệ cha Bác !
Vuốt râu, xoa đầu, mơn trớn Bác
Thế rồi tôi đi làm việc khác
Kệ cha Bác !
Khi ra đồng lao động cùng với các bạn
tù, trong số đó cũng có người làm thơ như ông, ông đọc cho họ nghe những bài
thơ ông viết và những người bạn tù của ông đáp lại cũng bằng thơ. Có người phải
đếm vần của những bài thơ trên đầu ngón tay để nhớ. Nhưng ông không làm thế vì
trí nhớ của ông đã giúp ông làm việc đó. Và điều đó cũng đã cứu ông. Sau năm
1979, ông lại bị tù trở lại và bị biệt giam trong suốt gần hết 8 năm. Chân cùm,
tay còng trong ngục tối. Thơ ông trở thành những tiếng khóc, tiếng thở khò khè,
nức nở, tiếng ho lao thổ huyết. Nhưng trong trí, ông vẫn tưởng tượng ra cảnh
ông đi câu, ngồi nhìn bình minh khỏa lấp đi những vì sao. Ông ngửi thấy mùi trà
hoa nhài, mùi tô phở đêm trên những con đường Hà Nội. Ông nhớ tới người chị tên
là Hảo đã dậy ông tiếng Pháp khi ông mới lên sáu. Nghĩ lại, ông thấy những năm
thuộc địa Pháp lại chính là những năm thiên đàng hạnh phúc nhất. Thế là ông lại
vung kiếm lên đường phiêu lưu cùng với d’Artagnan và những người bạn ngự lâm
pháo thủ. Bằng cách đó, ông đã sống sót qua được những năm tù ngục.
Ông tìm được một người bạn tù, một nhà thơ lớn của đời Đường là Lý Bạch. Ông cùng với Lý Bạch nhâm nhi rượu đựng trong chén hổ phách, nằm dài trên trường kỷ, ngắm bầy tiên nữ múa lụa bên hàng liễu hay dưới những cánh hoa đào rơi rụng. Ông nói chuyện với mặt trăng cùng Lý Bạch rồi say sưa trong cơn điên lãng mạn. Cả ông lẫn Lý Bạch đều phạm tội khi quân, chế nhạo chế độ nên lâm cảnh tù đầy. Nhưng những cảnh áp bức đè nén của thời xa xưa dường như vẫn còn có thể chịu nổi. Trong khi những cái loa gào lên phát mửa về những hạnh phúc và ánh sáng thì còn khủng khiếp hơn nhiều. Ra khỏi tù, hệt như Lý Bạch, ông đã phải đi bán rượu kiếm sống, có lúc phải làm nghề sửa xe đạp. Nhưng cũng không sống nổi. Kể từ năm 1995, ông được sang Mỹ tị nạn. Ông sống giản dị ở quận Cam chung nhà với mấy người bạn. Ông tìm được hạnh phúc an ủi bằng tách trà, điếu thuốc lá. Người ta nhớ ông với chiếc mũ lưỡi trai hay chiếc nón dạ đội trên đầu. Ông không có gì cho bạn bè ngoài những bài thơ và những kỷ niệm về những người bạn tù những năm tù đầy, nay đã chết, xác vùi trong những nấm mộ đầy vết chân trâu chân bò giẫm nát trên sườn đồi quanh các nhà tù. Đó, và những thù hận khôn nguôi về cái chế độ ở vùng đất mà nay vẫn còn cấm thơ văn của ông.
Nguyễn Chí Thiện
Năm 1964, trong lần đi tù đầu tiên,
ông viết rằng nếu mọi người nhìn thấy tâm can của ông, thì người ta sẽ thấy một
chiếc bút cũ và một lọ mực bám đầy bụi, hay một quán nghèo bên đường với một
ngọn đèn dầu làm bầu bạn an ủi. Nhưng cũng có một ruộng lúa đang chờ cơn mưa
rào tháng 8:
Để có thể trào dâng muôn đợt sóng
Và sóng kia những ngọn sóng bạc đầu
NGUYỄN CHÍ THIỆN, SOLZHENITSYN VIỆT NAM
Và sóng kia những ngọn sóng bạc đầu
NGUYỄN CHÍ THIỆN, SOLZHENITSYN VIỆT NAM
* * *
Dưới đây là nguyên văn bài viết:
Nguyen Chi Thien
Nguyen Chi Thien, a Vietnamese poet, died on October 2nd, aged 73
Oct 13th 2012 | from the print edition
Nguyen Chi Thien, a Vietnamese poet, died on October 2nd, aged 73
Oct 13th 2012 | from the print edition
THE poems were under his shirt, 400
of them. The date was July 16th 1979, just two days—he noted it—after the
anniversary of the fall of the Bastille. Freedom day. He ran through the gate
of the British embassy in Hanoi, past the guard, demanding to see the
ambassador. The guard couldn’t stop him. In the reception area, a few
Vietnamese were sitting at a table. He fought them off, and crashed the table
over. In a cloakroom nearby, an English girl was doing her hair; she dropped
her comb in terror. The noise brought three Englishmen out, and he thrust his
sheaf of poems at one of them. Then, calm again, he let himself be arrested.
Thus Nguyen Chi Thien sent his poems out of Communist Vietnam. They were published as “Flowers of Hell”, translated into half a dozen languages, and won the International Poetry Award in 1985. He heard of this, vaguely, in his various jails. In Hoa Lo, the “Hanoi Hilton”, one of his captors furiously waved a book in his face. To his delight, he saw it was his own.
He was not strong physically. He contracted TB as a boy; his parents had to sell their house to pay for his antibiotics. Then since 1960, on various pretexts—contesting the regime’s view of history, writing “irreverent” poetry—he had done several long spells in prison and labour camp. Hard rice and salt water had made him scrawny and thin-haired by his 40s. Internally, though, he was like steel: mind, heart, soul. Sheer determination had forced him through the British embassy that day. In fact, the more the regime hurt him, the more he thrived:
Thus Nguyen Chi Thien sent his poems out of Communist Vietnam. They were published as “Flowers of Hell”, translated into half a dozen languages, and won the International Poetry Award in 1985. He heard of this, vaguely, in his various jails. In Hoa Lo, the “Hanoi Hilton”, one of his captors furiously waved a book in his face. To his delight, he saw it was his own.
He was not strong physically. He contracted TB as a boy; his parents had to sell their house to pay for his antibiotics. Then since 1960, on various pretexts—contesting the regime’s view of history, writing “irreverent” poetry—he had done several long spells in prison and labour camp. Hard rice and salt water had made him scrawny and thin-haired by his 40s. Internally, though, he was like steel: mind, heart, soul. Sheer determination had forced him through the British embassy that day. In fact, the more the regime hurt him, the more he thrived:
They exiled me to the heart of the
jungle
Wishing to fertilise the manioc with my remains.
I turned into an expert hunter
And came out full of snake wisdom and rhino fierceness.
Wishing to fertilise the manioc with my remains.
I turned into an expert hunter
And came out full of snake wisdom and rhino fierceness.
They sank me into the ocean
Wishing me to remain in the depths.
I became a deep sea diver
And came up covered with scintillating pearls.
Wishing me to remain in the depths.
I became a deep sea diver
And came up covered with scintillating pearls.
The pearls were his poems. He kept
his early efforts in a table-drawer where he found them later, the paper gnawed
by cockroaches. The mind’s treasury was a safer place for them. It was also,
for almost half his life, the only place he had. In prison he was allowed no
pen, paper or books. He therefore memorised in the night quiet each one of his
hundreds of poems, carefully revised it for several days, and mentally filed it
away. If it didn’t work, he mentally deleted it. If it started to smell
bad—like the one about Ho Chi Minh, Vietnam’s first Communist leader—he turned
it into a stinging dart instead:
Let the hacks with their prostituted
pens
Comb his beard, pat his head, caress his arse!
To hell with him!
Comb his beard, pat his head, caress his arse!
To hell with him!
Walking out to till the fields with
his fellow prisoners, many of them poets too, he would recite his poems to them
and they would respond with theirs. Some of them counted the beats on their fingers
to remember. He never did; memory alone served him. It saved him, too. After
1979 he spent the best part of eight years in solitary, in stocks or shackles
in the dark. His poems became sobs, wheezes, bloody tubercular coughs. But in
his mind he still set out fishing, and watched dawn overtake the stars. He
sniffed the jasmine and hot noodle soup on a night street in Hanoi. He
remembered his sister Hao teaching him French at six—what a paradise the French
occupation seemed, in retrospect!—and went swashbuckling again with d’Artagnan
and his crew. That way, he kept alive.
Drinking with Li Bai
A favourite prison companion was Li
Bai, the great poet of eighth-century China. He would sup wine with him from
amber cups, loll on chaises longues, watch pretty maidens weaving silk under
the willow trees and the peach blossoms falling. He would talk to the moon with
him and get wildly, romantically drunk. There was a flavour here of his own
careless youth, his teahouse years of girls and smoking. Both he and Li Bai had
offended the emperor, mocked the education system, and been punished. But
somehow the oppressions of the distant past seemed bearable. Not so the acts of
Vietnam’s red demons, with their nauseating loudspeaker jingles about Happiness
and Light.
Out of prison, Li Bai-like, he dealt in rice brandy for a while, and tried to sell bicycle spokes. He could not make a go of it. From 1995 he managed to get shelter in America. He lived humbly in Little Saigon in Orange County, California, lodging with fellow countrymen. Green tea and smoking remained his chief comforts. A flat cap or a fedora were his trademarks. He had nothing to share but his poems and his memories of fellow poets, whose cattle-trodden graves now dotted the hills around the labour camps. That, and his roaring hatred of the regime in his country, where his writings remained banned.
If people could see his heart, he had written back in 1964, during his first spell in prison, they would see it was an ancient pen and inkstand, gathering dust; or a poor roadside inn, offering only the comfort of an oil lamp. But it was also a paddy field waiting for the flood-rains of August,
Out of prison, Li Bai-like, he dealt in rice brandy for a while, and tried to sell bicycle spokes. He could not make a go of it. From 1995 he managed to get shelter in America. He lived humbly in Little Saigon in Orange County, California, lodging with fellow countrymen. Green tea and smoking remained his chief comforts. A flat cap or a fedora were his trademarks. He had nothing to share but his poems and his memories of fellow poets, whose cattle-trodden graves now dotted the hills around the labour camps. That, and his roaring hatred of the regime in his country, where his writings remained banned.
If people could see his heart, he had written back in 1964, during his first spell in prison, they would see it was an ancient pen and inkstand, gathering dust; or a poor roadside inn, offering only the comfort of an oil lamp. But it was also a paddy field waiting for the flood-rains of August,
So that it can overflow into a
thousand waves,
White-crested ones that will sweep everything away!
White-crested ones that will sweep everything away!
No comments:
Post a Comment