December 7, 2016
Càng xa Mạc Tư Khoa, ta càng gặp những người cộng sản
giống chúng ta như những con người, triết gia lừng lẫy một thời Jean-Paul
Sartre nói thế. Xa đế chế Sô-viết hơn cả, thuở đó, là Cuba. Chủ nghĩa xã hội
nhiệt đới cha-cha-cha và vị lãnh tụ ngậm xì-gà dường như là phiên bản đỡ giáo
điều hơn, cận nhân tình hơn, bớt nghiêm trọng hơn nguyên bản Siberia băng giá.
So với Việt Nam, bán đảo tiền đồn cũng nhiệt đới của cách mạng vô sản thế giới ở
đầu này, thì Cuba, hòn đảo cũng tiền đồn ở đầu kia có vẻ phóng khoáng vui tươi
hơn vài bậc.
Fidel Castro 2006. Ảnh: dpa
Thời chúng tôi đi học ở các nước xã hội chủ nghĩa,
Cuba và Mông Cổ là hai tấm vé hạng chót. Liên Xô hiển nhiên là hạng nhất, song
Cộng hòa Dân chủ Đức được coi là thiên đường. Cuba nghèo, lạc hậu và anh hùng,
toàn những điều Việt Nam có đủ dùng cho nhiều thế hệ. Nên tôi không thấy Cuba
có gì đặc biệt hấp dẫn. Các bạn Cuba cùng trường cũng không phải là những tấm
gương sáng. Họ học hành vừa phải, yêu đương hăng hái và nhảy nhót cuồng nhiệt,
trong khi sinh viên Việt tuân lời răn của Đại Sứ quán: Đi nhảy là thiếu
văn minh/ Là phản Tổ quốc, là khinh ông bà. Và tôi đã ngạc nhiên không ít
trước tình yêu của giới trí thức cánh tả phương Tây dành cho cuộc cách mạng
Cuba. Hay nói đúng hơn, dành cho Fidel Castro, như thể Fidel là Cuba và ngược lại.
Hơn một nửa thế kỷ, vị Máximo Líder cao 1,91 m trong bộ quân
phục màu ôliu của châu Mỹ Latin vừa qua đời đã là nhân vật mê hoặc hàng loạt
nhà văn hàng đầu thế giới, bất chấp tất cả những tội ác đã ghi sổ của các nhà
nước cộng sản gộp lại và Cuba nói riêng. Như thể chủ nghĩa xã hội ở Cuba, khác
với nguyên bản hiện thực ở Đông Âu và châu Á, là phiên bản riêng của châu Mỹ
Latin, một chủ nghĩa xã hội huyền ảo mà Gabriel García Márquez, đại diện hoàn hảo
của trường phái văn chương hiện thực huyền ảo, trung thành đến trọn đời.
Bức tranh „Hồ Chủ tịch làm việc ở Bắc Bộ phủ (1946“,
của Tô Ngọc Vân- một điển hình của trường hợp nghệ sĩ bị mê hoặc.
Hồ Chí Minh cũng từng và chưa thôi mê hoặc rất nhiều
văn nghệ sĩ Việt Nam và một số tác giả nước ngoài. Một người như nhà thơ Lê Đạt,
hoàn thành trường ca Bác dịp giỗ đầu ông Hồ khi chính mình
đang chịu nạn của chế độ mà vị lãnh tụ này đóng vai trò quyết định, với những
câu rất Lê Đạt: Mây trắng đền Hùng/ Râu Bác ung dung… chắc chắn đã
viết theo mệnh lệnh của trái tim riêng chứ không phải của Ban Tuyên giáo. Bức
“Hồ Chủ tịch làm việc ở Bắc Bộ phủ” của Tô Ngọc Vân tuy xuất phát từ đề nghị của
Hội Văn hóa Cứu quốc, song cảm xúc sâu đậm của họa sĩ trước người mẫu mãi mãi
còn lại trên mặt vải. Ngay cả người có vẻ giữ một khoảng cách tỉnh táo, nhạc sĩ
Phạm Duy, cũng không thể phủ nhận ấn tượng đặc biệt khi gặp ông Hồ thuật lại
trong hồi ký.
Quyền lực tha
hóa và cám dỗ. Quyền lực tuyệt đối tha hóa tuyệt đối và cám dỗ tuyệt đối. Thế kỷ hai mươi sinh ra một loạt những nhân vật thâu tóm toàn bộ quyền lực
của một phong trào, một quốc gia hay thậm chí của cả một hệ thống vào riêng một
cá nhân mình. Các nhà độc tài đó đều dán lên trán một ý chí mãnh liệt và đội
trên đầu một cái Tôi khổng lồ. Trước ba thứ ấy cộng lại, một quyền lực vô hạn,
một ý chí vô song và một cái Tôi vô cùng, bị khuất phục trước tiên là những kẻ
thuộc giống nòi homo poeticus, nhất là khi nhà độc tài lại sính thơ
phú văn chương. Pablo Neruda, Nobel 1971, không phải là nhà thơ duy nhất ca tụng
Stalin ngoài Tố Hữu.
Fidel Castro tiếp Sartre và Simon de Beauvoir năm
1960. Ảnh: Alberto Korda
Nhà độc tài Cuba lại có nhiều hơn những thứ ấy. Ông
có một vẻ ngoài quyến rũ không chỉ phụ nữ, rất nhiều phụ nữ. Khác với râu “Bác
Hồ“ chỉ in dấu trong thơ ca Việt, râu Fidel và râu Che Guevara đã vĩnh viễn gắn
mác cho cách mạng Mỹ Latin, như tóc Beatles ở phương Tây cho cách mạng văn hóa
của giới trẻ. So với một phần nhỏ các cuộc phiêu lưu của Fidel, những bộ phim
Indiana Jones của Hollywood thật nhạt nhẽo. Không lâu nữa câu chuyện người tình
Đức của ông, nàng Marita đem thuốc độc của CIA vứt vào bồn cầu dù bị chàng bạc
đãi, sẽ
lên màn ảnh, để chúng ta thắt tim một lần nữa về tình yêu cứu rỗi trong khi
chính trị chỉ biết oán thù. Ông có thể tự giễu mình và pha trò đầy trí tuệ,
trong khi hài hước là hàng cấm tuyệt đối trên toàn cõi thị trường tư tưởng
Mác-Lê. Có thể tiếp cặp bom tấn tri thức Sartre và Simone de Beauvoir hàng tiếng
đồng hồ không hết chuyện, những người từng gặp từ Mao, Khrushchev đến Tito và hầu
hết các lãnh tụ cộng sản khác chỉ trừ Hồ Chí Minh. Có thể đích thân đưa họ đi
khắp Cuba bằng xe, bằng thuyền, bằng trực thăng và bày những trò nghịch ngợm
khác xa sự cứng đờ đầy nghi ngờ cố hữu của giới lãnh đạo đỏ. Có thể tranh giải
câu cá với Hemingway và nghiêm túc thuật lại ba ngày vật lộn trong Ông
già và Biển cả, cho đến lúc ông lão Santiago phóng lao giết chết con cá kiếm
khổng lồ. Có thể hùng biện đúng 7 tiếng 15 phút đồng hồ không nghỉ trước Liên
Hiệp Quốc và thức thâu đêm tán chuyện với các nhà văn. Kịch tác gia Arthur Miller kể lại một
chuyến thăm Cuba năm 2000, ông già Fidel 74 tuổi tràn đầy sức sống, đầu
vẫn sáng, lưỡi vẫn dẻo, càng về khuya càng máu, trong khi người bạn chí cốt
Gabo – Gabriel García Márquez – nhỏ hơn một tuổi đã thẳng lưng ngủ ngồi trên ghế
bên cạnh từ lâu. Không ai hơn Gabo trong nghệ thuật ca ngợi Fidel. Từ lời tựa của
ông cho cuốn Habla
Fidel(1988) của nhà báo Ý Gianni Minà, tôi được biết: Ngoài vô vàn phẩm chất
phi thường như mỗi sáng điểm tâm bằng 200 trang tin tức, hay khả năng miêu tả một
trận đánh ở Angola như thể mình trực tiếp có mặt, Fidel còn nấu ăn cực khoa học
và mỗi ngày tập thể dục mấy tiếng đồng hồ. Quả là một nhân vật như bước ra từ một
cuốn tiểu thuyết của chính García Márquez. Vị trưởng lão cuối cùng, sống sót
qua cả mùa thu của cách mạng Nam Mỹ, nay cũng theo người bạn quý ra đi.
Nhà văn Chile Roberto Bolaño trong cuộc đời ngắn ngủi
của mình đã dành nhiều công sức đào mồ chôn đặc sản văn học của châu lục quê
hương ông. Không ai còn có thể mất hồn vì những con thỏ ăn thịt đồng loại rượt
đuổi những con bò khổng lồ trên đồng cỏ Nam Mỹ mênh mông nữa. Ông thấy những vụ
quàng vai bá cổ của García Márquez với các nhà độc tài khắp năm châu bốc mùi khủng
khiếp và văn học hiện thực huyền ảo còn bốc mùi nhiều hơn. Chủ nghĩa xã hội huyền
ảo của Cuba, cũng một đặc sản Nam Mỹ, hẳn cùng chung số phận. Cuối cùng, với tất
cả những lãng mạn xì-gà râu tóc, nó cũng chỉ là một phiên bản không mấy xa
nguyên bản chính thống đã thuộc về lịch sử.
Trong ký sự Cuba đã dẫn, mười sáu năm trước, Arthur
Miller nhận xét: Sau nửa thế kỷ nắm quyền, Fidel đã thành một sinh thể lộn thời
đại. Một chiếc đồng hồ cổ chỉ sai giờ, cứ đêm khuya lại tùy tiện đánh chuông
phá sự yên bình của cả xóm. Xóm nghèo Cuba, anh hùng, lạc hậu như thuở nào, tiền
đồn của một hệ thống đã biến mất.
05/12/2016
P.T.H.
No comments:
Post a Comment