TS Nguyễn Quang
A
Ghi chú: Một bài phỏng vấn giữa phóng viên Lao động với TS Nguyễn Quang A, đã được
biên tập và đăng chính thức. Xin đưa dưới đây cả bản gốc ban đầu và bản được
biên tập để tiện cho độc giả theo dõi.
Bản đầu tiên là bản gốc, những
đoạn màu đỏ sẫm được biên tập thay thế bằng nội dung khác, còn những đoạn màu đỏ tươi đã bị lược bỏ ở bản được biên
tập.
----------------------------------
Sự thất bại của mô hình Tập đoàn kinh tế
Giải pháp cho các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước là
chúng phải thuộc quyền quản lý của một Công ty quản lý tài sản quốc gia, thực
hiện quản lý DNNN như một ông chủ tư nhân, Công ty này hoạt động theo một luật
riêng do QH đưa ra, có trách nhiệm giải trình trước CP, trước QH và quan trọng
nhất là trước công chúng. TS Nguyễn Quang A trao đổi với Lao động xung quanh
việc 2 Tập đoàn VNIC và HUD kết thúc mô hình tập đoàn.
PV: Tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam (VNIC) và Tập
đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD)đã kết thúc hoạt động theo mô hình
tập đoàn kinh tế. Thưa TS, đây là một biểu hiện cho
thấy sự thất bại của mô hình tập đoàn kinh tế? Hay đây là vấn đề quản lý tập
đoàn?
TS Nguyễn Quang A: Đây là thất bại của mô hình tập đoàn (TĐKT), nói trắng ra là
sự thất bại mô hình Thủ tướng chủ quản, để trở lại mô hình Bộ chủ quản dù cả 2
cơ chế đều dở cả. Từ năm 2006, tôi đã có ý kiến đặt vấn đề sự hợp pháp hay
không của mô hình, và dự đoán thế nào mô hình này cũng thất bại. Tất nhiên,
sự thất bại của HUD và VNIC có nguyên nhân từ
việc quản lý, nguyên nhân này cũng lớn nhưng không phải là nguyên nhân chính.
PV: Thiếu sự cạnh tranh phải chăng là nguyên nhân chính
cho sự thất bại của VNIC, của HUD nói riêng và mô hình DNNN nói chung, thưa TS?
TS Nguyễn Quang A: Tập đoàn là việc học
tập theo kiểu sao chép các mô hình TĐKT từ những năm 60 thế kỷ trước của Nhật
Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, điều khác biệt cơ bản là TĐKT Nhật, Hàn đều là
những công ty tư nhân phải cạnh tranh. Yếu tố tư nhân khiến các TĐKT Nhật, Hàn
có động lực về lợi nhuận, động lực phát triển rất lành mạnh. Và điều quan trọng
là chúng phải cạnh tranh, cả trong và ngoài nước. TĐKT Việt Nam thì không những
không phải cạnh tranh mà còn “được” ràng buộc bởi ngân sách mềm. Thiếu vốn thì được cấp vốn. Nợ nần thì được khoanh, giãn nợ.
Thua lỗ thì được “tái cơ cấu”. Sai thì được sửa. Điều này tạo cho TĐKT
tư tưởng, suy nghĩ luôn có thể nhờ vả. Nói hình tượng,
nó giống với đứa con hư của một nhà trọc phú.
Về lý thuyết, DN sẽ không hiệu quả khi không phải cạnh
tranh và có ràng buộc ngân sách mềm. Lý thuyết này người ta đã viết thành sách
từ 50 năm nay và cũng được kiểm chứng cả nửa thế kỷ rồi.
Tất nhiên, ngay cả khi có cạnh tranh lành lạnh, bị ràng
buộc ngân sách cứng thì cũng chưa đủ cho đảm bảo cho DNNN hoạt động hiệu quả.
Chúng vẫn có thể thất bại vì nếu vấn đề quản lý kém. Nếu
DN không những ít bị áp lực cạnh tranh, có ràng buộc ngân sách mềm và cùng với
quản lý kém thì thất bại là dễ hiểu (có DNNN phải cạnh tranh và có ràng buộc
ngân sách cứng có thể hoạt động hiệu quả, thí dụ điện thoại di động).
Về mặt thực tế, từ 10-15 năm trước người ta phản đối mạnh
cơ chế bộ chủ quản, Bộ vừa là chủ sở hữu, vừa quản lý ngành dọc. Đây là cơ chế
không hay vì tất cả quan chức đi làm kinh tế trong khi động lực của họ là động
lực chính trị chứ không phải động lực kinh tế. Bộ chủ quản tức cơ quan hành
pháp lại đi làm kinh tế, nên hỏng từ gốc. Nhưng thà để TĐKT chuyển về mô hình bộ chủ quản, vì dẫu sao
chúng còn chịu sự quản lý của Bộ, hơn là mô hình TĐKT khi chức năng giám sát
kiểm tra quản lý của các Bộ khác bị vô hiệu hóa.
PV: Thưa TS, vấn đề tái cơ cấu DNNN đang được bàn thảo
tại Hội nghị TƯ 6, DNNN cần quản lý thế nào để chúng thực sự mang lại hiệu quả?
TS Nguyễn Quang A: Muốn giải quyết cần
có một Công ty quản lý tài sản quốc gia, thực hiện quản lý DNNN như một ông chủ tư nhân, hoạt động theo một luật riêng
do QH đưa ra, có trách nhiệm giải trình trước CP, trước QH và quan trọng nhất
là trước công chúng. Tại sao nhà nước phải nắm các DN
xây dựng, xi măng, dệt may? Theo tôi, những gì Nhà nước không cần phải nắm
thì cần tư nhân hóa một cách triệt để. Bởi tư nhân hóa không có nghĩa là giao, mà là bán một cách
sòng phẳng cho tư nhân, đưa tiền vào kho bạc để NN trả nợ, đầu tư hạ tầng, phát
triển giáo dục, y tế. Những gì Nhà nước nắm thì cũng phải buộc các DNNN
thực hiện như DN tư nhân. Ông chủ làm đúng chức năng ông chủ. Cơ bản nhất là cơ
chế để DNNN phải cạnh tranh, thậm chí thôn tính nhau, bởi chỉ có cạnh tranh mới
có thể tạo ra động lực và phải buộc chúng đối mặt với ràng buộc ngân sách cứng.
PV: Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Phạm Viết
Muôn hôm qua đã đánh giá: Việc thí điểm hình thành 2 tập đoàn này “khi thực
tiễn chưa đặt ra yêu cầu, đòi hỏi một mô hình tổ chức như vậy”. Trong bối cảnh
“Quan hệ sản xuất đi trước một bước nên việc thí điểm 2 tập đoàn này không
thành công? Vấn đề là tính thời điểm, thưa ông?
TS Nguyễn Quang A: Đây là một
cách nhìn khó có thể thấy rõ được nguyên nhân thất bại của mô hình nói chung,
chứ không phải chỉ 2 TĐKT này. Việc phát triển thành
TĐKT là quá trình phát triển tự nhiên của DN, quá trình này phải gắn kèm với
phát triển quy mô và đào tạo nhân lực, chứ không thể Nhà nước muốn ép thế nào
cũng được. Muốn gọi là gì thì gọi, nhưng đó là việc của DN chứ không phải của Chính phủ.
PV: Phát biểu trước QH, ĐBQH Lê Thị Nga đánh
giá: Ngay từ đầu chúng ta đã thí điểm mô hình TĐKT trên phạm vi rất rộng, tập
trung vào những lĩnh vực trọng yếu, xương sống của nền kinh tế. Ngay cả khi
Vinashin bắt đầu đổ vỡ, ngay cả khi chưa có tổng kết thí điểm, lại có thêm 4
tập đoàn mới được thành lập. Phải chăng Chính phủ đã quá nóng vội, thưa TS?
TS Nguyễn Quang A: Nếu xét
thêm quan điểm kinh tế- chính trị học điều này không khó lý giải. Chính phủ
muốn tạo ra các quả đấm, muốn nắm được nhiều quyền lực kinh tế càng tốt. Về
phía DN, họ cũng muốn thuộc quyền Thủ tướng để có tiếng nói, có nguồn lực…Vấn
đề đáng lẽ phải có sự kiềm chế, giám sát, kiểm soát và cân bằng chứ không thể
để quyền lực kinh tế tập trung như vậy. 13 TĐKT hiện nay chiếm bao nhiêu nguồn
lực quốc gia, bao nhiêu tín dụng, bao nhiêu đất đai. Chắc ½ của DNNN rồi.
PV: Thưa TS, mô hình Ban KT TƯ đang được xúc tiến tài
lập, liệu đây có phải là một kênh kiểm soát hữu hiệu?
TS Nguyễn Quang A: Đây là một mô hình “đặc thù Việt Nam”
dù trên thế giới, đảng nào cũng có bộ phận nghiên cứu kinh tế. Theo tôi, nếu
lập lại mô hình này và nó hoạt động tốt sẽ tạo ra được một kênh kiểm tra, giám
sát, và như thế sẽ tốt hơn là không có nó. Nhưng
nếu chỉ dừng ở mức độ là một Ban của Đảng, không có quyền kiểm tra, giám sát,
đề xuất thì việc thành lập cũng vô nghĩa.
Xin trân trọng cảm ơn TS Nguyễn Quang A
Đào Tuấn (thực hiện)
——-
Cần một cơ chế để doanh nghiệp nhà nước phải cạnh tranh
Thứ sáu 05/10/2012 05:19
“Giải pháp cho các tập đoàn, TCty nhà nước là chúng phải
thuộc quyền quản lý của một Cty quản lý tài sản quốc gia, thực hiện quản lý
DNNN Cty này hoạt động theo một luật riêng do Quốc hội đưa ra, có trách nhiệm
giải trình trước Chính phủ, Quốc hội và nhất là trước công chúng” – TS Nguyễn
Quang A trao đổi với Lao Động xung quanh việc kết thúc thí điểm mô hình tập
đoàn của VNIC và HUD.
Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng VN (VNIC) và Tập đoàn Phát
triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD) đã kết thúc thí điểm mô hình tập đoàn kinh
tế. Thưa TS, đâu là nguyên nhân?
- Kết thúc hoạt động của HUD và VNIC có nguyên nhân từ
việc quản lý, nguyên nhân này cũng lớn nhưng không phải là nguyên nhân chính.
Tập đoàn là việc học tập theo kiểu sao chép các mô hình
TĐKT từ những năm 60 thế kỷ trước của Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, điều
khác biệt cơ bản là TĐKT Nhật, Hàn đều là những Cty tư nhân phải cạnh tranh.
Yếu tố tư nhân khiến các TĐKT Nhật, Hàn có động lực về lợi nhuận, động lực phát
triển rất lành mạnh. Và điều quan trọng là chúng phải cạnh tranh, cả trong và
ngoài nước. TĐKT VN thì không những không phải cạnh tranh mà còn “được” ràng
buộc bởi ngân sách mềm. Điều này tạo cho TĐKT tư tưởng luôn có thể nhờ vả.
Về lý thuyết, DN sẽ không hiệu quả khi không phải cạnh
tranh và có ràng buộc ngân sách mềm. Lý thuyết này người ta đã viết thành sách
từ 50 năm nay và cũng được kiểm chứng cả nửa thế kỷ rồi.
Tất nhiên, ngay cả khi có cạnh tranh lành mạnh, bị ràng buộc
ngân sách cứng thì cũng chưa đủ đảm bảo cho DNNN hoạt động hiệu quả. Chúng vẫn
có thể thất bại vì nếu vấn đề quản lý kém.
Về mặt thực tế, từ 10-15 năm trước người ta phản đối mạnh
cơ chế bộ chủ quản, bộ vừa là chủ sở hữu, vừa quản lý ngành dọc. Đây là cơ chế
không hay vì phần lớn quan chức đi làm kinh tế trong khi động lực của họ là
động lực chính trị chứ không phải động lực kinh tế. Bộ chủ quản tức cơ quan
hành pháp lại đi làm kinh tế, nên đây là một nghịch lý.
Việc phát triển thành TĐKT là quá trình phát triển tự
nhiên của DN, quá trình này phải gắn kèm với phát triển quy mô và đào tạo nhân
lực, chứ không thể Nhà nước muốn ép thế nào cũng được. Muốn gọi là gì thì gọi,
nhưng đó là việc của DN chứ không phải của chính quyền.
Thưa TS, có thể mô hình Ban Kinh tế Trung ương được xúc
tiến tái lập, liệu đây có phải là một kênh kiểm soát hữu hiệu?
- Đây là một mô hình “đặc thù VN” dù trên thế giới, đảng
nào cũng có bộ phận nghiên cứu kinh tế. Theo tôi, nếu lập lại mô hình này và nó
hoạt động tốt sẽ tạo ra được một kênh kiểm tra, giám sát và như thế sẽ tốt hơn.
Nhưng nếu chỉ dừng ở mức độ là một ban của Đảng, không có quyền kiểm tra, giám
sát, đề xuất thì không mấy hiệu quả.
Thưa TS, vấn đề tái cơ cấu DNNN đang được bàn thảo tại
Hội nghị T.Ư 6, DNNN cần quản lý thế nào để chúng thực sự mang lại hiệu quả?
- Muốn giải quyết cần có một Cty quản lý tài sản quốc
gia, thực hiện quản lý DNNN, hoạt động theo một luật riêng do Quốc hội đưa ra,
có trách nhiệm giải trình trước Chính phủ, trước Quốc hội và quan trọng nhất là
trước công chúng. Theo tôi, những gì Nhà nước không cần phải nắm thì không nên
nắm. Những gì Nhà nước nắm thì phải buộc các DNNN thực hiện như các loại hình
DN khác. Cơ bản nhất là cơ chế để DNNN phải cạnh tranh, thậm chí thôn tính
nhau, bởi chỉ có cạnh tranh mới tạo ra động lực và phải buộc chúng đối mặt với
ràng buộc ngân sách cứng.
- Xin trân trọng cảm ơn!
Nguồn: Lao Động
Gốc Sậy đã nói
NGUYÊN GỐC BÀI PHỎNG VẤN TS NGUYỄN QUANG A CỦA ĐÀO TUẤN:
http://daotuanddk.wordpress.com/2012/10/05/hud-va-nhung-dua-con-hu-cua-nha-troc-phu/
TẤT CẢ GỒM CÓ 06 CÂU HỎI VÀ TRẢ LỜI, TỔNG CỘNG 3.494 CHỮ.
http://daotuanddk.wordpress.com/2012/10/05/hud-va-nhung-dua-con-hu-cua-nha-troc-phu/
TẤT CẢ GỒM CÓ 06 CÂU HỎI VÀ TRẢ LỜI, TỔNG CỘNG 3.494 CHỮ.
BÀI ĐĂNG TRÊN BÁO LAO ĐỘNG (http://laodong.com.vn/Kinh-doanh/Can-mot-co-che-de-doanh-nghiep-nha-nuoc-phai-canh-tranh/86554.bld)
ĐƯỢC/BỊ BIÊN TẬP CÒN 03 CÂU HỎI, TỔNG CỘNG 740 CHỮ.
BẢN MÀ BBS BẢO: “Xin đưa dưới đây cả bản gốc ban đầu”
CŨNG CHỈ CÓ TỔNG CỘNG 2.754 CHỮ THÔI Ạ
Tháng Mười 5, 2012 in Phỏng vấn
“Đây là thất bại của mô hình tập đoàn, nói trắng ra là sự thất bại mô hình
Thủ tướng chủ quản, để trở lại mô hình Bộ chủ quản, dù cả 2 cơ chế đều dở cả”- TS Nguyễn Quang A.
PV: Tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam (VNIC) và Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD) đã kết thúc hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế. Thưa TS, đây là một biểu hiện cho thấy sự thất bại của mô hình tập đoàn kinh tế? Hay đây là vấn đề quản lý tập đoàn?
TS Nguyễn Quang A: Đây là thất bại của mô hình tập đoàn (TĐKT), nói trắng ra là sự thất bại mô hình Thủ tướng chủ quản, để trở lại mô hình Bộ chủ quản dù cả 2 cơ chế đều dở cả. Từ năm 2006, tôi đã có ý kiến đặt vấn đề sự hợp pháp hay không của mô hình, và dự đoán thế nào mô hình này cũng thất bại. Tất nhiên, sự thất bại của HUD và VNIC có nguyên nhân từ việc quản lý, nguyên nhân này cũng lớn nhưng không phải là nguyên nhân chính.
PV: Thiếu
sự cạnh tranh phải chăng là nguyên nhân chính cho sự thất bại của VNIC, của HUD
nói riêng và mô hình DNNN nói chung, thưa TS?
TS Nguyễn Quang A: Tập đoàn là việc học tập theo kiểu sao chép các mô hình TĐKT từ những năm 60 thế kỷ trước của Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, điều khác biệt cơ bản là TĐKT Nhật, Hàn đều là những công ty tư nhân phải cạnh tranh. Yếu tố tư nhân khiến các TĐKT Nhật, Hàn có động lực về lợi nhuận, động lực phát triển rất lành mạnh. Và điều quan trọng là chúng phải cạnh tranh, cả trong và ngoài nước. TĐKT Việt Nam thì không những không phải cạnh tranh mà còn “được” ràng buộc bởi ngân sách mềm. Thiếu vốn thì được cấp vốn. Nợ nần thì được khoanh, giãn nợ. Thua lỗ thì được “tái cơ cấu”. Sai thì được sửa. Điều này tạo cho TĐKT tư tưởng, suy nghĩ luôn có thể nhờ vả. Nói hình tượng, nó giống với đứa con hư của một nhà trọc phú.
Về lý thuyết, DN sẽ không hiệu quả khi không phải cạnh tranh và có ràng buộc ngân sách mềm. Lý thuyết này người ta đã viết thành sách từ 50 năm nay và cũng được kiểm chứng cả nửa thế kỷ rồi.
Tất nhiên, ngay cả khi có cạnh tranh lành lạnh, bị ràng buộc ngân sách cứng thì cũng chưa đủ cho đảm bảo cho DNNN hoạt động hiệu quả. Chúng vẫn có thể thất bại vì nếu vấn đề quản lý kém. Nếu DN không những ít bị áp lực cạnh tranh, có ràng buộc ngân sách mềm và cùng với quản lý kém thì thất bại là dễ hiểu (có DNNN phải cạnh tranh và có ràng buộc ngân sách cứng có thể hoạt động hiệu quả, thí dụ điện thoại di động).
Về mặt thực tế, từ 10-15 năm trước người ta phản đối mạnh cơ chế bộ chủ quản, Bộ vừa là chủ sở hữu, vừa quản lý ngành dọc. Đây là cơ chế không hay vì tất cả quan chức đi làm kinh tế trong khi động lực của họ là động lực chính trị chứ không phải động lực kinh tế. Bộ chủ quản tức cơ quan hành pháp lại đi làm kinh tế, nên hỏng từ gốc. Nhưng thà để TĐKT chuyển về mô hình bộ chủ quản, vì dẫu sao chúng còn chịu sự quản lý của Bộ, hơn là mô hình TĐKT khi chức năng giám sát kiểm tra quản lý của các Bộ khác bị vô hiệu hóa.
TS Nguyễn Quang A: Tập đoàn là việc học tập theo kiểu sao chép các mô hình TĐKT từ những năm 60 thế kỷ trước của Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, điều khác biệt cơ bản là TĐKT Nhật, Hàn đều là những công ty tư nhân phải cạnh tranh. Yếu tố tư nhân khiến các TĐKT Nhật, Hàn có động lực về lợi nhuận, động lực phát triển rất lành mạnh. Và điều quan trọng là chúng phải cạnh tranh, cả trong và ngoài nước. TĐKT Việt Nam thì không những không phải cạnh tranh mà còn “được” ràng buộc bởi ngân sách mềm. Thiếu vốn thì được cấp vốn. Nợ nần thì được khoanh, giãn nợ. Thua lỗ thì được “tái cơ cấu”. Sai thì được sửa. Điều này tạo cho TĐKT tư tưởng, suy nghĩ luôn có thể nhờ vả. Nói hình tượng, nó giống với đứa con hư của một nhà trọc phú.
Về lý thuyết, DN sẽ không hiệu quả khi không phải cạnh tranh và có ràng buộc ngân sách mềm. Lý thuyết này người ta đã viết thành sách từ 50 năm nay và cũng được kiểm chứng cả nửa thế kỷ rồi.
Tất nhiên, ngay cả khi có cạnh tranh lành lạnh, bị ràng buộc ngân sách cứng thì cũng chưa đủ cho đảm bảo cho DNNN hoạt động hiệu quả. Chúng vẫn có thể thất bại vì nếu vấn đề quản lý kém. Nếu DN không những ít bị áp lực cạnh tranh, có ràng buộc ngân sách mềm và cùng với quản lý kém thì thất bại là dễ hiểu (có DNNN phải cạnh tranh và có ràng buộc ngân sách cứng có thể hoạt động hiệu quả, thí dụ điện thoại di động).
Về mặt thực tế, từ 10-15 năm trước người ta phản đối mạnh cơ chế bộ chủ quản, Bộ vừa là chủ sở hữu, vừa quản lý ngành dọc. Đây là cơ chế không hay vì tất cả quan chức đi làm kinh tế trong khi động lực của họ là động lực chính trị chứ không phải động lực kinh tế. Bộ chủ quản tức cơ quan hành pháp lại đi làm kinh tế, nên hỏng từ gốc. Nhưng thà để TĐKT chuyển về mô hình bộ chủ quản, vì dẫu sao chúng còn chịu sự quản lý của Bộ, hơn là mô hình TĐKT khi chức năng giám sát kiểm tra quản lý của các Bộ khác bị vô hiệu hóa.
PV: Phó
chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Phạm Viết Muôn hôm qua đã đánh giá: Việc thí điểm
hình thành 2 tập đoàn này “khi thực tiễn chưa đặt ra yêu cầu, đòi hỏi một mô
hình tổ chức như vậy”. Trong bối cảnh “Quan hệ sản xuất đi trước một bước nên
việc thí điểm 2 tập đoàn này không thành công? Vấn đề là tính thời điểm, thưa
ông?
TS Nguyễn Quang A: Đây là một cách nhìn
khó có thể thấy rõ được nguyên nhân thất bại của mô hình nói chung, chứ không
phải chỉ 2 TĐKT này. Việc phát triển thành TĐKT là quá trình phát triển tự
nhiên của DN, quá trình này phải gắn kèm với phát triển quy mô và đào tạo nhân
lực, chứ không thể Nhà nước muốn ép thế nào cũng được. Muốn gọi là gì thì gọi,
nhưng đó là việc của DN chứ không phải của CP. Nếu lý giải như vậy thì sẽ rất
khó cho việc giảm bớt, chỉ còn 5-7 TĐKT như tính toán của CP tới đây.
PV: Phát
biểu trước QH, ĐBQH Lê Thị Nga đánh giá: Ngay từ đầu chúng ta đã thí điểm mô
hình TĐKT trên phạm vi rất rộng, tập trung vào những lĩnh vực trọng yếu, xương
sống của nền kinh tế. Ngay cả khi Vinashin bắt đầu đổ vỡ, ngay cả khi chưa có
tổng kết thí điểm, lại có thêm 4 tập đoàn mới được thành lập. Phải chăng Chính
phủ đã quá nóng vội, thưa TS?
TS Nguyễn Quang A: Nếu xét thêm quan điểm kinh tế- chính trị học điều này không khó lý giải. Chính phủ muốn tạo ra các quả đấm, muốn nắm được nhiều quyền lực kinh tế càng tốt. Về phía DN, họ cũng muốn thuộc quyền Thủ tướng để có tiếng nói, có nguồn lực…Vấn đề đáng lẽ phải có sự kiềm chế, giám sát, kiểm soát và cân bằng chứ không thể để quyền lực kinh tế tập chung như vậy. 13 TĐKT hiện nay chiếm bao nhiêu nguồn lực quốc gia, bao nhiêu tín dụng, bao nhiêu đất đai. Chắc ½ của DNNN rồi.
TS Nguyễn Quang A: Nếu xét thêm quan điểm kinh tế- chính trị học điều này không khó lý giải. Chính phủ muốn tạo ra các quả đấm, muốn nắm được nhiều quyền lực kinh tế càng tốt. Về phía DN, họ cũng muốn thuộc quyền Thủ tướng để có tiếng nói, có nguồn lực…Vấn đề đáng lẽ phải có sự kiềm chế, giám sát, kiểm soát và cân bằng chứ không thể để quyền lực kinh tế tập chung như vậy. 13 TĐKT hiện nay chiếm bao nhiêu nguồn lực quốc gia, bao nhiêu tín dụng, bao nhiêu đất đai. Chắc ½ của DNNN rồi.
PV: Thưa
TS, mô hình Ban KT TƯ đang được xúc tiến tài lập, liệu đây có phải là một kênh
kiểm soát hữu hiệu?
TS Nguyễn Quang A: Đây là một mô hình “đặc thù Việt Nam” dù trên thế giới, đảng nào cũng có bộ phận nghiên cứu kinh tế. Theo tôi, nếu lập lại mô hình này và nó hoạt động tốt sẽ tạo ra được một kênh kiểm tra, giám sát, và như thế sẽ tốt hơn là không có nó. Nhưng nếu chỉ dừng ở mức độ là một Ban của Đảng, không có quyền kiểm tra, giám sát, đề xuất thì việc thành lập cũng vô nghĩa.
TS Nguyễn Quang A: Đây là một mô hình “đặc thù Việt Nam” dù trên thế giới, đảng nào cũng có bộ phận nghiên cứu kinh tế. Theo tôi, nếu lập lại mô hình này và nó hoạt động tốt sẽ tạo ra được một kênh kiểm tra, giám sát, và như thế sẽ tốt hơn là không có nó. Nhưng nếu chỉ dừng ở mức độ là một Ban của Đảng, không có quyền kiểm tra, giám sát, đề xuất thì việc thành lập cũng vô nghĩa.
PV: Thưa
TS, vấn đề tái cơ cấu DNNN đang được bàn thảo tại Hội nghị TƯ 6, DNNN cần quản
lý thế nào để chúng thực sự mang lại hiệu quả?
TS Nguyễn Quang A: Muốn giải quyết cần có một Công ty quản lý tài sản quốc gia, thực hiện quản lý DNNN như một ông chủ tư nhân, hoạt động theo một luật riêng do QH đưa ra, có trách nhiệm giải trình trước CP, trước QH và quan trọng nhất là trước công chúng. Tại sao nhà nước phải nắm các DN xây dựng, xi măng, dệt may? Theo tôi, những gì Nhà nước không cần phải nắm thì cần tư nhân hóa một cách triệt để. Bởi tư nhân hóa không có nghĩa là giao, mà là bán một cách sòng phẳng cho tư nhân, đưa tiền vào kho bạc để NN trả nợ, đầu tư hạ tầng, phát triển giáo dục, y tế. Những gì Nhà nước nắm thì cũng phải buộc các DNNN thực hiện như DN tư nhân. Ông chủ làm đúng chức năng ông chủ. Cơ bản nhất là cơ chế để DNNN phải cạnh tranh, thậm chí thôn tính nhau, bởi chỉ có cạnh tranh mới có thể tạo ra động lực và phải buộc chúng đối mặt với ràng buộc ngân sách cứng.
TS Nguyễn Quang A: Muốn giải quyết cần có một Công ty quản lý tài sản quốc gia, thực hiện quản lý DNNN như một ông chủ tư nhân, hoạt động theo một luật riêng do QH đưa ra, có trách nhiệm giải trình trước CP, trước QH và quan trọng nhất là trước công chúng. Tại sao nhà nước phải nắm các DN xây dựng, xi măng, dệt may? Theo tôi, những gì Nhà nước không cần phải nắm thì cần tư nhân hóa một cách triệt để. Bởi tư nhân hóa không có nghĩa là giao, mà là bán một cách sòng phẳng cho tư nhân, đưa tiền vào kho bạc để NN trả nợ, đầu tư hạ tầng, phát triển giáo dục, y tế. Những gì Nhà nước nắm thì cũng phải buộc các DNNN thực hiện như DN tư nhân. Ông chủ làm đúng chức năng ông chủ. Cơ bản nhất là cơ chế để DNNN phải cạnh tranh, thậm chí thôn tính nhau, bởi chỉ có cạnh tranh mới có thể tạo ra động lực và phải buộc chúng đối mặt với ràng buộc ngân sách cứng.
Xin trân trọng cảm ơn TS Nguyễn Quang A
No comments:
Post a Comment