Saturday, 13 October 2012

LỄ TRAO GIẢI THƯỞNG 2012 & KẾT NẠP HỘI VIÊN MỚI của HỘI NHÀ VĂN HÀ NỘI (Phạm Xuân Nguyên)




Phạm Xuân Nguyên
14/10/2012

Sáng ngày 10-10-2012, tại Hội trường Thư viện Hà Nội, Hội Nhà văn Hà Nội đã long trọng làm lễ trao giải thưởng năm 2012 và kết nạp hội viên mới của Hội. 5 tác phẩm in năm 2011 được Hội đồng chấm giải của Hội bỏ phiếu nhất trí tặng thưởng gồm có, giải thơ: Buổi câu hờ hững (Nxb. Văn học) của Nguyễn Bình Phương; giải văn xuôi: SBC là săn bắt chuột (Nxb. Trẻ), tiểu thuyết của Hồ Anh Thái; giải lý luận phê bình: Dĩ vãng phía trước (Nxb. Hội Nhà văn), tư liệu văn học của Ngô Thảo; giải văn học dịch: Lolita (tiểu thuyết của Nabokov, nằm trong top 100 tác phẩm hay nhất thế kỷ XX, cũng là một trong 10 tác phẩm gây tranh luận nhiều nhất trên thế giới) của dịch giả Dương Tường (Nxb. Hội Nhà văn và Công ty Nhã Nam); đặc biệt có giải thành tựu nghệ thuật cả một đời văn, trao cho tập thơ Xem đêm (Nxb. Hội Nhà văn và Công ty Nhã Nam) của nhà văn Phùng Cung đã quá cố – một tác giả từng phải chịu nhiều năm tù tội trong vụ án Nhân văn – Giai phẩm mà đến nay việc giải mật vẫn chưa thực hiện nhưng đã hé lộ đây đó nhiều điều oan khuất: “Thời Nhân văn – Giai phẩm, ta bịt mồm họ, ta truy chụp, ta tố điêu. Ta mất nhân tâm” (Lê Đức Thọ – Xin xem tiếp ở dưới). Hai giải trao cho tập thơ Xem đêm và cuốn tiểu thuyết Lolita được dư luận đánh giá là có con mắt tri âm, và có cách cư xử đầy bản lĩnh.
Về việc kết nạp hội viên mới, năm nay Hội Nhà văn Hà Nội đã kết nạp 26 hội viên, trong đó có những người là nhà nghiên cứu phê bình, nhà văn lâu năm như Nguyễn Huệ Chi, Trương Đăng Dung, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Bích Thúy, Chu Văn Sơn,… cũng làm khán phòng rộn lên những tiếng cười hứng thú. Dưới đây, BVN xin đăng bài diễn văn khai mạc của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên và lời phát biểu của GS Nguyễn Huệ Chi tại buổi lễ đông vui, được báo chí đưa tin sốt dẻo này.

Bauxite Việt Nam

--------------------------------

MỘT MÙA GIẢI SUM SUÊ
(Báo cáo tổng kết giải thưởng văn học 2012 của Hội Nhà Văn Hà Nội)
Phạm Xuân Nguyên

Vâng, cho tôi được dùng từ “sum suê” để nói về giải thưởng văn học 2012 của Hội Nhà Văn Hà Nội (HNVHN). Trong khung thời gian mười hai tháng (từ 1/7/2011 đến 30/6/2012) đã xuất hiện nhiều tác phẩm của các hội viên và người viết trên địa bàn thủ đô có thể tham gia dự giải. Đó là một điều may mắn, thuận lợi. Và khi có nhiều tác phẩm có khả năng vào giải như vậy, HNVHN đã khẩn trương tìm đọc, thảo luận trong các hội đồng chuyên môn để lên một danh sách chung khảo xét giải thưởng hàng năm của Hội.
Kết quả, sau các phiên họp của các hội đồng văn, thơ, phê bình, dịch thuật, các tác phẩm sau đây đã được đề cử vào danh sách chung khảo giải thưởng 2012 của HNVHN:
Văn
1. SBC là săn bắt chuột (tiểu thuyết) – Hồ Anh Thái (Nxb. Trẻ, quý IV/2011)
2. Thành phố đi vắng (tập truyện) – Nguyễn Thị Thu Huệ (Nxb. Trẻ, quý II/2012)
3. Lãng du (tập truyện) – Tạ Duy Anh (Nxb. Thời đại, 8/2011)
Thơ
1. Buổi câu hờ hững (tập thơ) – Nguyễn Bình Phương (Nxb. Văn học, 9/2011)
Phê bình
1. Dĩ vãng phía trước – Ngô Thảo (Phương Nam Book & Nxb. Hội Nhà văn, quý IV/2012)
2. Phê bình văn học Việt Nam hiện đại – Trịnh Bá Đĩnh (Nxb. Văn học, 11/2011)
3. Bình thơ - Vũ Quần Phương (Thái Hà Books & Nxb. Dân trí, quý II/2012)
Dịch thuật
1. Lolita (tiểu thuyết, Nabokov) – Dương Tường dịch (Nhã Nam & Nxb. Hội Nhà văn, 3/2012)
Thành tựu về thơ
1. Xem đêm (tập thơ) – Phùng Cung (Nhã Nam & Nxb Hội Nhà văn, 5/2012)
Ngày 1.10.2012, Hội đồng giải thưởng của HNVHN đã họp để tiến hành công việc xét giải năm nay. Hội đồng gồm có:
- Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội HNVHN, Chủ tịch Hội đồng xét giải
- Nhà thơ Nguyễn Sỹ Đại, Phó chủ tịch HNVHN
- Nhà thơ Bằng Việt, Ủy viên BCH HNVHN
- Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, Ủy viên BCH HNVHN
- Nhà thơ Bùi Việt Mỹ, Ủy viên BCH HNVHN
- Nhà văn Lê Minh Khuê, Chủ tịch Hội đồng văn xuôi
- Nhà thơ Nguyễn Thành Phong, Chủ tịch Hội đồng thơ
- Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình
- Dịch giả Đoàn Tử Huyến, Chủ tịch Hội đồng dịch thuật
Hội đồng giải thưởng đã nghe các chủ tịch hội đồng chuyên môn báo cáo, phân tích việc lựa chọn tác phẩm vào chung khảo và ý kiến đề nghị tác phẩm xứng đáng trao giải. Các thành viên hội đồng giải thưởng đã bàn bạc, tranh luận về từng tác phẩm trong danh sách chung khảo để tìm ra tác phẩm xứng đáng, nhất là ở hạng mục có nhiều tác phẩm được đề cử. Sau khi thảo luận, hội đồng giải thưởng đã đi tới sự đồng thuận cao và tiến hành bỏ phiếu trao giải. Kết quả bỏ phiếu, những tác phẩm sau đã được trao giải thưởng 2012 của HNVHN.
Giải thưởng văn học 2012:
- SBC là săn bắt chuột (tiểu thuyết) – Hồ Anh Thái (Nxb. Trẻ, quý IV/2011) – 8/9 phiếu.
- Buổi câu hờ hững (tập thơ) – Nguyễn Bình Phương (Nxb. Văn học, 9/2011) – 9/9 phiếu.
- Dĩ vãng phía trước – Ngô Thảo (Phương Nam Book & Nxb. Hội Nhà văn,quý IV/2012) – 9/9 phiếu.
- Lolita (tiểu thuyết, Nabokov) – Dương Tường dịch (Nhã Nam & Nxb. Hội Nhà văn, 3/2012) – 9/9 phiếu.
Giải thành tựu về Thơ:
- Xem đêm (tập thơ) – Phùng Cung (Nhã Nam & Nxb. Hội Nhà văn, 5/2012) – 9/9 phiếu.
Như vậy, giải thưởng 2012 của HNVHN ở cả bốn hạng mục thường xuyên đều có tác phẩm được trao, khác với những năm trước có hạng mục để trống. Bên cạnh đó, năm nay lại có giải Thành tựu. Đây quả là một mùa giải sum suê. Các tác phẩm được giải đều được hội đồng giải thưởng nhất trí cao và đánh giá là hoàn toàn xứng đáng.
SBC là săn bắt chuột – cuốn tiểu thuyết chứng tỏ sự chuyên nghiệp trong nghề của nhà văn Hồ Anh Thái. Ông luôn đổi mới cách viết, luôn lạ hóa chính mình trong cách khai thác và biểu đạt hiện thực, và luôn cập nhật nắm bắt thực tại đời sống ở những vỉa tầng tươi mới nhất. Giai đoạn “hậu Ấn Độ”, nếu có thể nói vậy, trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn đã được đánh dấu bằng những tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một ngày, và tiếp theo tác phẩm được giải thưởng năm nay, Hồ Anh Thái đã lại có một tiểu thuyết mới xuất bản là Dấu về gió xóa. Tác phẩm SBC là săn bắt chuột vừa hiện thực vừa phúng dụ, vừa thời sự vừa khơi gợi, tuy người đọc còn có thể đòi hỏi ở tác giả sự khái quát nghệ thuật cao hơn. Dựng lên hai thế giới của chuột và của người song song nhau trong khung cảnh trận lụt lịch sử năm 2008 tại Hà Nội, nhà văn đã đưa dẫn người đọc vào một đời sống hỗn độn, nhếch nhác, ở đó con người phải vật lộn để tồn tại và sống giữa dòng lũ những cái tầm thường, xấu xa cuốn trôi mình, làm hỏng nhân cách mình. Nhà văn Ma Văn Kháng có nhận xét về nghề văn của SBC là săn bắt chuột như sau: “Cuốn sách dựng nên một câu chuyện giả tưởng mà ăm ắp sự sống hôm nay. Và đó chính là cái lý do khiến người đọc bị cuốn vào, bị mê đi suốt 343 trang sách không mảy may bị sa sút về sự cường thịnh dạt dào. Không có cuộc đời, không có một bản lĩnh văn hóa, tài năng thiên biến và rung động sâu sa về cái đẹp, khó mà viết được như thế! Cuốn sách của Hồ Anh Thái dồi dào sự sống còn được biểu hiện ở tầng ngôn ngữ, một lớp ngôn ngữ mang sắc thái thời cuộc chịu sự biến hóa của một kiểu trò chơi”. Trao giải cho SBC là săn bắt chuột, HNVHN đánh giá cao ý thức nghề nghiệp văn chương của nhà văn Hồ Anh Thái.
Buổi câu hờ hững – tập thơ chứng tỏ một mức độ thành công của nhà thơ Nguyễn Bình Phương trên con đường thơ riêng của mình. Tác giả hiện đang đeo hàm Thượng tá, Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ quân đội này đã có bảy tập tiểu thuyết và năm tập thơ xuất bản. Một khối lượng sách đáng nể của một người viết tuổi chưa đến năm mươi. Nhưng đáng nể phục hơn là lối viết của Nguyễn Bình Phương: đó là một thứ văn thơ không đơn giản, không rõ ràng theo kiểu thẳng đuột, dễ hiểu, mà có tính chất dẫn dụ, khơi gợi, đi vào bề sâu thực tại và tinh thần. Ông có ý cách tân thơ nhưng không ồn ào ở hình thức mà chú trọng ở cái nhìn, đem lại cho thơ một vẻ đẹp trầm tư. Tập thơ Buổi câu hờ hững lắng đọng, tự tại, trong một cái nhìn điềm tĩnh, thấu suốt về cuộc sống thường ngày, về chính mình. “Phân chia bởi sắc màu / Bên này tím bên kia ẩn dụ / Giữa im ắng chợt nhói lên ánh sáng của thịt da / Nhói lên tiếng rụng vỡ tan tành của quả / Cây phượng ven hồ nhịu hình và ngã / Kéo theo bao hối lỗi trong đời / Đứng dậy, sũng ướt, đi rồi tự hỏi /Viết là tìm thấy hay đánh mất? / Vậy là buổi chiều trở nên cực chật / Vậy là bằng những bước chân không rõ nghĩa, thật dài / Ta đủng đỉnh quay về hiện tại” – đó là bức chân dung khi trống trải của nhà thơ. Một thái độ nghiệm sinh cần thiết cho cuộc sống và cho thơ. HNVHN trao giải cho Buổi câu hờ hững là ghi nhận một tác phẩm đánh dấu kết quả một quá trình sáng tạo thầm lặng quyết liệt của tác giả.
Dĩ vãng phía trước – tập tư liệu chuyện văn chuyện đời một thuở của nhà phê bình Ngô Thảo. Nó được viết ra từ một chứng nhân trong cuộc. Nó được viết ra từ một người có thẩm quyền trong giới. Xin chú ý là người có thẩm quyền chứ không phải người có quyền lực. Người có quyền lực có thể phát ngôn nhưng phát ngôn đó thường là áp đặt, ít được bảo chứng từ tư cách cá nhân. Người có thẩm quyền có thể không quyền lực, nhưng phát ngôn của họ lại mang sức nặng của chuyên môn, học thuật, do đó phát ngôn ấy là khả tín. Tác giả sách này là một người trong cuộc, một người có thẩm quyền. Cuốn sách bằng những tư liệu chân thực, sinh động đã giúp người đọc thấy được đời sống văn học nước nhà những năm cận kề trước và sau 1975 sôi sục rất nhiều vấn đề, rất nhiều quan điểm, thấy được các nhà văn đã trăn trở, nghĩ suy thực tâm thế nào trước trang văn và trước người đọc, thấy được đã có những đấu tranh tư tưởng đôi khi quyết liệt, gay gắt ra sao trong giới cầm bút. Đặc biệt những ghi chép sống từ các cuộc chuyện trò, trao đổi, hội họp của giới văn chương đã cung cấp những tư liệu ròng, có một không hai, cho những ai quan tâm tìm hiểu văn học Việt Nam ở một thời đoạn có nhiều phân hóa, cung cấp cho người đọc và người làm sử văn học những cứ liệu quý báu. Viết tư liệu như vậy cũng là một cách thế phê bình văn chương. Hơn thế, đó còn là một cách nhập cuộc tích cực, vì dĩ vãng nhưng vẫn còn ở phía trước, quá khứ nhưng vẫn đang là hôm nay. Tôi xin trích ra đây một vài đoạn để thấy cái công của nhà phê bình Ngô Thảo và giá trị của tập sách Dĩ vãng phía trước.
- Một nỗi sợ của nhà thơ Chế Lan Viên được nói với nhà văn Nguyễn Khải và Nguyễn Khải thuật lại cho Ngô Thảo nghe trong một lần trò chuyện (1973): “Tôi xưa chẳng biết sợ là gì. Rất tự tin. Vì tôi đúng, tôi có lý tưởng, trong sáng. Nhưng bây giờ tôi đã cảm thấy sợ. Sợ thật sự đấy. Ngày xưa đến như một tay Tri huyện, quyền lực nhất một vùng, nó cũng có những cái sợ của nó. Nào phải sợ một tên phú hào giàu có. Khi cần còn vay, còn dựa thế lực của nó. Sợ một thầy phù thủy, thầy cúng. Người đó giữ được dân mới được dân nghe nhiều hơn. Sợ thằng tướng cướp, anh chị giang hồ trong vùng, nó để yên cho hay là quậy phá, tùy nó. Có khi còn sợ một con đĩ, một cô đầu trong vùng, vì các cô ấy có các quan lớn chở che, nên thế lực họ không thể xem thường. Sau nữa, còn phải nể sợ mấy ông đồ, ông giáo, người từng dạy dỗ, chăn dắt thuở hàn vi. Bây giờ thì người có quyền chẳng phải sợ ai nữa. Mọi thế lực, quyền thế nằm trong tay họ. Muốn gì được nấy. Muốn gì nói nấy. Không còn giới hạn quyền lực. Đó là một tai họa cho dân. Và sợ đó là một cảm giác khủng khiếp. Phải bạc tóc, qua rất nhiều chiến thắng, quang vinh, thì mới biết tới cái sợ” (DVPT, tr. 136-137).
- Một ý kiến của ông Lê Đức Thọ theo sự nhớ lại của nhà thơ Bảo Định Giang trong bài phát biểu tại hội nghị đảng viên bàn về văn học (6/1979) được Ngô Thảo ngồi bàn thư ký ghi lại: “Tôi nhớ, năm 1973, đồng chí Lê Đức Thọ gọi tôi lên. Đồng chí hỏi: Nghe nói, báo Văn nghệ sắp có bài phê bình Người người lớp lớp của Trần Dần phải không? Về xem lại đi. Chưa viết thì thôi, viết rồi thì không đăng. Con người ta, ai cũng đối diện với ba chiều thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Hai chiều sau, Trần Dần không có. Chỉ còn dĩ vãng, mà dĩ vãng chỉ có một chút ấy thôi, đừng có đánh nữa. Đương thời, đó là một tác phẩm tốt. Tôi phụ trách công tác tổ chức, tôi biết, con người ta luôn luôn phát triển. Lúc này lúc khác có thể có những lệch lạc, vì thế, tính tác phẩm phải tính tới tác giả. Đừng chỉ vì một tác phẩm mà truy chụp người ta. Thời Nhân văn – Giai phẩm, ta bịt mồm họ, ta truy chụp, ta tố điêu. Ta mất nhân tâm” (DVPT, tr. 333-334).
Trao giải cho Dĩ vãng phía trước, HNVHN muốn khuyến khích cho mảng viết tư liệu rất cần thiết, bổ ích, nhưng đang rất thiếu và chưa được quan tâm đúng mực trong văn học nước ta.
Lolita – bản dịch một tác phẩm thuộc hàng nổi tiếng nhất, gây tranh cãi nhất của văn học thế giới thế kỷ XX, và cũng là một tác phẩm khó dịch nhất. Dịch giả Dương Tường đã có một sự nghiệp dịch thuật to lớn, đã có nhiều thành công trong lĩnh vực này, nhưng ông đã phải dành hai năm liền cho cuốn tiểu thuyết lớn của V. Nabokov. Hội đồng nhận định bản dịch Lolita tuy còn một số chỗ gây tranh cãi về cách dịch, cách hiểu văn bản, nhưng đây là một bản dịch trực tiếp từ tiếng Anh công phu, tâm huyết, có thể coi là tác phẩm dịch “để đời” của dịch giả, đưa lại cho độc giả một kiệt tác của văn chương thế giới được ở mức cao nhất có thể.
Tôi phải nói thêm điều này: không có bản dịch nào là trọn vẹn tuyệt đối theo nghĩa đồng nhất với bản gốc. Có thể nói, có bao nhiêu bản dịch thì có bấy nhiêu tác phẩm khác nhau của cùng một nguyên bản. Cho nên chính ông Dương Tường đã có lần đề nghị mỗi bản dịch phải được đề tên tác giả – dịch giả song đôi, vì bản dịch đó cũng là duy nhất gắn với dịch giả đó, còn khi sang dịch giả khác thì đã là một tác phẩm khác tuy vẫn cùng một tác giả. Le Petit Price của Antoine de Saint-Exupéry chỉ có một trong tiếng Pháp, nhưng sang tiếng Việt đã có khoảng chục bản: Cậu hoàng con (Exupéry – Trần Thiện Đạo, 1966), Hoàng tử bé (Exupéry – Bùi Giáng, 1973) – cùng mang tên này còn có các bản dịch của Vĩnh Lạc (1994), Trịnh Nhất Định (2000), Nguyễn Tấn Đại (2005), Châu Diên (2007), Em bé con nhà trời (Exupéry – Nguyễn Thành Long, 2000). Nhiều người dịch đi dịch lại cuốn này vì họ thích tự mình dịch, vì họ không thỏa mãn với những bản dịch của người khác. Độc giả có được nhiều bản dịch như thế càng hay, ai hợp với lối dịch nào thì đọc bản dịch đó. Và càng đọc nhiều bản dịch của cùng một tác phẩm lại bổ sung được cho nhau, thêm được cho mình nhiều sắc màu ngôn ngữ tình cảm của từng người dịch in dấu trong dịch phẩm.
Bản dịch nào cũng có những sai sót không tránh khỏi, vấn đề là sai đến mức độ nào, sai ở cách dịch hay cách hiểu. Xét tổng thể, bản dịch Lolita của Dương Tường là có chất lượng, đáng tin cậy. HNVHN trao giải cho dịch phẩm này căn cứ vào bản in mới nhất của Lolita, có sửa chữa của dịch giả, vừa để khẳng định một bản dịch, vừa cũng để cho thấy lao động dịch thuật văn học đòi hỏi sự cẩn trọng và nghiêm túc.
Giải thành tựu không nằm trong hạng mục giải thường xuyên của HNVHN, nhưng tùy vào hoàn cảnh từng năm xét thấy có tác phẩm đáng trao thì Hội sẽ có quyết định riêng. Quy chế giải thưởng đã nói rõ: “Ngoài giải chính thức, tùy hoàn cảnh từng năm mà Hội Nhà văn Hà Nội có thể trao giải thành tựu. Giải thành tựu là nhằm tôn vinh lao động sáng tạo một đời người của những nhà văn có nhiều tác phẩm xuất sắc, có nhiều đóng góp cho văn học ở thủ đô và trên cả nước, có tiếng vang lớn trong dư luận. Căn cứ trao giải thành tựu vẫn là tác phẩm, nhưng là tác phẩm mang tính tuyển tập, toàn tập, tổng kết một sự nghiệp văn chương”. Đây không phải lần đầu HNVHN trao giải Thành tựu. Năm 2005 lần đầu tiên giải Thành tựu này đã được trao cho tuyển tập thơ trữ tình thế giới của nhà thơ Bằng Việt để ghi nhận đóng góp dịch thuật của ông. Sau đó nó đã được trao cho tập Trần Dần thơ (2008) và cho tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ (2010).
Năm nay, giải Thành tựu về thơ trao cho tập Xem đêm của nhà thơ Phùng Cung được nhất trí cao, rất xứng đáng. Nhà thơ Phùng Cung sinh năm 1928, tham gia cách mạng từ 1945, lên chiến khu Việt Bắc năm 1949 hoạt động văn hóa văn nghệ. Tháng 10/1956 ông viết truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” đăng báo Nhân văn số 4. Năm 1961 ông bị tù mãi đến năm 1973 mới được ra. Từ đó cho đến khi qua đời năm 1997 ông sống ở Hà Nội. Năm 1995 ông được in tác phẩm đầu tiên duy nhất của mình là tập thơ Xem đêm ở Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin. Nhà hoạt động chính trị và văn hóa Nguyễn Hữu Đang cùng nhà thơ Phùng Quán, những người anh em hoạn nạn của ông, đã góp tiền, chạy tiền để in tập thơ này cho ông. Ở đây cũng phải kể đến công lao của nhà thơ Quang Huy khi đó là Giám đốc Nxb. Văn hóa – Thông tin. Xem đêm được tái bản năm 2012 có bổ sung thêm một số bài thơ (cả tập là 303 bài), thêm truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” và thêm những bài viết của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Phùng Quán. Đó là tập thơ của cả một đời người và một nhà thơ có khi chỉ cần một tập thơ như vậy đã đủ cho cả một đời người. Đó là một bằng chứng thuyết phục cho thơ đích thực và sức sống của thơ. Trường hợp Phùng Cung là vậy, và HNVHN trao giải Thành tựu về thơ cho tập Xem đêm chính để khẳng định điều đó.
Phùng Cung đã sống cuộc đời mình nhiều trầm luân, khổ ải, nhưng chính vì thế mà thơ ông lại đưa đến sự ngạc nhiên lớn cho người đọc. Ông ngẫm cuộc đời mình như cánh bèo “lênh đênh muôn dặm nước non / dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh”. Ông chết điếng cuộc đời mình như cây cà bị sâu róm cắn trụi “kiếp cà / duyên tím / phận xanh / cõi bẩn thỉu / cố xanh, cố tím / Ngoem ngoém tối ngày mồm róm / cành suông chết điếng tím xanh”. Nhưng ông tự tin vào chất người như trà Tân Cương của mình “quất mãi nước sôi / trà đau nát bã / không đổi giọng Tân Cương”. Nhà thơ chống chọi được với hoàn cảnh thời thế là nhờ có Mẹ: “Mồ hôi mẹ / Tháng ngày đăm đăm nhỏ giọt / Con níu giọt mồ hôi / Đứng dậy làm người”, nhờ có Làng mà từ cõi tù trở về nhìn dáng lạt bó rau, nhìn dấu chân bùn ông nhận được ra quê. Thơ Phùng Cung cho ta thấy cái tài của ông trong việc sử dụng tiếng Việt thôn quê được nâng lên thành ngôn ngữ thơ, trong cái nhìn cảnh sắc đời sống nông thôn và nông dân, trong sự nén lặng và bùng nổ âm thầm của tâm tư cá nhân ở từng câu từng chữ. Những bài thơ ngắn như những nét tạc sắc gọn mặt người, mặt đất. Lấy như chỉ một cái nắng thôi mà nhà thơ đã cho người đọc thấy bao nhiêu là nắng khác nhau chỉ ở thôn quê mới có và chỉ người nào sống thật với thôn quê bằng tấm lòng hồn hậu, con mắt trong sáng mới thấy ra: nắng ngã tương, nắng phơi rơm, nắng đồng trinh, nắng hàn vi, nắng hoa ngâu, nắng thừa, nắng cánh cam, nắng rươi, nắng ghé, nắng dứ, nắng tía, nắng hoang… Nhận xét của nhà thơ Hoàng Cầm có thể nói thay cho cảm nhận chung của mọi người về tập thơ này: “Có lẽ từ xưa đến nay, ở nước ta chưa có một tập thơ nào về một vùng quê nghèo khổ lại súc tích, cô đọng mang tính truyền thống và hiện đại sâu sắc như tập Xem đêm… Có thể nói, đây là tư liệu quý giá về về đời sống cả về ngôn ngữ nhân dân vùng trung du Bắc Bộ rộng lớn trước đây. Mỗi bài thơ, có khi chỉ một câu, đều như những luồng điện không giật chết người nhưng cứ thắt vào tim những luồng rung động thấm rất sâu”.
May mắn là Phùng Cung đã có thơ để lại làm chứng cho chất người của ông. Tập thơ mà khi trao bản thảo cho người con trai, ông đã nói “có cái này là đóng góp cho đời… con phải biết hãnh diện”. Thơ ông là lý lịch đời ông, nói theo lời nhà thơ Phùng Quán, là bức chân dung chân thực cốt cách và tâm hồn ông, giải được nỗi buồn của ông khi có lần tự họa: “Tôi nhúng ngón tay / Vẽ mình trong đĩa nước / Vẽ muôn ngàn lần / Ngón đau – đĩa cạn / Biết đến bao giờ / Tôi mới vẽ nên tôi…”. Chúng ta, những người đọc, cám ơn ông trong lao khổ vẫn giúp ta biết yêu thương xót xa con người. HNVHN biết ơn ông về những bài thơ hay, sâu sắc, và hãnh diện được trao giải thưởng Thành tựu về thơ cho ông để khẳng định một tác phẩm, vinh danh một nhà thơ.
Giải thưởng văn học 2012 của HNVHN đã được xướng danh và trao tặng. Xin chúc mừng những người được giải và cám ơn họ đã có những tác phẩm hay cho chúng tôi được vinh dự trao giải. Cám ơn các Nhà xuất bản Trẻ, Văn học, Hội Nhà văn, và các Công ty văn hóa truyền thông Nhã Nam, Phương Nam đã cho ra đời những tác phẩm hay để HNVHN có cơ hội lựa chọn trao giải xứng đáng. Cám ơn các phương tiện truyền thông đại chúng đã tích cực hợp tác với HNVHN, kể từ khi giải thưởng được công bố các phóng viên báo đài (Lao động, Thể thao & Văn hóa, Hà Nội mới, Tuổi trẻ, Thanh niên, Sài Gòn tiếp thị, Truyền hình Thông tấn…) đã nhiệt tình đưa tin, viết bài cổ vũ, ủng hộ cho giải thưởng, tạo nên sự cộng hưởng và tác động tốt đẹp trong đời sống văn học ở thủ đô và cả nước. Chúng ta hy vọng và chờ đón mùa giải thưởng năm sau của HNVHN sẽ càng sum suê hơn nữa.
Thưa quý vị và các bạn,
Bên cạnh niềm vui có một mùa giải thưởng sum suê thành công, hôm nay HNVHN lại có niềm vui được đón nhận những hội viên mới. Hàng năm số lượng người viết muốn gia nhập Hội thêm đông, thậm chí có những nhà văn nhà thơ ở các địa phương khác cũng muốn được kết nạp vào hội nhà văn thủ đô. Đó là một vinh dự, tự hào cho HNVHN. Càng vinh dự hơn nữa khi ngày càng có thêm nhiều những người cầm bút tên tuổi thuộc các thế hệ đến với Hội. Như Nguyên Ngọc, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Đỗ Minh Tuấn… thời gian trước. Và như Nguyễn Huệ Chi, Trương Đăng Dung, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Bình Phương, Chu Văn Sơn… lần này. Sự hiện diện của các anh chị làm tăng thế giá cho Hội, khiến Hội thêm tự hào. Thay mặt BCH HNVHN tôi chào mừng và chúc mừng các nhà thơ nhà văn nhà phê bình dịch thuật đã trở thành hội viên mới của HNVHN hôm nay.
HNVHN nếu tính từ khi là một Chi hội văn học trong Hội văn học nghệ thuật Hà Nội thành lập vào năm 1966 thì đã có gần nửa thế kỷ tồn tại. Đến nay HNVHN đã có hơn năm trăm hội viên và đang trở thành một hội nghề nghiệp có vị thế và uy tín trong giới văn học và trong xã hội. Được thế là nhờ sự nỗ lực đóng góp của nhiều thế hệ hội viên qua các thời kỳ, đặc biệt là nhờ sự định hướng đúng đắn cho tầm vóc của Hội. Theo tôi, đặc thù của HNVHN là “ba trong một”: HNVHN là một hội của địa phương, nhưng địa phương đó là Hà Nội, mà Hà Nội là thủ đô. Là một Hội chuyên ngành mang tính chất “ba trong một” nên HNVHN có tính địa phương nhưng phải vươn lên tầm thủ đô, có tính phong trào nhưng phải đạt tới đỉnh cao. Nghĩa là phải làm sao cho khi nhìn vào HNVHN mọi người thấy đây là một hội nghề nghiệp địa phương Hà Nội thủ đô. Điều này là khó, nhưng khó không có nghĩa là không làm được, và thực tế là Hội đang từng bước làm được điều đó. Các hoạt động trao giải thưởng và kết nạp hội viên hàng năm chúng tôi luôn đề cao chất lượng chính là theo phương châm “ba trong một” này. Và uy tín của Hội vì thế đã được nâng cao.
Cám ơn các anh chị đã vào HNVHN. Chúng ta cùng chúc cho nhau dồi dào sức sáng tạo để văn học Việt Nam ở thủ đô Hà Nội và trong cả nước có thêm những tác phẩm mới mang giá trị nghệ thuật cao, để HNVHN càng đi tới càng trẻ trung, năng động.

Hà Nội 10-10-2012
P.X.N.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

* * *

MẤY LÝ DO KHIẾN TÔI NẠP ĐƠN VÀO HỘI NHÀ VĂN HÀ NỘI
Nguyễn Huệ Chi

Thưa toàn thể anh chị em hội viên có mặt tại đây, thưa ông Chủ tịch Hội Phạm Xuân Nguyên và Ban chấp hành Hội. Tôi phải gọi đích danh ông Chủ tịch Hội là vì chính ông là một gương mặt hấp dẫn đã thu hút tôi, khiến tôi không thể không nộp đơn xin vào Hội Nhà văn Hà Nội.
Tôi xin mượn một câu thơ của nhà thơ Cao Bá Quát làm năm 1841 tại nhà lao Thừa Phủ ở Huế để ví von về mình. Cao Bá Quát là nhà thơ nổi tiếng, khi được cử làm Sơ khảo Trường thi Thừa Thiên, do yêu quý những thí sinh có tài song lại mắc vào cái lỗi sơ suất viết chữ phạm húy theo quy định thời ấy, đó là lỗi rất nặng, phải đánh hỏng, Cao muốn cứu vớt họ, bèn dùng muội đèn hòa son sửa những chữ phạm húy cho 24 quyển văn, kết quả lấy đỗ được 5 người, nhưng việc phát giác, nên ông bị tống lao. Đúng ngày trùng cửu là ngày ông vào ngục vừa tròn một năm, ông nhờ lính ngục sửa một bữa tiệc thết các bạn tù. Trong tiệc, ông đọc một bài thơ và nói lời mở đầu rằng, tôi là người già nhất hội nhưng nay lại là người trẻ nhất, vì sau khi vào ngục mới ngộ ra được nhiều điều, và “nếu có may mà không chết cũng sẽ không còn là cái “tôi” khi trước nữa; ngày hôm nay chính là ngày sinh thứ nhất của gã Mẫn Hiên (biệt hiệu của Cao Bá Quát) này đây”.
Về phần tôi – Nguyễn Huệ Chi – , tuy chưa phải là người già nhất trong Hội vì trên tôi còn nhiều bậc đàn anh, như anh Dương Tường đang ngồi ngay trước mặt… dù thế tôi cũng thuộc loại già rồi. Vậy mà hôm nay tôi mới được vinh dự đứng trong hàng ngũ hội viên Hội nhà văn Hà Nội, vậy thì đúng như Cao Bá Quát nói, tôi chính là một “người già trẻ nhất” ở đây.
Lý do tôi vào Hội là ham vui. Người ta nói “vui đâu chầu đấy”, ở tuổi này, cũng muốn tìm cái vui cho nó thư thái. Vì thế, tôi đã để ý xem nơi nào quả thật là vui để tìm đến. Sau nhiều buổi dự ké một số cuộc họp như các buổi lễ kỷ niệm các nhà văn quá khứ Lê Văn Hòe, Nguyễn Triệu Luật… tôi thấy cung cách tổ chức của Hội rất chu đáo, người điều hành làm việc xông xáo và dồn hết tâm huyết vào công việc, không qua loa chiếu lệ cho xong vì tâm trí còn để vào những việc khác – tình trạng quá phổ biến ở nhiều nơi mà mình được thấy hoặc được nghe dư luận râm ran than phiền. Nhưng tâm huyết mà lại không vì một động cơ nào khiến người ta vẩn lên một mối băn khoăn ngờ vực. Đúng đây là một nơi vui thực, không vui gượng, thời buổi này mà tìm được một nơi vui thực hẳn là hiếm. Thế thì tội gì mà không vào, trong khi nhiều bậc đàn anh như Nguyên Ngọc… đã lần lượt rủ nhau vào cả. Thôi thì dù có chậm muộn cũng phải cố mà leo lên tàu thôi. May mắn làm sao đến hôm nay đã được toại lòng.
Một lý do nữa, cũng ở tuổi này, người ta đều muốn tìm một địa chỉ để đặt chân, nói những lời hơi sáo một chút là muốn “tìm một mái ấm” để đến đấy giao lưu, chia sẻ, tâm tình với bạn bè nhiều lứa tuổi, nhằm “vợi bớt cô đơn”. Nhưng cũng phải chọn sao để khi đặt chân vào thì chân vẫn là chân của mình chứ không phải đến một lúc nào đấy bỗng… trở thành chân người khác mà mình vô tình không hay, hoặc đến khi rút chân ra nhìn lại mới biết chân mình đã biến thành… chân gỗ. Sau nhiều dịp quan sát, tôi thấy Hội này có thể là một địa chỉ giúp mình yên tâm, rằng mình sẽ vẫn cứ là mình, đặt chân vào thì chân mình vẫn giữ được nguyên vẹn. Nói cách khác, trong tình hình hiện tại, đây là một nơi bày ra những cuộc chơi bình đẳng, dân chủ, và làm cho người ta có cảm tưởng có được cái quyền tự do sáng tạo, mà thông qua những lần bầu bán giải thưởng như lần trao giải vừa diễn ra ít phút trước đây, ai cũng thấy có cái không khí lành mạnh, công bằng, không bị những mặc cảm nặng nề ám ảnh, lại chưa phạm vào quy tắc cốt yếu: người chấm giải cũng là chấm cho mình; những việc như thế có giá trị nuôi dưỡng niềm tin, như những mạch sống ngầm kích thích hứng khởi lâu dài đối với người sáng tác, làm đà cho những sáng tạo đến một lúc nào đấy tự nó sẽ bứt lên. Điều này khiến tôi ít nhiều liên tưởng đến Tự lực văn đoàn, một tổ chức văn học bậc nhất của Hà Nội và của cả nước tính đến hôm nay mà năm nay vừa tròn 80 năm sinh.
Tôi xin vào Hội cũng còn một lý do là Hội chúng ta là một hội hoạt động trên một địa bàn đặc biệt: đất Thăng Long – Hà Nội. Nơi đây có cả một truyền thống văn hóa văn học rực rỡ với một bề dày nghìn năm. Trở về trước biết bao là hiện tượng văn học chói sáng, nhưng từ những năm 30 thế kỷ trước, cũng có những hiện tượng đột xuất mà nay đang hiện diện trước mắt chúng ta: 80 năm “Thơ mới”, 80 năm Tự lực văn đoàn, hoặc ngày 23-10 sắp tới đây là 100 năm sinh Vũ Trọng Phụng… Ấy vậy nhưng, trong tình hình hiện nay, mảnh đất giàu tài nguyên văn hóa Thăng Long – Hà Nội hình như đang cần báo động về một nguy cơ mất mát, suy thoái mà tuy không phải người nào cũng nói được ra nhưng chắc những ai có tấm lòng với Hà Nội đều cảm thấy bất an. Có những giá trị bỗng nhiên bị đảo ngược, có tình trạng đang nguyên lành biến thành nham nhở, có không ít việc làm công nhiên hủy hoại những gì cả dân tộc và nhân dân Thủ đô cố giữ gìn trong suốt bao nhiêu thế kỷ, nhưng lại nhân danh cái tốt, cái phải, cái có quyền – và tất nhiên đằng sau nó là cái có tiền. Vậy thì vào Hội, cũng là mong cùng với tất cả các hội viên, có già có trẻ, nhưng chủ yếu là anh chị em trẻ, với sức trẻ của mình, chúng ta hãy cố gắng, bên cạnh việc bền bỉ tạo ra những giá trị tinh thần mới, còn góp phần khám phá lại, đồng thời giữ gìn và cứu vãn lấy những giá trị bất hủ của Thăng Long – Hà Nội trong hàng nghìn năm, không để chúng biến mất vì sự tàn bạo và trơ tráo của mọi thế lực ngu tối, cộng với thế lực của đồng tiền.

Xin cám ơn tất cả các bạn.
N.H.C.


* * *
Phụ lục:

GIẢI THƯỞNG CỦA HỘI NHÀ VĂN HÀ NỘI: CÔNG TÂM VÀ UY TÍN
Bài: & ảnh: An Vũ – Lãng Ma

(TT&VH Online) – Sáng 10/10, phía bên trong và sảnh hội trường (tầng 2) thuộc Thư viện Hà Nội chật cứng người đến dự lễ trao giải thưởng văn học và lễ kết nạp hội viên của Hội nhà văn Hà Nội.
Năm 2012, quả là mùa bội thu khi các giải thưởng văn học được xướng tên với đủ bốn thể loại: văn xuôi, thơ, lý luận văn học, dịch thuật và thêm giải Thành tựu trọn đời. Không những thế, hơn 26 hội viên mới được kết nạp, cũng ở bốn ngành.
Năm 2012 giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội ở bốn hạng mục thường xuyên đều có tác phẩm được trao, khác với những năm trước có hạng mục để trống. Bên cạnh đó năm nay lại có giải Thành tựu. Cụ thể:

Giải thơ: Buổi câu hờ hững (Nxb. Văn học) của nhà thơ Nguyễn Bình Phương; giải thưởng thành tựu: Xem đêm (Nxb. Hội Nhà văn & Công ty Nhã Nam), tập thơ của nhà thơ Phùng Cung; văn xuôi: SBC là săn bắt chuột (Nxb. Trẻ), tiểu thuyết của nhà văn Hồ Anh Thái; lý luận phê bình: Dĩ vãng phía trước (Nxb. Hội Nhà văn) của nhà văn Ngô Thảo; văn học dịch: Lolita (tiểu thuyết Nabokov) của dịch giả Dương Tường (Nxb. Hội Nhà văn & Công ty Nhã Nam).

26 tác giả chính thức trở thành hội viên Hội Nhà văn Hà Nội năm 2012, gồm: Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Bích Thúy, Chu Văn Sơn, Trương Đăng Dung, Nguyễn Xuân Thủy, Vương Cường, Thủy Hướng Dương, Tạ Văn Hoạt, Cao Ngọc Thắng, Bùi Quang Thanh, Ngô Đắc Thảo, Phạm Thị Phương Thảo, Mai Huy Trân, Bình Nguyên Trang, Nguyễn Duy Yên, Phạm Xuân Đào, Nguyễn Trọng Huân, Nguyễn Thị Hòa, Linh Lê, Nguyễn Chu Nhạc, Nguyễn Thị Nụ, Nguyễn Quỳnh Trang, Lê Huy Bắc, Phong Tuyết, Nguyễn Trần Thái.

TT&VH Online đã ghi lại hình ảnh Lễ trao giải thưởng văn học và kết nạp hội viên năm 2012 của Hội Nhà văn Hà Nội:

Hình : Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên phát biểu khẳng định các tác phẩm đoạt giải đều được Hội đồng giải thưởng nhất trí cao và đánh giá hoàn toàn xứng đáng.

Hình : Khán phòng chật cứng người tham dự Lễ trao giải và kết nạp Hội viên của Hội Nhà văn Hà Nội. Ngồi hàng đầu từ trái sang có ông Nguyễn Minh Nhựt – Giám đốc / TBT Nhà xuất bản Trẻ, ông Nguyễn Anh Vũ – Phó giám đốc Nhà xuất bản Văn học, ông Vũ Hoàng Giang – Phó giám đốc Công ty TT Nhã Nam, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân và nhà giáo / nhà nghiên cứu văn học Chu văn Sơn.

Hình : Các tác giả nhận giải thưởng văn học năm 2012, từ trái qua: nhà thơ Nguyễn Bình Phương, nhà phê bình Ngô Thảo, dịch giả Dương Tường, con trai của nhà thơ Phùng Cung và do nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội đại diện trao tặng.

Hình : Nhà phê bình Ngô Thảo quyết định trao toàn bộ số tiền giải thưởng của mình tặng cho cây viết thơ trẻ Hồng Thủy Tiên đến từ Tây Nguyên, với mong muốn cô có thể mua được một cái laptop phục vụ cho việc học hành và sáng tác.

Hình : Hồng Thủy Tiên bật khóc vì xúc động…

Hình : Dịch giả Dương Tường phát biểu ý kiến. Ông chia sẻ về dịch phẩm Lolita – với hai năm dịch cần mẫn, cẩn thận cùng mong muốn cầu toàn nhất có thể. “Giờ một bên mắt trái của tôi gần như hỏng, để nhìn được chữ, lắm khi tôi phải dùng kính lúp. Tôi đã dịch trong điều kiện sức khỏe gần như suy kiệt… Lolita là tác phẩm mà tôi vô cùng yêu quý trong mấy năm gần đây, và là tác phẩm thuộc diện dịch khó nhất… Nếu có sai sót trong bản dịch này, thì đó là do trình độ của tôi, chứ không phải là tôi dịch ẩu”.

Hình : Đại diện cho Công ty TT Nhã Nam, ông Vũ Hoàng Giang bày tỏ sự cảm ơn chân thành đến giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội. Nhã Nam luôn có duyên với giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội, lần này, Nhã Nam nhận hai giải: Dịch thuật với Lolita của dịch giả Dương Tường, và Thành tựu trọn đời với tập thơ Xem đêm của nhà thơ Phùng Cung

Hình : Các tác giả đoạt giải thưởng giao lưu và chia sẻ tại buổi lễ. Riêng nhà thơ Nguyễn Bình Phương từ chối phát biểu với nụ cười hiền, như theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên giải thích: anh là thế, luôn âm thầm, lặng lẽ viết.

Hình : Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên trao quyết định kết nạp Hội viên Hội nhà văn Hà Nội 2012.

Hình : Mảng văn xuôi, có Linh Lê là nhà văn nhỏ tuổi nhất, cô sinh năm 1986, ngoài ra còn có hai nhà văn quân đội Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Xuân Thủy và nhà văn Nguyễn Quỳnh Trang, đến từ báo Thể thao & Văn hóa

Hình : Nhiều nhà thơ được kết nạp, chưa thấy gương mặt thực sự trẻ xuất hiện lần này. Nhà thơ Nguyễn Bình Phương sau khi nhận giải thì cũng nhận luôn quyết định kết nạp, trở thành hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Một tin vui là trong lần kết nạp này, có hai bố con cùng song hành vào Hội, đó là nhà thơ Cao Ngọc Thắng cùng con dâu là nhà văn Nguyễn Quỳnh Trang.

Hình : Sự góp mặt của nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi làm buổi kết nạp hội viên thuộc lĩnh vực Nghiên cứu Lý luận Phê bình thêm long trọng.

Hình : Nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi dí dỏm: “Tôi vào hội vì sức hút của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên…”
Buổi lễ kết thúc vào gần 11 giờ trưa, với những nụ cười và những bó hoa tươi thắm trên tay các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, dịch giả được giải và được kết nạp. Tất cả hồ hởi ra ngoài sảnh, cùng dự tiệc nhẹ. Muôn ly rượu được nâng lên, hòa với niềm vui chung của một năm đong đầy các giải thưởng.

A.V. & L.M.

XEM HÌNH NƠI TRANG CHÍNH :  http://www.boxitvn.net/bai/41932









No comments:

Post a Comment

View My Stats