Phạm Xuân Yêm
Cập nhật lần cuối 25/10/2012
GS Phạm Xuân Yêm (Paris) trả lời phỏng vấn báo Văn Hoá
NghệAn(VHNA)
Để có một nền giáo dục – khoa học
hiệnđại, cần một nền văn hóa khai phóng1
VHNA: Tiến sĩ Quốc gia Đại học Paris, nguyên Giám đốc nghiên cứu thuộc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học (ngành Vật Lý
lý thuyết), làm việc tại đại học Pierre & Marie Curie, Paris, giáo sư Phạm
Xuân Yêm là một trí thức luôn quan tâm đến văn hóa, giáo dục và khoa học của
nước nhà. Nhân Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành trung ương Đảng đang nhóm
họp để bàn về công tác giáo dục, khoa học, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với
giáo sư
về các lĩnh vực này. Chúng tôi quan niệm, để tiếp cận và
nhận thức vấn đề một cách khách quan, có thể, và cần lắng nghe nhiều ý kiến
khác nhau để có những kết luận và quyết định sáng suốt nhất. Với tinh thần đó,
chúng tôi giới thiệu cùng bạn đọc nội dung cuộc trao đổi này.
Phóng viên: Thưagiáo sư,
khoa học, giáo dục cũng là những bộ phận, những thành tố cấu thành của một nền
văn hóa, song trong nhận thức thông thường, bề ngoài, theo cơ cấu hành chính
thì đó là ba ngành, ba lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Khoa học, giáo
dục, văn hóa là ba chân kiềng tạo nên trí tuệ và phẩm chất, tư cách của một
công đồng, một dân tộc. Là một nhà khoa học, đồng thời là nhà giáo, người am
hiểu và quan tâm nhiều đến đời sống văn hóa, nền văn hóa của đất nước, lại làm
việc ở Paris –một trung tâm văn hóa lớn của thếgiới, xin đề nghị giáo sư phân
tích mối liên hệ hữu cơ của ba nhân tố này trong tổng thể một nền văn hóa?
Yếu tốnào có vai trò tiên phong, định hướng sự vận động
của nền văn hóa? Và yếu tố nào đóng vai trò động lực, chi phối sự vậnđộng của
nền văn hóa, của xã hội?
Giáo sư Phạm Xuân Yêm: Đúng như cách đặt vấn đề của quý
Tạp chí, thực sự có mối liên hệ hữu cơ giữa ba nhân tố (khoa học, giáo dục, văn hóa) trong tổng thể một nền văn hiến, tôi thiển
nghĩ chúng theo một tuần tựtrước sau. Bằng cách đảo ngược vấn đề như một cách
tiếp cận, theo chân nhà Phật và cũng là phương pháp thường được khai thác trong
khoa học, tôi mạn phép dùng chữ Vô như vô văn hoá, vô giáo dục mà không cần dài
dòng vì chúng ta đều cảm nhận rất rõ ràng chúng là gì trong muôn vàn khía cạnh
phong phú của cuộc sống. Trái lại, ít ai dùng chữ vô khoa học, nó hẹp hơn và
chỉ hàm nghĩa thiếu logic, thiếu thuyết phục bằng lý luận và thực nghiệm.
Văn hoá theo tôi hiểu là cả một tiến trình để đạt tới
chân thiện mỹ, nó bàng bạc bao trùm mọi suy tư, hành động, ngôn từ, giao tiếp
của con người cho đáng là người. Văn hoá chỉ có thể thăng hoa khi được xây dựng trên một nền tảng giáo dục cởi mở, không độc tôn, theo những tiêu chuẩn phổ quát tiến bộ của thế giới để dẫn đường
người học trở nên công dân trung thực, đạo đức, có kiến thức, đủ khả năng tự
lập để
suy xét và hành động; sau đó trong Giáo dục thì yếu tố
Khoa học (với cả hai chân là Nhân văn và Tự nhiên) đóng vai trò hải đăng.
Sau đây tôi chỉ giới hạn đến yếu tố Khoa học tự nhiên. Nó
không phải ngẫu nhiên mà có như ngày nay chúng ta biết. Khoa học được xem là khai sinh tại Hy Lạp cổ đại 2600 năm trước, nhưng rồi từ thế kỷ
thứ ba trước công nguyên nó phải nhường chỗ cho những quan tâm đạo đức, siêu hình, thần học, tôn giáo; chúng chi phối
độc tôn cả văn hoá lẫn tư duy. Hơn ngàn năm sau (750-1100) là thời đại khoa học
mang dấu ấn Hồi giáo vàng son rồi tàn lụi kéo dài triền miên để vào thế kỷ 17
với Galilei, Kepler, Descartes, Newton, khoa học mới bứt phá thoát khỏi các sợi
dây trói buộc nó. Nó luôn luôn phải trả giá đắt cho những cuộc bứt phá của mình.
Từ đó Khoa học trở thành có tính khai minh, ảnh hưởng lan toả vào phong trào
khai sáng ở thế kỷ 18 trên toàn lục địa Âu châu.
Từ thế kỷ 18 qua thế kỷ
19, khoa học đã phát triển ngày càng mạnh mẽ,và được thể chế hoá vào các trường
đại học, viện nghiên cứu, hàn lâm. Khoa học có giá trị ngày càng phổ quát. Giáo dục, Văn hoá, Kinh tế và hầu như mọi
lãnh vực đều ít nhiều chịu ảnh hưởng ngày càng tăng của khoa học. Khoa học đã
dần dần thay đổi thế giới quan Trung cổ từ Âu sang Á. Đầu thế kỷ 19, với sự ra đời của đại học nghiên cứu Đức (Humboldt), khoa học được đưa vào trung tâm của giáo dục đại học, lấy nghiên cứu khoa học làm
nòng cốt hoạt
động. Chân lý không còn là bất biến,
cái cấm kỵ, mà là “cái mãi mãi phải đi tìm”. Đại học do đó phải có tựdo, tự chủ để nghiên cứu và giảng dạy.
Quyền lực tôn giáo mạnh mẽ và cũng tàn bạo biết bao nhiêu
nhưng cuối cùng đã không ngăn chặn được sự phát triển khoa học của thời đại. Sự xuất hiện và phát triển khoa học đã có một tác dụng thâm nhập toàn
khắp vào thế giới quan của con người và giúp con người nhận biết quyền lực nào
đáng được tin hay không. Khoa học tự nó có hệ thống giá trị đạo đức của nó, có nguồn gốc trong sự cởi mở đối với các ý
tưởng mới, và sự nghi ngờ trước những gì không được kiểm chứng bởi thực nghiệm
và lý tính, tôn trọng cuộc truy vấn có lương tâm những chân lý mới, có tính
chăm chút, cẩn trọng và hoàn hảo. “Không nghi ngờ gì”, như Max Planck, người khai sáng thuyết lượng tử viết, “trong các bông hoa đạo đức của khoa học thì tính trung thực là bông hoa cao cả nhất ” .
Chính thể nào
không am hiểu sự phát triển lành mạnh của khoa học sẽ tụt hậu. Ở đâu không tôn trọng chân lý, chỉ biết quyền lợi bè phái, ở đó
gian dối tràn lan. Khoa học là “sức mạnh đại diện” trên trường quốc tế. Quốc gia nào có khoa học phát triển lên đỉnh
cao là có uy tín lớn trên trường quốc tế.
Phóng viên: Có thể lấy
dẫn chứng từ lịch sử dân tộc Việt Nam? Và có thể dẫn chứng từ các nước khác, nước Pháp chẳng
hạn?
Giáo sư Phạm Xuân Yêm: Điểm son của triết lý
giáo dục tiến bộ trên thế giới là sự bao dung, tôn trọng và bàn cãi tự do những tư tưởng, triết lý, chính kiến, tín ngưỡng khác
nhau, chúng bổ túc cho nhau. Tư duy độc lập, phê phán, phản biện, tự vấn không
ngừng là những yếu tố quyết định của một nền giáo
dục tiến bộ và phổ quát. Không thể áp
đặt độc tôn bất kỳ một hệ tư tưởng chính trị, tôn giáo, triết học nào đó lên sự nghiệp giáo dục đào tạo con người. Mọi sự áp đặt khập khiễng
chỉ kìm hãm tư duy sáng tạo, đẩy lùi nền văn hóa và phát triển xã hội.
Triết lý giáo dục ở Pháp dựa trên hai nền tảng : nhà
trường thế
tục và cộng hòa. Nhà nước tôn trọng và trung lập đối với
mọi tín ngưỡng, chính kiến, tư tưởng, nhân sinh
quan, triết học. Nhà trường là nơi hòa trộn mọi thành phần, không phân biệt
nguồn gốc, chủng tộc, giai cấp xã hội, lý lịch của học sinh.
Ta thấy rõ sự khác biệt so với thời phong kiến hàng ngàn
năm bên
Đông Á mà học thuyết cửa Khổng sân Trình đã độc tôn thống
trị tư duy thần dân. Cũng như Cơ đốc giáo với
giả thuyết
điạ tâm sai lầm bên châu Âu đã đưa Giordano Bruno lên dàn hỏa thiêu và Galileo Galilei phải quỳ gối tự
chối bỏ tác phẩm
đặt nền tảng cho Vật lý và Thiên văn hiện đại. Điển hình
gần đây hơn là thời Stalin đã dùng quyền lực chính trị để áp đặt lý thuyết dỏm, ngụy tạo về di truyền của Lyssenko, gây tai hại cho
nền khoa học của Liên Xô vào giữa thế kỷ 20. Cũng vậy, giáo điều phát xít Đức
đã
đẩy lùi nền khoa học Âu châu trong bao năm, làm nhiều tài
năng phải di tản sang châu Mỹ. Gần đây hơn là thời đen tối của chủ nghĩa Mao bên Trung Quốc, của nhóm hồi giáo cực đoan Taliban bên Afghanistan. Ở
Việt Nam vụ án phong trào Nhân văn-Giai
phẩm thời 1956 đã ảnh hưởng tiêu cực đến văn hoá, đạo đức, giáo dục, và
cả khoa học kéo dài cả hàng thế hệ.
Việt Nam chưa có nền khoa học xứng đáng với tiềm năng,
vài con én không làm nổi mùa xuân nên đất nước mãi yếu kém. Nhà khoa học chân
chính, lương thiện hiện nay có đồng lương không đủ sống cho gia đình. Làm sao có khoa học phát triển mạnh mẽ được? Nhà khoa
học không được nói sự thật, làm sao phục vụ quốc gia hữu hiệu được? Tuy cùng chung
cảnh ngộ trong lịch sử cận đại, vậy mà nay Việt Nam lại trở thành
một phản thí dụ của Hàn quốc: Thể chế
kinh tế - chính trị chậm cải cách đổi mới, tính phi-trung thực, tinh thần bè
phái, lợi ích cục bộ, không tôn trọng tiếng nói nhân dân và trí thức, thích
nghe một chiều, không ngước nhìn thế giới để học mà chỉ tự biên tự diễn, những
cáiđó giết chết văn hoá, khoa học và giáo dục.
Thăng trầm trong lịch sử của các nền văn hiến, đặc biệt
Ai Cập, và của khoa học nói riêng cứ đeo đuổi tôi hoài.
Phóng viên: Về văn hóa, giáo dục và khoa học Việt nam hiện nay đang có những nhận định khác nhau. Một xu hướng có vẻ nổi trội là cho rằng văn hóa– giáo dục –
khoa học của chúng ta đang có nhiều sa sút, khủng hoảng và tụt hậu so với thế
giới, thậm chí có mặt so với chính mình, nhất là về giáo dục. Về giáo dục chẳng
hạn, có người phân tích và đi đến nhận định là tư duy giáo dục còn lạc hậu hơn
Đông Kinh nghĩa thục hồi đầu thế kỷ trước hay hồi chính phủTrần Trọng Kim với
cải cách giáo dục của Hoàng Xuân Hãn và các cộng sự. Giáo sư có bình luận gì về
những nhận định này? Và giáo sư có nhận định riêng của mình không?
Giáo sư Phạm Xuân Yêm: Đúng quá đi chứ. Nếu làm mất đi tính khách quan, trung thực của khoa học,
thì làm sao có thể xây dựng được văn hoá,
khoa học, giáo dục lành mạnh? Điều kiện tiên quyết là phải trả lại sự khách
quan cho xã hội. Đó là tính khoa học, tính trung thực, tính công bằng. Cá nhân
tôi có những kỷniệm vô cùng quý giá đối với nền giáo dục của thời kháng chiến
giành độc lập (1946 -1954) với các thầy Hoàng Ngọc Phách, Đinh Gia Khánh, Hà Sĩ
Hồ… ở trường Trung học cơ sở Hàn Thuyên từ Bắc Ninh di tản dần tới Thái nguyên,
đêm
đêm học hành dưới đèn dầu hỏa, thầy trò thương yêu nhau
như một
đại gia đình vì cùng chia sẻ niềm tin trong sáng là độc lập, tự do, hạnh phúc. Chương trình giáo dục lúc
đó chủ yếu là sự kéo dài chương trình Hoàng Xuân Hãn. Ngày nay khi
giáo dục đi lạc ra ngoài con đường chung của thế giới, như Giáo sư Hoàng Tụy nhận định, thì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh ngày càng xa lắc.
Phóng viên: Thếnào là
một nền giáo dục hay một nền khoa học hiện đại hay là các tiêu chí của một nền
giáo dục – khoa học hiện đại?
Giáo sư Phạm Xuân Yêm: Khách quan, định hướng theo khoa học, không giáo điều, không quan liêu,
không giả dối. Mọi người cần phải được tôn trọng,
và được trọng dụng theo tài năng chứ không theo tiêu chuẩn chính trị, tôn giáo,
nguồn gốc gia đình, bè phái lợi ích cục bộ. Giáo dục cần phải khoa học, khai
phóng, dân chủ, nhân văn, cởi mở với thế giới, không đóng kín, học hỏi thế giới, phi ý thức hệ, phi chính trị hoá.
Phóng viên: Để có một nền giáo dục – khoa học hiện đại, cần một nền tảng văn hóa như thế
nào?
Giáo sư Phạm Xuân Yêm: Một nền
văn hoá khai phóng, nghĩa là cởi mở với
cái mới, hướng về chân - thiện - mỹ,tôn trọng chân lý, tôn trọng sự đa dạng của
ý kiến kể cả chính kiến, quý trọng cái tiến bộ,phải biết cái gì cũ, lạc hậu cần
phải bỏ và thay vào đó bằng cái mới, không ngừng đi tìm học hỏi ở các dân tộc
khác. Cần nhìn nhận hoạt động dân chủ, thảo luận thẳng thắn. Tôn trọng nhân tài
xứng đáng, vai trò trọng yếu của lực lượng khoa học, công nghệ.
Phóng viên: Phải chăng
một nền/hệ thống giáo dục hay một nền khoa học sẽ tạo những giá trị văn hóa của
mình?
Giáo sư Phạm Xuân Yêm: Đồng ý hoàn toàn, chỉ xin thay chữ hay bằng chữ và, …một
nền/hệ thống giáo dục và một nền khoa học…
Phóng viên: Giáo dục và
khoa học của các quốc gia/dân tộc có một nền tảng chung là tri thức. Phân biệt
các nền văn hóa là nhờsự khác biệt truyền thống/bản sắc. Theo giáo sư thì giáo
dục và khoa học đòi hỏi những phẩm chất chung nào? Tại sao?
Giáo sư Phạm Xuân Yêm: Mỗi quốc gia đều có truyền thống/ bản sắc. Hãy xem tấm gương Nhật Bản, Hàn Quốc. Họ hiện đại hoá đất nước nhưng có mất mát truyền thống/ bản sắc của họ
đâu? Còn Việt Nam theo đuổi đường lối chính trịcó
phù hợp với bản sắc và văn hoá dân tộc không?
Tính trung thực, niềm say mê, tính hiếu kỳ tìm hiểu, sự cần cù chăm chỉ,khắc nghiệt với chính mình, quyết tâm lao
động, không sờn khó khăn của từng cá nhân có lẽ là những phẩm chất chung đòi
hỏi bởi một nền giáo dục và nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh.
Phóng viên: Trong lịch
sử, và cả trong thế giới hiện đại, cả văn hóa, giáo dục và khoa học, nếu muốn
phát triển phải phụ thuộc vào sự tiến bộ của cách thức tổ chức và quản trị xã
hội. Một xã hội nếu giải phóng và phát huy được tiềm năng sáng tạo sẽ phát
triểnđược giáo dục và khoa học, sẽ có một nền văn hóa tiến bộ và có nhiều giá
trị ưu việt. Nhìn vào thực tiễn củađất nước hiện nay, theo giáo sưthì vấn đề
nào, điều kiện nào có ý nghĩa quyết địnhđể phát huy được những phẩm chất tốt
đẹp về trí tuệ và tinh thần, cả nguồn lực vật chất nữa nhằm khắc phục tình
trạng sa sút, lạc hậu của nền giáo dục, non yếu của nền khoa học và sựsuy thoái
của văn hóa?
Giáo sư Phạm Xuân Yêm: Mỗi quốc gia muốn phát triển thành công, cần phải có một loại khai sáng
nhất định từ những nhà lãnh đạo của các tổ
chức và quản lý xã hội, càng cao càng phải có ý thức và trách nhiệm lớn hơn đối
với lịch sử, điều dĩ nhiên trong một xã hội công bằng dân chủ.
Các nhà lãnh đạo trước nhất phải là những nhà chính trị có tinh thần khai sáng,
hiểu biết văn hoá thế giới, có tầm nhìn, hiểu biết giá trị của giáo dục, khoa
học, của con người, của tính chính trực, của công bằng, của sự tôn trọng nhân
cách, của những quyền tự do cơ bản, như quyền phát biểu, quyền nghiên cứu chân lý và phổ biến. Nhà nước cần tạo
điều kiện để cùng với nhân dân tạo ra tri thức cần thiết cho sự phát triển đất
nước, và trị vì trên cơ sở đó, chứ không phải áp đặt. Cứ nhìn sự khác biệt như mặt trăng mặt trời giữa hai cách
thức tổ chức xã hội của Bắc và Nam
Triều Tiên.
Đất nước nào xây dựng thành công đều có một triết lý của khai sáng: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore.
Trung Quốc, trong chừng mực nào đó, cũng có một loại khai sáng. Họ đã thành
công. Họ hiểu quy luật của sự vận hành của khoa học trong xã hội, và đã tạo
điều kiện về văn hoá, giáo dục, cơ chế để cho khoa
học, công nghệ
phát triển. Việt Nam còn lúng túng, chưa tìm ra một loại
khai sáng cho mình, đổi mới thế nào, cách mạng công nghiệp là gì, và làm sao để
khoa học và công nghệ trở thành động lực
phát triển. Đại Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI cho thấy sự bế tắc trong
việc thực hiện cuộc đổi mới toàn diện giáo
dục-đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách đã được đề ra từ 16 năm trước.
Phóng viên: Trên thế
giới có những trường hợp tương tự, có những đặc điểm lịch sử và văn hóa gần với
chúng ta mà/và họ đã giải quyết thành công để phát triển về văn hóa, giáo dục
và khoa học?
Giáo sư Phạm Xuân Yêm: Hãy xem Nhật Bản từ thế kỷ 19 thời Minh Trị Duy Tân. Mới
hơn là Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và nhất là Hồng Kông. Tại sao Việt Nam
không học được gì hay của những quốc gia này? Việt Nam đang sống giữa vùng đất
có nhiều thần kỳ kinh tế hơn tất cả nơi khác,
sao VN không học được để cất cánh theo?
Cải cách thể chế là quan trọng nhất, là chìa khoá để giải
quyết thành công sự phát triển văn hoá, giáo dục và khoa học, tuy không thể một sớm một chiều, nhưng sẽlà tụ điểm của mọi thành phần dân
tộc trong ngoài nước.
Phóng viên: Chúng ta có
thể tham khảo và học tậpđược những gì ở các quốc gia – dân tộc, các nền văn
hóađó?
Giáo sư Phạm Xuân Yêm: Hãy xem văn hoá đọc sách và giáo dục của họ. Việt Nam chưa tỏ ra biết học,
muốn học, cứ coi mỗi cuốn sách xuất bản chỉ có chừng một, hai ngàn bản thì thấy rõ. Hãy xem khoảng cách giữa Việt Nam và những
quốc gia phát triển khu vực ngày càng xa ra, chứ không thu hẹp lại. Học chính
sách chọn nhân tài, đãi ngộ nhân tài, tinh thần công minh chính trực, rất khoa
học của họ từ trên xuống dưới. Ở Việt Nam không phải như thế. Tiêu chuẩn chọn người không phải do tài
năng, mà do tham nhũng, quan hệ.
Phóng viên: Cách tham
khảo, học tập họ nên như thế nào để có hiệu quả nhất, vừa phát triển được và vừa bảo vệ được truyền
thống và bản sắc của mình?
Giáo sư Phạm Xuân Yêm: Câu này phải đặt ra cho những nhà lãnh đạo. Thế giới hiện nay muốn học cái
gì cũng được, miễn là có quyết tâm. Hãy xem các quốc gia trong khu vực, họ phát
triển thành rồng, nhưng có ai nói họ mất bản sắc, hay
không có bản sắc? Các bài học không thiếu. Nhật Bản cũng từng học khắp nơi ở phương Tây, từng học của Trung Hoa một ngàn năm trước, rồi lại học của
phương Tây, ai chê Nhật Bản mất bản sắc? Họ giữ được truyền thống Khổng giáo
còn hơn quốc gia từng là nôi của Khổng giáo là Trung Hoa. Trung Hoa đã phá nát
các giá trị đạo
đức của Khổng giáo, chứ không phải Nhật Bản đổi mới.
Sự sám hối của tổng thống
U Thein Sein xứ Myanmar và sự hoà giải với anh thư Aung San Suu Kyi bởi vì
quyền lợi tối cao của đất nước mà giải thưởng Phật hoàng Trần Nhân Tông vinh
danh hai vị vừa rồi ở Boston là một bài học quý báu cho tất cả chúng ta.
Phóng viên: Chúng tôi hy
vọng khi đã nhận ra con đường đúng, cần đi, phải đi thì nhất định tinh thần Việt, trí tuệ Việt sẽ là động lực đưa dân tộc ta thoát khỏi những khó khăn, bế tắc hiện
nay và phát triển để tiến kịp nhịp bước chung của thời đại, của thế giới. Trân
trọng cảm ơn giáo sư về cuộc trao đổi này.
1. Bài phỏng vấn này được đăng trên báo Văn Hoá Nghệ An,
số 231 ngày 25.10.2012. Đây là bản GS Phạm Xuân Yêm gửi cho Diễn Đàn.
No comments:
Post a Comment