Saturday 6 October 2012

NHÀ THƠ NGUYỄN CHÍ THIỆN ĐÃ ĐI (Nguyễn Khoa Thái Anh)







Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tác giả tập thơ “Hoa Địa Ngục” người đã trải qua 27 năm ở các trại tù Cộng Sản đã trút hơi thở cuối cùng lúc 7g 17 phút sáng ngày Thứ Ba 2 tây, tháng 10, 2012 tại bệnh viện Western Medical Center ở Santa Ana, thọ 73 tuổi.

Theo lời nhà văn Trần Phong Vũ, một trong những người bạn thường hay đến nhà thăm và săn sóc ông thời gian sau này, kể cả 5 ngày cuối cùng khi ông nhập viện, bác sĩ của bệnh viện cho biết tình trạng nguy kịch của ông lúc sáng sớm thứ Ba. Ông Nguyễn Chí Thiện từ chối trợ giúp “Life Support” để kéo dài sự sống nên anh Trần Phong Vũ từ nhà lái xe vội đến bệnh viện cũng không kịp gặp ông trước khi mất.

Một tháng trước, anh Trần Phong Vũ đưa ông Thiện đến một bác sĩ chụp quang tuyến “Cat Scan” và họ đã nghi là phổi có vấn đề có thể ung thư nhưng ông không chịu làm bất cứ một thủ tục khám nghiệm gì sau đó. Đến khi đưa vào bệnh viện Thứ Tư vừa qua vì nhiễm trùng phổi, bệnh viện làm một số xét nghiệm cũng đề cập đến dấu hiệu ung thư bên cạnh hoạt động suy yếu dần của tim mạch.

Ông Nguyễn Công Giản, người anh ruột của ông Thiện, cựu Thiếu tá Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cũng là tù nhân 13 năm trong học tập cải tạo, đón máy bay từ Virginia tới Quận Cam sáng thứ Ba cũng không kịp gặp mặt em trước khi em mình về nơi chín suối.

“Cái chết là chuyện bất khả kháng, nhưng tôi vẫn không thể không cảm thấy một cái đau đớn tột cùng của sự mất mát và tôi đã khóc! Đêm đó, tôi nằm xuống, quay mặt vào tường. Tôi nhớ những năm tháng chúng tôi ở bên nhau. Tôi nhớ lại ngày chúng tôi gặp nhau lần đầu tại Phong Quang, một ngày mùa đông ảm đạm khi anh đứng trước một cây ớt đỏ, nhìn sâu thẳm vào bầu trời xám xịt với một cái nhìn không kém màu chì hằn trên khuôn mặt của anh. Sau đó, ngày tôi nói lời tạm biệt với anh để vào Sài Gòn trên đường sang Hoa Kỳ, anh đã cầm tay tôi như không muốn rời, đôi mắt đẫm lệ. Một buổi sáng sớm như trôi vào cơn mê, tôi mơ đến các vì sao, đến các cánh buồm màu xanh lộng gió bay trên Dải Ngân Hà, đưa vong linh anh đến một đấng Toàn Năng từ bi! Một ngày kia, khi trở về Việt Nam, tôi sẽ không thể làm gì khác hơn là đứng lặng yên trước một gò đất bị trâu bò dày xéo ở cuối làng, nơi cơ thể của anh được chôn vùi.”
(Lời ngỏ trong tiểu sử Anh ngữ của Ñguyễn chí Thiện với Phùng Cung, nhà thơ nổi tiếng của Nhân Văn Giai Phẩm)

Có phải số phận lưu vong của ông, của những người con Hà Nội, những sĩ phu Bắc Hà một khi rời Việt Nam sẽ không bao giờ được trở lại quê hương thân yêu để nhìn thấy gia đình và người thân của mình trước khi nhắm mắt?

Có thể nào trong cái chết họ sẽ được đoàn tụ với những người thân đã ra đi trước họ (cũng như sau này), nếu trên thế gian này họ bị chia cách vì vẫn còn những sự tàn ác, bạc đãi và tán tận lương tâm?

“Một con người nặng lòng vì thế sự, vì quốc sự, bị cuộc đời bạc đãi là Nguyễn Chí Thiện… Tôi vẫn mong anh ấy qua khỏi. Sống mà nhìn đời, dẫu có chán không muốn nhìn nữa.” (Hà Sĩ Phu)

“Cũng đến lúc người ta không muốn gì nữa, chỉ muốn về với hư vô. Lần gặp NCT năm 2009 thấy ông rất buồn và bi quan. Với tình hình này của VN, sẽ có nhiều người như thế. Đó là kết thúc buồn của một thế hệ, trong đó có thể có cả chúng ta?! (Tiêu Dao Bảo Cự)

Khi Hội Ân Xá Quốc Tế cứu xét đến trường hợp ông và tập Hoa Địa Ngục, gồm 700 bài thơ do ông sáng tác trong lao tù, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, (Anh, Pháp, Đức, Hòa Lan, Tiệp, Tây ban Nha, Trung hoa, Hàn quốc) ông Nguyến Chí Thiện đã đoạt giải Thơ Quốc Tế ở Rotterdam năm 1985 và giải Tự do Sáng tác năm 1988, đến năm 1991 ông được ra tù nhưng vẫn bị theo dõi.


Đến năm 1995, ông sang Mỹ định cư, ít lâu sau nghe tin ông đến San José tôi tìm đến gặp ông không quên mang theo một khung hình đựng một bià cứng trên đó có in khoảng mươi bài thơ của ông cùng những bài Anh ngữ do tôi dịch khoảng hơn 10 năm trước được hội sinh viên Việt Nam Berkeley phát hành. Hôm đó các hội hè đình đám tổ chức đón mừng nhà thơ Nguyễn Chí Thiện rất linh đình, náo nhiệt. Ngồi cạnh ông, tôi chỉ có dịp chào hỏi và chúc tụng sức khoẻ ông sau khi trao tặng ông một kỷ niệm khó quên ghi rõ ngày tháng của buổi đọc thơ ông tại khuôn viên đại học Berkeley lần đầu tiên.

Sau những năm sống ở Virginia với người anh, ông lưu lạc sang Pháp và Âu châu, tôi lại gặp ông khoảng 10 năm sau đó, khi ôn lại chuyện cũ không ngờ ông vẫn nhớ và nhắc lại cái bià cứng lộng khung đó. Tháng Sáu năm nay (2012) tôi lại có dịp gặp ông ở hội trường Người Việt trong một buổi hội thảo. Ông kêu tôi ra riêng một góc:
“Thái Anh này, cái bài thơ Pháp của Francis Jammes mà cậu dùng trong phần cuối của e-mail, động tử guérir – phải ở thể Condtionnel (Điều kiện cách) mới đúng. Tức là trong guérirai-je, chữ guếrirai phải có ‘s’. Vì bài thơ đó (Élégie Septième) anh đã học thuộc lòng từ lúc bé và nếu anh nhớ không lầm thì cái đoạn đầu mà em dùng, rồi ông đọc luôn:
- Dis-moi, dis-moi, guérirai-je Nói tôi nghe, nói tôi nghe
de ce qui est dans mon cœur? Làm sao chữa được bệnh trong tim?
- Ami, ami, la neige Bạn lòng ơi, bạn lòng ơi
ne guérit pas de sa blancheur” Tuyết trắng có bao giờ tẩy được màu tinh khôi
của nó?

Vì bất thình lình, giữa hội trường đông đảo không kịp chuẩn bị chũ ý lắng tai nghe, nên tôi lẩm bẩm mấy câu thơ rồi hứa với ông: “Anh chữa lại mấy câu này cho đúng rồi e-mail cho em sau đó em tra cứu lại rồi ta sẽ trao đổi qua e-mail với nhau nhé”

Sau đó khi về Oakland, tôi nhận được e-mail của ông:
From: Thien Nguyen <nct4vn@yahoo.com>
To: nokyanh@yahoo.com
Sent: Monday, June 18, 2012 10:14 AM
Subject: dis-moi

Dis-moi, dis-moi ,guerirais-je de ce qui est dans mon coeur?
Ami, ami, la neige,
Ne gueris pas ta blancheur!
Francis Jammes
Thêm dấu Sắc trên 2 chữ: guerirais,gueris
Chi Thien

Thưa anh,
Cám ơn anh đã giúp làm sáng tỏ vấn đề. Em cũng tìm được nguyên văn bài thơ Elégie Septième của Francis Jammes. Theo ý bài thơ này – một cuộc đối đáp giữa hai người tình – thì ‘guérirai’ ở thì tương lai/temps futur thay vì conditionnel, và ‘ami’ đây là nói về một nhân vật khác hơn là ‘la neige’, vì ‘La neige’ là féminin mà ‘ami’ là masculin, do đó có lẽ tác giả không ngụ ý gọi ‘la neige’ là ami mà chính Mamore(Người Yêu Dấu) đã gọi tác giả/nhà thơ là ami/petit ami: người bạn tình.

Ami, ami, la neige
ne guérit pas de sa blancheur:
ngụ ý là tình yêu của tác giả không biến suy, vẫn trong sáng, kiên trinh từ đầu đến cuối, theo ý nghĩa đối đáp giữa 2 người trong toàn bài thơ này – Mamore và tác giả.

TA

Như một bậc trượng phu, một đàn anh, một kẻ cả, ông trả lời một cách nho nhã, điềm đạm, không dài dòng

Tuesday, June 19, 2012 3:15 PM
Thái Anh thân
Rất cám ơn Thái Anh. Trí nhớ của anh đã phản bội anh. Anh nhận anh đã sai và không xấu hổ hoặc tự ái
Anh em với nhau là phải thế!
Chi Thien

Đấy là lần cuối cùng chúng tôi trao đổi với nhau. Kể lại chuyện này, tôi có ý muốn nêu lên sự chính chuyên và lòng son sắt cũng như cái phận bạc của nhà thơ đã để tâm đến những bài thơ mang tính chất điếu văn và ‘định mệnh’ như thế:

Élégie septième                                      Điếu văn Thứ bảy
- Dis-moi, dis-moi, guérirai-je                  - Nói đi anh, nói đi anh
de ce qui est dans mon cœur?                     Làm sao chữa được bệnh trong tim?
- Ami, ami, la neige                                 – Bạn lòng ơi, bạn lòng ơi
ne guérit pas de sa blancheur.                   Tuyết trắng có bao giờ tẩy được màu tinh khôi của nó?
- Ami qui, dans les larmes, souris                          – Bạn lòng ơi trong nước mắt và nụ cười
comme un arc-en-ciel dans la pluie,                         như cầu vồng bắc qua cơn giông
dis-moi, dis-moi, ô Mamore,                                   – Nói đi, nói đi, Người Yêu dấu ơi
s’il me faudra mourir encore ?                                 Anh có cần giã từ cõi đời này lần nữa không?
- Es-tu fou mon petit ami?                                    - Anh có điên không, hỡi người tình chung?
Tu le sais… Nous irons en Paradis…                         Anh biết mà… Ta sẽ lên Thiên đàng
- O Mamore, dans le ciel bleu,                               – Người Yêu Dấu ơi, trên trời xanh
Dis? Que diras-tu au Bon-Dieu?                               Nói đi? Em sẽ nói gì với Đấng Tử bi?
- Je lui dirai que, sur la terre,                                 – Em sẽ nói với Ngài, trên thế gian này
il y a de grandes misères.                                            Còn nhiều đau khổ
- O Mamore tant aimée… Dis?…                              – Người Yêu Dấu tôi ơi… Nói đi?…
Comment sera le Paradis?                                        Suối Vàng sẽ ra sao?
- Il y aura des harpes                                            – Suối Vàngs sẽ có đàn hạc
d’azur et des écharpes.                                           trời xanh thẳm và những giải lụa.
- Qu’y aura-t-il encore, Mamore,                                – Nơi Suối Vàng hỡi Người Yêu Dấu ơi
au Paradis? Encore… Encore…                                    Còn gì nữa không, còn gì nữa không?
- O ami, je suis ta Mamore.                                   - Bạn lòng ơi, em là Người Yêu Dấu của anh
Au Paradis il y a notre amour                                   Nơi Suối Vàng sẽ có tình yêu của chúng ta.
Francis Jammes


Thơ của tôi                                                   My Poetry
Thơ của tôi không phải là thơ                         My poetry is not poetry
Mà là tiếng cuộc đời nức nở!                         ‘Tis the sound of life bursting into sobs!
Tiếng của nhà giam ngòm đen khép mở        ‘Tis the sound of cavernous prison doors clanging
Tiếng khò khè hai lá phổi hoang sơ!               ‘Tis the sound of 2 hollow tubercular lungs wheezing!
Tiếng đất vùi (mộ) đổ xuống lấp niềm mơ!     ‘Tis the sound of falling dirt burying life’s dream!
Tiếng khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ!              ‘Tis the sound of hoe excavating nostalgia!
Tiếng răng lạnh đập vào nhau khổ sở!             ‘Tis the sound of cold, teeth miserably clattering!
Tiếng dạ dày đói lả bóp bâng quơ!                ‘Tis the sound of starving stomach churning silly!
Tiếng tim buồn thoi thóp đập bơ vơ!              ‘Tis the sound of heavy hearts palpitate forlornly!
Tiếng bất lực trước muôn ngàn sụp đổ!         ‘Tis the sound of powerlessness before a thousand collapses
Toàn tiếng của cuộc đời sống dở,                 ‘Tis the sound of powerlessness before a thousand collapses!
Và chết thời cũng dở, phải đâu thơ                     ‘Tis the sound of life’s lacking will to live
                                                                   And death, too, is lousy how could it be poetry?
1970

Thơ của tôi                                                   My Poetry
Thơ của tôi không có gì là đẹp                     My poetry has nothing nice
Như cướp vồ, cùm kẹp, máu ho laọ              As robbers snatch, shackles clamp, and tubercular blood
Thơ của tôi không có gì cao                         My poetry has nothing idealistic
Như chết chóc mồ hôi báng sung                 Like death, sweat and rifle butts
Thơ của tôi là những gì kinh khủng              My poetry is made up of those terrible things
Như Đảng, Đoàn, như lãnh tụ,như trung ương    Like the Party, the Union, like the leaders, the central committee
Thơ của tôi kém phần tưởng tượng               My Poetry lacks imagination
Nó thật như tù, như đói, như đau thương        It’s real like prison, like hunger, like suffering
Thơ của tôi chỉ để đám dân thường               My poetry is only for lowly civilian crowd
Nhìn thấu suốt tim đen phường quỷ đỏ.”       To see through the black heart of the Red devils.”
1975

Có phải em là                                         Are you not the child?
Có phải em là em bé?                              Are you not the child?
Bố tập trung xa cách đã mười năm?         Whose father has regrouped 10 years ago?
Bố dượng em là bác da ngăm ngăm,         Your stepfather is the man with the dark olive skin,
Là đồng chí bí thư nơi mẹ em công tác?    He is the comrade secretary where your mother works?
- Anh là bạn tù của bố em, từ tỉnh khác      I’m your father’s prison friend, from another province
Về tìm em để nhắn hộ tin…                        Looking for you to give a message…
Bố em giờ đau ốm cần xin                        Father is now ill and need to have
Ít ký ninh, ít đường đen bồi dưỡng!            A few quinine pills, a few ounce of black sugar to nourish!
Bố dặn mẹ hãy an lòng, đừng ngượng       Dad told your mother to be calmed, not embarrassed
Bố hiểu cảnh tình rất thương mẹ và em     He understood the situation, love her and you both
Hãy nín đi em đừng khóc!                         Please stop my child, do not cry!
Bố sắp về rồi, bố sẽ cho em đi học,           Dad’s going to return, and will send you to school,
Mua cho em đôi dép em đi…                      Buy for you some sandals to walk in…
Em sẽ được là thiếu nhi quàng khăn đỏ       You will be the Red-Scarfed child
Là cháu ngoan bác Hồ em có thích không?     The well-mannered child of Uncle Ho, do you like that?
–Có thích                                                      – Yes, I do!
1976

Một tay em trổ                               A tattoed arrm
Một tay em trổ: Đời xua đuổi!            An arm you show the tattoo: Life Outcasts!
Một tay em trổ: Hận vô bờ!               An arm you show the tattoo: Hatred No Bounds!
Thế giới ơi! người có thể ngờ?           Oh world! Who would have imagined?
Đó là một tù nhân tám tuổi!             That’s an eight-year-old prisoner!
Trên bước đường tù, tôi rong ruổi        On my prison journey, I roamed
Tôi gặp hàng ngàn em bé như em!      I’ve met thousands of children like him!
1971

Khi Mỹ chạy                                                 When America rout
Khi Mỹ chạy bỏ miền Nam cho Cộng sản       When America abandoned the South to the Communists
Sức mạnh toàn cầu nhục nhã kêu than         Global power humiliated, cries
Giữa tù lao, bệnh hoạn, cơ hàn                    In the midst of prison labor, disease, hardship
Thơ vẫn bắn, và thừa dư sức đạn!               Poetry still shoots, with plenty of power and bullets!
Vì thơ biết một ngày mai xa xôi nhưng sáng lạn      Because she knows tomorrow is far away but bright
Không giành cho thế lực yêu gian                 And is not reserved for their evil forces
Tuyệt vọng dẫu lan tràn                              Although despair may spread
Hy vọng dẫu tiêu tan                                   And Hope dissipates
Dân nước dẫu đêm dài ai oán                       Nations and people ruminate in the dark plaintive night
Thơ vẫn đó, vẫn gông cùm trên ván              Poetry is still there, still shackled on wooden planks
Âm thầm, thâm tím, kiên gan                          Silent, bruising, persistent
Biến trái tim thành “chiếu yêu kính” giúp nhân gian        Transform the heart into evil-buster glass to help the terrestrial world
Nhận rõ nguyên hình Cộng sản                     See clearly the true forms of Communist
Tất cả suy tàn, sức thơ vô hạn                       All will disintegrate, but the infinite power of poetry
Thắng không gian mà thắng cả thời gian                      Will conquer both time and space
Sắt thép quân thù năm tháng rỉ han!                      And break down the rusty Steel and metal of the enemy!
1975








No comments:

Post a Comment

View My Stats