Hội
nghị bí mật Thành Đô 1990, Nguyễn Văn Linh tuyên bố "3
quyết tâm" khẳng định trung thành với "Bác"
đảng Trung Cộng:
-
Chúng tôi quyết tâm sửa chữa những sai lầm về chính
sách trong quá khứ và không bao giờ quên ơn đảng BCT/TW
Trung Cộng. "Ngã môn hữu quyết tâm giải quyết
quá khứ chánh sách đích thất ngộ hòa vĩnh viễn bất
hội vong kí cảm tạ song phương BCT/ Trung quốc trung bộ".
-
Chúng tôi quyết tâm khôi phục lại chính sách Trung Cộng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm xưa đã quan hệ hữu
nghị truyền thống giữa hai đảng và hai nước. "Ngã
môn quyết tâm khôi phục hồ chí minh chủ tịch đích
trung quốc quốc gia chánh sách, tại quá khứ đích nhất
niên lí nhất trực thị lưỡng đảng, lưỡng quốc chi
gian đích truyền thống hữu hảo quan hệ".
-
Việt Nam quyết tâm dựa vào quan hệ tốt đẹp với Trung
Cộng là điểm khởi đầu cơ bản của thời kỳ này,
xem Hoa Kỳ là kẻ thù, đối đầu trực tiếp với Trung
Cộng Quốc. "cơ vu dữ trung quốc quốc gia trọng
điểm cơ sở lương hảo quan hệ việt xác định đích
xuất phát điểm thị giá nhất thì kì, khán đáo mĩ quốc
thị vi địch nhân, dữ trung quốc trực tiếp đối
kháng".
.
"Kỷ
yếu" ấn định đàm phán biên giới Trung-Việt
.
Sau
khi Bắc Kính lặp đi lặp lại, phải tiến hành nhanh thỏa
thuận về dự thảo văn bản "Thỏa thuận nguyên tắc
cơ bản về việc giải quyết vấn đề biên giới của
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam". (Quan vu giải quyết trung hoa
nhân dân cộng hòa quốc hòa Việt Nam xã hội chủ nghĩa
cộng hòa quốc biên giới lĩnh thổ vấn đề đích cơ
bổn nguyên tắc hiệp nghị) để rồi còn ký kết
những bản "tóm tắt" đàm phán khác. [1]
Ngày
18 tháng 10 năm 1993, Trưởng phái đoàn chính phủ Trung
Quốc Tiền Kỳ Tham đã thực hiện một chuyến đi đặc
biệt đến Hà Nội, với người đứng đầu phái đoàn
chính phủ Việt Nam Vũ Khoan, chuẩn bị định ngày ký kết
"Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản về việc giải quyết
vấn đề biên giới nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam".
Trong
"Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản" (cơ
bổn nguyên tắc hiệp nghị) hai bên khẳng định
trên cơ sở "chung sống tồn tại" (hòa bình
cộng xử), thông qua tham vấn giữa hai nước, bao
gồm Biển Đông và biên giới đất liền, cả hai đều
thực tế thiết lập chủ quyền biên giới mới của hai
quốc gia Trung-Việt. "Trọng tâm hiện hành về giải
quyết vấn đề biên giới đất liền và Vịnh Bắc Bộ.
Đồng thời, tiếp tục đàm phán về các vấn đề hàng
hải để đạt được một giải pháp cơ bản và lâu
dài", (mục tiền tập trung giải quyết lục địa
biên giới hòa bắc bộ loan vấn đề, dữ thử đồng
thì, kế tục tựu hải thượng đích vấn đề tiến hành
đàm phán, dĩ tiện thủ đắc nhất hạng cơ bổn hòa
trường cửu đích giải quyết bạn pháp). Về vấn đề
biên giới đất liền cần có "các nguyên tắc cơ
bản" (cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị) còn quy
định rằng "Thỏa thuận cả hai bên đồng ý trên cơ
sở một góc cạnh cung về Hòa ước Pháp-Thanh ngày 26
tháng 6 năm 1887", tiếp tục thảo luận Hòa ước
Pháp-Thanh ngày 20 tháng 6 năm 1895". Sau đó thảo luận
vòng tròn chương trình cô đọng hơn (song phương đồng
ý dĩ trung pháp 1887 niên 6 nguyệt 26 nhật thiêm đính đích
"tục nghị giới vụ chuyên điều"). Hòa ước
ngày 20 tháng 6 năm 1895 (tục nghị giới vụ chuyên điều
phụ chương). Nếu công nhận Hòa ước Pháp-Thanh hay
phủ nhận cũng nhắm vào mục đích phát triển cho phù
hợp hiện tình chủ quyền và phân định biên giới theo
quy định "Kỷ yếu 1990", nó như một tài liệu
xây dựng đàm phán chủ quyền của hai quốc gia. Những
bản đồ biên giới đất liền được vẽ theo quy định
của (pháp luật?) cho phù hợp những điểm đánh dấu
ranh giới, như là cơ sở của tất cả các đường biên
giới đã được phê duyệt đối với Trung Quốc-Việt
Nam", và giải quyết tranh chấp những vấn đề khu
vực. Ân định cuối cùng hai bên ký hiệp ước biên
giới. ("1990 niên luận văn tập" tha thị giá
dạng nhất cá kết cấu tài liệu, biên giới địa đồ
tương án chiếu giới bi đích pháp luật chế định, nhân
vi sở hữu đích biên giới đô bị phê chuẩn vi y cư
Trung quốc - Việt Nam). [2]
Hai
bên lấy quyết định rằng: "Hai bên nhất trí thi
hành pháp luật quốc tế cho phù hợp với luật biển
thông lệ của quốc tế, thông qua các cuộc đàm phán
phân chia Vịnh Bắc Bộ. "Để kết thúc, cả hai bên
cần thực hiện những nguyên tắc công bằng và xem xét
tất cả các trường hợp có liên quan Vịnh Bắc Bộ, bảo
đảm giải pháp công bằng". [3]
Hai
bên cũng đồng ý thành lập Nhóm công tác chung trên thực
địa biên giới đất liền, theo quy định thực tế phân
biệt lập hồ sơ, bản đồ, khảo sát thực địa, so
sánh bản đồ với thực địa v.v... và Nhóm chuyên viên
đàm phán, sau khi hai Nhóm thực hiện thành công một đoạn
công tác, trình lên đoàn đại biểu Chính phủ xem xét và
hướng dẫn, mọi phân chia do hai Nhóm làm việc chung từ
biên giới đất liền đến Vịnh Bắc Bộ, luôn luôn thảo
luận những điểm tranh chấp giữa hai nước để giải
quyết vấn đề, cần thiết việc soạn thảo hiệp ước
biên giới và các thỏa thuận phân chia Vịnh Bắc Bộ,
lập hồ sơ đầy đủ sau khi ký thay mặt Chính phủ.
"Những nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận", (cơ
bổn nguyên tắc hiệp nghị). Đối với việc giải
quyết cuối cùng của biên giới giữa hai nước phải đặt
nền tảng pháp lý vững chắc.
.
Ngày
07 tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân (江泽民),
Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng (李鹏)
và Tổng Bí thư Đỗ Mười (杜梅),
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của Việt Nam Võ Văn
Kiệt (在北京)
tham dự buổi lễ giao dịch "điếu ngư thái
quốc tân quán" (Diaoyutai State Guesthouse) tại
Bắc Kinh Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam đã ký kết "Hiệp
định biên giới tạm thời". Tài liệu ảnh lưu:
Huỳnh Tâm.
Tiền
Kỳ Tham hội đàm với Vũ Khoan (武宽)
để thảo luận về các cuộc đàm phán biên giới và các
vấn đề quan hệ song phương. Ông ta cũng đã gặp Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm (阮孟琴).
Đạt được những đồng thuận quan trọng trong đàm phán
giữa hai Chính phủ rất cụ thể:
-
Thứ nhất, đàm phán giải quyết biên giới đất liền,
Vịnh Bắc Bộ và vấn đề phân giới cắm mốc. Trong
tinh thần khó khăn lúc đầu đến hôm nay Việt Nam cho
trôi qua, quá dễ dàng chấp nhận mọi chủ động đề
nghị từ phía Trung Cộng và xem thường chủ quyền quốc
gia.
-
Thứ hai, trong quá trình giải quyết, Việt Nam thiếu năng
động không có dấu hiệu nào nỗ lực vì chủ quyền,
trong khi đó phía Trung Cộng cố gắng duy trì bình tĩnh,
tránh tối đa một số điều khó chịu bởi không lấy
được trọn vẹn ý theo bản đồ biên giới đã định,
Trung Cộng chủ động ngoại giao mềm (hành sử theo luật
giang hồ thay cho súng đạn, mua chuộc trao đổi quyền lợi
sai khiến thành phần có trách nhiệm đàm phán) tránh
được mọi tranh chấp biên giới đất liền lẫn Biển
Đông.
.
Ngày
30 tháng 11 năm 1992, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng chính
thức thăm thiện chí Việt Nam. Đây là việc bất bình
thường quan hệ song phương, các nhà lãnh đạo Trung Quốc
lần đầu tiên đến thăm Việt Nam sau khi chiến tranh biên
giới 17-2-1979 và 1984. Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt
và Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng tổ chức các cuộc
đàm phán cấp Chính phủ. Lý Bằng lấy quyết định
thông cáo chung, Võ Văn Kiệt thực hiện: Nay chính thức
hai Chính phủ Trung Quốc-Việt Nam dựa trên cơ sở "Năm
nguyên tắc" (hòa bình, thân thiện, ổn định, công
bằng và hợp lý trật tự quốc tế mới).[4]
.
Hai
bên đã quyết tâm và nhất trí bắt đầu tiến hành đàm
phán càng sớm càng tốt theo quy định của Trung Quốc,
những cấp Chính quyền thi hành đúng quy tắc định mức
và thừa nhận luật pháp quốc tế, việc giải quyết ưu
tiên về lãnh thổ và lãnh hải những vấn đề gây tranh
cãi không còn mang quyết định đàm phán, hai bên không
được thực hiện tự lập riêng biên giới hay hành động
đưa đến phức tạp tranh chấp. Lý Bằng thành lập công
thức On/Off cho phép đèn xanh Võ Văn Kiệt theo tiêu chuẩn
(Năm nguyên tắc) bước vào trò chơi nhượng lãnh thổ,
lãnh hải vừa mới ra đời trong hoàn cảnh bi đát nhất
tại thủ đô Hà Nội Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh
Tâm.
.
Cơ
chế đàm phán bán biên giới Việt Nam
.
Trong
"Kỷ yếu", qui định soạn thảo cơ chế đàm
phán theo cấp Chính phủ, thành phần đại biểu của hai
bên tương ứng, các cuộc đàm phán được tổ chức luân
phiên tại hai nước. Trưởng phái đoàn của cả hai bên
luân phiên chủ trì đàm phán. Cơ chế đàm phán cấp
Chính phủ, chủ yếu thực hiện liên quan đến biên giới
lãnh thổ và lãnh hải, nhiệm vụ soạn thảo nghị sự
cho những cuộc đàm phán chính thức của Chính phủ, và
hướng dẫn công tác cho hai nhóm chuyên gia để xem xét và
xác nhận kết quả sau những cuộc đàm phán, hai bên sinh
hoạt chung trong Nhóm công tác và các Nhóm chuyên gia.
Ngày
30 tháng 12 năm 1999. Tiền Kỳ Tham và Nguyễn Mạnh Cầm
chính thức ký vào "Hiệp ước biên giới đất liền
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam". Sau đó, ấn định vào ngày 25 tháng
12 năm 2000 ký "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hợp tác lãnh hải vùng
Vịnh Bắc Bộ, và vùng đặc quyền kinh tế được thỏa
thuận trên phân định ranh giới thềm lục địa". Cơ
chế này đã được kế thừa theo ý của "Bác"
đã ba lần ký liên tục thỏa thuận "Hiệp ước Vạn
Lịch nhượng hải và Vịnh Bắc Bộ" (Hiệp ước
1000 năm) của những năm 1957, năm 1961 và 1963, nhượng
lãnh hải cho Trung Quốc, "Bác" thành công vĩ đại,
cho đến nay toàn dân Việt Nam hầu hết bị ám lệnh che
khuất không biết sự kiện này! Do đó "Bác" được
nhân dân Việt Nam công nhận thánh nhân và "Cha già
dân tộc" người sáng lập của chủ nghĩa xã hội.
Trung
Quốc chủ động thiết lập mức độ 1: Khái quát theo cơ
chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới đất liền,
liên quan với Nhóm phân chia Vịnh Bắc Bộ, và phần cơ
chế đàm phán của các Nhóm công tác và các Nhóm chuyên
gia. Mức độ 2: Khởi động tiến hành đàm phán hàng
hải. Hai Nhóm công tác và Nhóm chuyên gia là một phần
của các đoàn đại biểu Chính phủ của hai nước. Mức
độ 3: Phân chia biên giới đất liền do các Nhóm làm
việc chung tại miền Bắc và Vịnh Bắc Bộ, Nhóm chuyên
gia được thành lập hổ trợ cho các Nhóm công tác, bao
gồm biên giới đất liền, các vùng đất liền tại biên
giới, mỗi Nhóm lập bản đồ theo hướng dẫn của các
chuyên gia kỹ thuật, các tập đoàn chuyên gia thiết lập
bản đồ điều chỉnh Vịnh Bắc Bộ.
.
Ngày
19 tháng 10 năm 1993, Trưởng phái đoàn Trung Quốc, Thứ
trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền và Trưởng phái đoàn
chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Thứ trưởng
Vũ Khoan tại Hà Nội, Việt Nam đã ký Hiệp ước "Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, về việc giải quyết biên giới theo nguyên tắc cơ
bản của thỏa thuận", vấn đề giải quyết biên
giới lãnh thổ và lãnh hải giữa hai nước đặt trên
nền móng công bằng và hợp lý, để củng cố và phát
triển tình hữu nghị láng giềng tốt và hợp tác cùng
có lợi giữa hai nước, ý nghĩa này rất quan trọng bởi
chính phủ Trung Quốc chủ động đấy Việt Nam đi đến
ý muốn của mình. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
.
Cuối
cùng đã có kết quả của các cuộc đàm phán biên giới
đất liền
Từ
những ngày 22 tháng 2 năm 1994 đến ngày 22-ngày 25 tháng
3. Trung-Việt phân chia biên giới đất liền, hai Nhóm công
các chung miền Bắc và Vịnh Bắc Bộ, tổ chức vòng đàm
phán đầu tiên tại Hà Nội Việt Nam. Kể từ đó,
Trung-Việt đàm phán biên giới đất liền bước vào giai
đoạn giải quyết cụ thể các vấn đề biên giới.
Việt
Nam thường thực hiện phân định biên giới đất liền
theo cảm tính đơn giản như đã được phân định theo
hiệp ước cơ sở? (VN dâng hiến biên giới). Trung Quốc
vẫn chưa hài lòng thường cho rằng những nguồn thông
tin về văn bản có con số không được ước tính đúng
mức, còn thiếu sót. Dẫn đến một số khác biệt giữa
hai nước trên các đường biên giới sẽ có tranh cãi
chưa phải lúc kết quả.
Trong
thực tế nó phản ánh những sự xung đột và tranh chấp
quyền lợi ích giữa hai quốc gia, họ chưa bao giờ nghĩ
đến liên quan đời sống của nhân dân biên giới. Tại
biên giới có những làng dân cư sinh sống xem mảnh đất
nhỏ một khiêm tốn tài sản, tự cho là đất hoang khai
phá làm của riêng, thường là nguồn gốc khẩu phần
sống của một hộ gia đình.
Lộ
trình đàm phán trong nội địa biên giới đất liền của
Việt Nam đang dẫn đến vòng hai đàm phán, hai bên thông
qua việc trao đổi đất liền tại ranh giới, căn cứ
trên đường phân định của bản đồ, trái lại Trung
Quốc không xác nhận khu vực tổng số 289, cho rằng chưa
phù hợp theo đường biên giới, theo bao phủ diện tích
khoảng 233 km², Trung Quốc khiếu nại vì lý do kỹ thuật
vẽ bản đồ tổng cộng có 125 km² trong khu vực liên
quan đến mâu thuẫn, chênh lệch khoảng 6 km², hai bên
tranh chấp trong khu vực 164 km². Liên quan đến tổng diện
tích 227 km². Hầu hết các khu vực tranh chấp biên giới
lợi ích thực sự, nó rất khó khăn cho việc thương
lượng và giải quyết bởi vì khu vực này nằm sâu trong
lãnh thổ của Việt Nam.
.
Tháng
7 năm 1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười đến Trung Quốc, Giang
Trạch Dân đưa ra những yêu cầu đối thoại về biên
giới và đề nghị tích cực phấn đấu cho năm 2000. Đỗ
Mười vì "đảng sống nước tan" đồng ý ký
"Hiệp ước biên giới đất liền". Tài liệu ảnh
lưu: Huỳnh Tâm.
.
Nguyễn
Mạnh Cầm tuyên bố ba điều:
-
Trong đường biên giới đối với tiến trình hòa giải,
chúng tôi thực hiện ba đề nghị cho phía Việt Nam.
Đầu
tiên, Pháp-Thanh đã xác nhận về sự phát triển theo quy
định và phù hợp riêng của thời ấy, nay khoanh định
lại những văn bản mới, vẽ lại bản đồ, cho phù hợp
xây dựng, và theo quy định của pháp luật dựa trên cơ
sở "Kỷ yếu Thành Đô 1990" đánh dấu lại ranh
giới, cho tất cả đối với đường biên giới giữa
Trung Quốc và Việt Nam.
Thứ
hai, sau khi kiểm tra chéo vẫn không thể thống nhất về
đường biên giới và vị trí đánh dấu ranh giới, nay đã
nhận ra rất nhiều sai sự thật, hai bên sẽ cùng nhau
tiến hành điều tra thực địa, xem xét sự tồn tại của
một loạt các tình huống trong khu vực, phù hợp với
tinh thần hiểu biết lẫn nhau và vùng đất định cư của
dân. Hiệp thương hữu nghị, tìm kiếm giải pháp công
bằng và hợp lý.
Thứ
ba, sau khi đường biên giới đã được phê duyệt, khu
vực biên giới thuộc thẩm quyền nhiều hơn bên (TQ), bên
kia sẽ được trả lại một số lĩnh vực vô điều kiện
theo nguyên tắc, (nói mà không trả lại). Quản lý biên
giới để tạo thuận lợi cho sự chấp nhận ra đi (đất
bị mất), bởi hai bên thông qua tham vấn thân thiện, hiểu
biết lẫn nhau, là tinh thần công bằng và hợp lý điều
chỉnh thích hợp. Kể từ đó, Nhóm làm việc chung phân
chia biên giới đất liền đã dành hơn hai năm, kiểm tra
164 km², về phía đường biên giới trong khu vực tranh
chấp.
Tháng
2 năm 1999, Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam bổ nhiệm
Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và ông ta đến Trung Quốc báo
cáo thành tích của đảng "Bác". Lê Khả Phiêu
trình báo để Chủ tịch Giang Trạch Dân hiểu tình hình
Việt Nam:
− BCT/TW
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, từ nay thực hiện
các nguyên tắc "16 ký tự" cho sự phát triển
quan hệ song phương Trung Quốc-Việt Nam, cụ thể là "ổn
định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt và
hợp tác toàn diện".
.
Trên
lưng của Lê Khả Phiêu có dấu ấn 16 ký tự, "ổn
định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt và
hợp tác toàn diện". (trường kì ổn định, diện
hướng vị lai, mục lân hữu hảo, toàn diện hợp tác)
đánh dấu bước ngoặc thời đại nô lệ. Tài liệu ảnh
lưu: Huỳnh Tâm. [5]
.
Giữa
hai nước thiết lập quan hệ trong khuôn khổ phát triển
của thế kỷ 21.
Cả
hai bên đã đồng ý rằng giải quyết sớm vấn đề biên
giới giữa hai nước quá phù hợp với quyền lợi ích
trên căn bản và nguyện vọng chung của nhân dân hai nước.
Hai bên quyết tâm đẩy nhanh quá trình đàm phán, nâng cao
hiệu quả công tác đảng, như đã ký kết vào năm 1999,
"Hiệp ước biên giới đất liền", việc xây
dựng đường biên giới chung giữa hai nước đã trở
thành biên giới hòa bình, thân thiện và ổn định.
Hai
bên cũng giải quyết đất liền khu vực định cư, quan
trọng vấn đề biên giới sẽ đạt được sự đồng
thuận và tôn trọng ranh giới giữa các điều kiện hai
nước cư trú dài hạn, sản xuất và đời sống, không
phải vì việc phân định biên giới giữa hai nước gây
ra một cú sốc lớn.
Trung
Cộng lưu hồ sơ chính trị của "Bác" về động
lực "bán nước còn đảng"
Có
hai sự đồng thuận Trung Cộng-Việt Cộng đạt được
trên cơ sở đàm phán biên giới đất liền do Trung Cộng
cung cấp một hồ sơ chính trị của Hồ Chí Minh, làm
động lực mạnh mẽ thúc đẩy đảng Cộng sản Việt
Nam im lặng và chấp nhận quyết tâm đàm phán càng sớm
càng tốt.
Theo
sự nhất trí của hai nhà lãnh đạo, Tiền Kỳ Tham và
Nguyễn Mạnh Cầm, cố gắng thúc đẩy phía Việt Nam xác
định thái độ thực dụng để thông qua các cuộc đàm
phán với phía Trung Quốc nhằm giải quyết biên giới đất
đai trong khu vực tranh chấp, đặc biệt là các vấn đề
liên quan đến quyền lợi ích sống còn tại biên giới.
Tháng
5 năm 1999, một lần nữa Tiền Kỳ Tham đe dọa sẽ hạ
đàm phán biên giới không thông qua chính phủ Việt Nam,
ông đã gửi thư tới Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại
giao Nguyễn Mạnh Cầm. Trong nội dung lá thư của Tiền Kỳ
Tham, bày tỏ rằng phía Việt Nam phải thực sự nhất
trí, hy vọng các nhà lãnh đạo hàng đầu Việt Nam hãy
nhìn tình hình chung, tiến hành quyền lợi ích căn bản
của nhân dân hai nước, mong rằng chân thành thực dụng
và thân thiện phản ánh đầy đủ, đưa khu vực tranh
chấp còn lại phải vào giải pháp biên giới giữa hai
nước giải quyết đúng cách, cả trên đường địa giới
cho tất cả các khu vực tranh chấp để đạt được thỏa
thuận, các nhà lãnh đạo của cả hai nước đảm bảo
rằng trong khi kết thúc thời hạn quy định đàm phán
biên giới đất liền, cho tiến hành nhanh việc ký kết
giữa Trung-Việt "Hiệp ước biên giới đất liền".
Một khi hiệp ước cắm cột mốc đã thành hình sẽ thấy
Việt Nam đứng trước nguy cơ bất lợi mất nhiều đất
liền tại biên giới, đối với "Hòa ước Pháp-Thanh
ngày 26 tháng 6 năm 1887" thiết lập một ranh giới cắm
240 cột mốc và 24 huyện đánh dấu phân định biên giới
Trung-Việt. Còn hiện tại trên hồ sơ cột mốc của
"Hiệp ước Trung Cộng-Việt Cộng 1999" sơ khởi
đã có đến 1120 cột mốc, trong những ngày tháng tiếp
theo số cột mốc còn nhiều khả năng tăng lên, mỗi bước
tiến của một cột mốc Trung Quốc tất nhiên đất liền
của Việt Nam teo mạnh.
Tiền
Kỳ Tham còn đề nghị thêm. Hai bên chấp nhận lịch sử
khu vực không gây tranh cãi, nên khẳng định một cách
thực tế, không làm tăng sự khác biệt giữa hai nước
không nên thay đổi hiệp định trước đó của chính phủ
đã công nhận đường biên giới; đối với khu vực
tranh chấp, theo đúng thỏa thuận đã quy định của pháp
luật mốc giới và tuân thủ các số liệu quy định, để
xác định đường biên giới; liên quan đến các khu dân
cư, theo đúng với sự đồng thuận quan trọng đã đạt
được từ các nhà lãnh đạo của cả hai nước, phải
đồng tôn trọng, không vì phân định biên giới mà gây
ra sốc cho nhân dân, tạo điều kiện mọi mặt như sinh
cư và sản xuất của thường dân phải được bảo đảm
sống đời vĩnh cửu tại biên giới.
Phó
Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm
nhanh chóng trả lời. Phía Việt Nam giải quyết đất liền
biên giới, và tôi đồng ý thúc đẩy đàm phán biên giới
đất liền càng sớm càng tốt.
Nguyễn
Mạnh Cầm đề nghị rằng hai bên cần phải dựa trên
tinh thần hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau, trong việc xem
xét đầy đủ các yếu tố khác nhau và quyền lợi hợp
pháp của tất cả các bên và chủ quyền của mỗi nước,
quá trình lịch sử, địa hình, nhu cầu thẩm quyền, cuộc
sống biên giới và cơ sở bảo vệ cho tương lai của
nhân dân được ổn định trong khu vực biên giới, nhanh
chóng thu hẹp sự khác biệt, để tìm kiếm một giải
pháp để hai bên đồng chấp nhận, theo sự nhất trí của
cả hai bên Việt Nam-Trung Quốc.
Tiền
Kỳ Tham chủ động hướng dẫn các nhà đàm phán Việt
Nam, ông kêu gọi trong các cuộc đàm phán phải tìm kiếm
sự thật thông qua những sự kiện, giải thích đầy đủ
cơ sở pháp lý, tìm kiếm một giải pháp công bằng và
hợp lý cho đôi bên.
Ngày
25 tháng 7 năm 1999. Tiền Kỳ Tham tham dự cuộc họp ASEAN
và APEC (APEC), ông đã gặp hai lần với Phó Thủ tướng
Chính phủ Việt Nam Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh
Cầm. Thảo luận về các vấn đề khu vực và quốc tế,
ông nắm bắt cơ hội này làm một số ngoại giao đẩy
Việt Nam tiến hành đàm phán biên giới.
Ngày
11 tháng 9, Tiền Kỳ Tham gặp Nguyễn Mạnh Cầm đề xuất
giải quyết các vấn đề của khu vực tranh chấp phải
được thực tế, Việt Nam xem xét tích cực các đề nghị
phản ánh quyền lợi của cả hai quốc gia được cân đối
và những giải pháp tổng thể, hai bên có thể đạt được
một sự hiểu biết về điều căn bản này, hướng dẫn
Nhóm công tác biên giới đất liền làm việc. Tiền Kỳ
Tham hy vọng các nhà lãnh đạo phía Việt Nam sẽ thực
hiện nghiêm túc đàm phán để đồng thuận giữa hai bên
giải quyết khu định cư.
Tiền
Kỳ Tham giới thiệu sự nghiệp của Nguyễn Mạnh Cầm.
Nguyễn Mạnh Cầm sinh ra vào năm 1929 tại thành phố Vinh,
tỉnh Nghệ An, Việt Nam, trong những năm 1950 ông học
tiếng Nga tại Học viện Nga ngữ, và Học viện Chính trị
Hành chánh tại Bắc Kinh, cũng là một gián điệp lỗi
lạc của Trung Quốc đã từng làm đại sứ ở Hungary,
Đức, Liên Xô, là một nhà ngoại giao cao cấp quen thuộc
với các cuộc đàm phán biên giới. Nguyễn Mạnh Cầm còn
báo cáo cho Tiền Kỳ Tham biết về nội tình của phía
Việt Nam nhằm để Trung Quốc hiểu được điểm yếu
của từng người, ông sẵn sàng chấp nhận nỗ lực lớn
hơn để tìm một giải pháp cho vấn đề biên giới.
Trong
ủy ban đàm phán Trung Quốc-Việt Nam có ba cấp độ:
Trưởng phái đoàn Chính phủ cấp Bộ trưởng Ngoại
giao. Nhóm công tác chung, và Nhóm chuyên gia đàm phán. Việt
Nam đề nghị vào ngày 20-28 tháng 10 năm 1999, Trưởng phái
đoàn của hai Chính phủ gặp nhau tại Bắc Kinh. Đề nghị
này được phía Trung Quốc chấp nhận vì thấy thuận lợi
cho cả hai về tầm nhìn chung giải quyết cân bằng gói
lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam.
Kể
từ đó, trong các cuộc đàm phán của Trung Quốc-Việt
Nam bao thành một gói hàng giải pháp lãnh hải, lãnh thổ
Việt Nam, bao gồm tất cả các vấn đề nhạy cảm và
khó khăn lâu nay tồn đọng chưa tính sổ, do đó khi
đàm phán đạt được một thỏa thuận sơ bộ biên giới
đất liền được xem là một trong những bước đột phá
của Trung-Việt. Sau khi đàm phán khó khăn hơn một tháng,
hai bên tranh chấp quá lâu khu vực biên giới, cuối cùng
thỏa thuận đầy đủ như ý Trung Quốc. Kể từ đó, hai
bên tiến hành đàm phán soạn thảo hiệp ước, đặt tất
cả khả năng của mình vào hồ sơ phổ quát liên quan đến
kết quả của các cuộc đàm phán và soạn thảo hiệp
ước biên giới đất liền Trung-Việt.
Những
chuyên viên của hai bên hợp tác đắc lực, đàm phán
trong vòng 20 ngày và đêm, thành hình dự thảo hiệp ước
cho tất cả các điều khoản và thành tựu trọn vẹn văn
bản điều ước quốc tế chuẩn bị tiến hành vẽ bản
đồ, sau đó cho xuất bản về "Hiệp định biên giới
đất liền và đường ranh giới Trung-Việt".
Trước
khi ký kết hiệp ước chính thức, Trung Quốc-Việt Nam tổ
chức lễ ký tắt hiệp ước. Trưởng phái đoàn cấp
Chính phủ cả hai bên đồng thỏa thuận mỗi văn bản và
bản đồ cần được ký tên của mỗi bên, chữ ký đã
lưu vào văn bản của hiệp ước, tạo thành hồ sơ chứng
nhận. Do số lượng lớn, hai bên đồng ký tên trong một
giờ, ngần ấy hồ sơ văn bản và bản đồ hiệp ước.
.
Ngày
30 tháng 12 năm 1999. Lịch sử biên giới Việt Nam không
còn gắn liền với những mảnh đất của quê hương, vì
nguyên do bất lực của Cộng sản để mất những làng,
xã tại biên giới, nay chính thức chia lìa tổ quốc. Ngày
ghi nhận của lịch sử này, nó đang ở điểm cuối của
một ngày đi qua thế kỷ 20, bước vào điểm khởi đầu
của ngày mai thế kỷ 21. Đó là ngày Trung Quốc-Việt Nam
đồng tham gia buổi lễ ký kết tại Hà Nội "Hiệp
ước biên giới đất liền Việt-Trung", đã kéo dài
18 năm, đánh dấu sự kết thúc chiến tranh. Cuộc cắm
cột mốc biên giới đất liền đang thực hiện bước
thứ hai. Nhưng vẫn còn nhiều thử thách lịch sử dân
tộc Việt Nam nếu không biết biến cải tự thoát xát xa
Trung. Đối với Việt Nam, từ đây sẽ nẩy sinh quá nhiều
tác động quan trọng và đang đứng trước ngưỡng cửa
mất nước. Và ngày 06 tháng 7 năm 2000, hai bên trao đổi
phê chuẩn hiệp ước, bắt đầu có hiệu lực. Tài liệu
ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trung
Quốc-Việt Nam phân định Vịnh Bắc Bộ
Buổi
lễ ký kết được tổ chức vào tối ngày 30 tháng 12 năm
1999, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế Hà Nội Việt Nam.
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham và Phó
Thủ tướng Chính phủ Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam
Nguyễn Mạnh Cầm đồng ký "Hiệp ước biên giới
đất liền Trung-Việt". Tại buổi lễ ký kết, Tiền
Kỳ Tham thực hiện một bài phát biểu ngắn: "Hiệp
ước biên giới đất liền Trung-Việt" đã được
chính thức ký kết, đánh dấu hai bên hòa bình, thân
thiện và ổn định đất liền biên giới vào thế kỷ
21, không chỉ sẽ trực tiếp mang lại lợi ích cho người
dân các tỉnh biên giới, mà còn thúc đẩy hai bên quan hệ
nhà nước và thúc đẩy hợp tác toàn diện giữa hai nước
trong các lĩnh vực khác nhau, thúc đẩy hòa bình và ổn
định khu vực có ý nghĩa rất lớn.
Ngày
29 tháng 4 năm 2000, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân
Trung Quốc khóa 9, Đại hội thứ 10 thông qua nghị quyết
phê duyệt "Hiệp ước biên giới đất liền
Trung-Việt"; cùng năm vào tháng 9, Việt Nam mở Đại
hội lần thứ X cũng theo quyết định phê duyệt điều
ước quốc tế này.
Ngày
06 tháng 7 năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam tổ chức buổi
lễ phê chuẩn "Hiệp ước biên giới đất liền
Trung-Việt" tại Bắc Kinh. Chính thức công bố hiệu
lực 1000 theo lời nguyện của "Bác" tại hội
nghị Bắc Kinh ngày 07 tháng 7 năm 1955.
Tháng
11 năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam thừa nhận phù hợp
với "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt",
và trong hai cuộc đàm phán biên giới hai phái đoàn cấp
cao Chính phủ thành lập một ủy ban phân định ranh giới
chung. Đến cuối năm 2008, hoàn thành tất cả các công
việc phân giới cắm cột mốc và hoàn thành lĩnh vực
xây dựng. Dự trù của hai bên sẽ trải qua cắm mốc 8
năm, mới kết thúc ngày cắm cột mốc.
Việt
Nam-Trung Quốc bắt đầu mở những cuộc đàm phán, thương
lượng hiệp ước hoặc thỏa thuận biên giới lãnh hải
Vịnh Bắc Bộ, và đàm phán phân định ranh giới cùng
một lúc. Nhưng cuộc đàm phán phân định biển là một
chủ đề mới phải vận dụng nhiều ngôn ngữ ngoại
giao. Trước mắt Việt Nam thua thiệt đã quá nhiều bởi
mất đất, và chuẩn bị mất Vịnh Bắc Bộ và Biển
Đông, thế nhưng vẫn không chuẩn bị thực tế đàm
phán, phân định ranh giới để cho Trung Cộng tùy duyên
dẫn đi đâu theo đó, cách làm này của Việt Nam xem như
vô trách nhiệm, họ không cần thiết chú ý "nước
còn hay đã mất", cho nên những nhà ngoại giao Trung
Quốc không lấy gì làm lạ, gọi những nhà lãnh đạo
Việt Nam với hai từ "linh động".
Phía
Việt Nam sợ nhất đàm phán phân định ranh giới Vịnh
Bắc Bộ, bởi trong vùng Vịnh gặp phải một cục bứu
thối chính trị của "Bác" quá vĩ đại đã bán
đứng vùng Vịnh 1000 năm. Đàm phán nhất định sẽ thất
bại, trả một giá quá đắt đỏ, gặp nhiều phức tạp
đưa đến khó khăn. Bước vào giai đoạn đàm phán vùng
Vịnh truyền thống của Việt Nam, Trung Quốc thường hay
tìm lý cớ phản đối, thực sự đã dẫn đến xung đột.
Nổi bật nhất quốc gia nào quan tâm đến Vịnh Bắc Bộ,
chiến thắng sẽ ở trong lòng bàn tay. Trong khi đó Tiền
Kỳ Tham đã có quá nhiều kinh nghiệm đàm phán về biên
giới lãnh thổ và lãnh hải với 14 quốc gia lân bang,
đáng kể nhất là biên giới Liên Xô, Ân Độ, trái lại
hai nhà ngoại giao của Việt Nam thiếu kinh nghiệm lại
thân cha đẻ Trung Cộng, chính xác hơn những nhân vật
này được nên người MSS là do Trung Cộng đào tạo.
.
Sự
nghiệp vĩ đại của Hồ Chí Minh, tìm đường bán nước
không thể chối cãi
.
Hồ
Chí Minh đã 3 lần liên tục ký "Hiệp ước Vạn Lịch
nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc-Việt Nam"
(Vạn lịch điều ước đích lĩnh thổ nhượng bộ hòa
bắc bộ loan, Trung Quốc-Việt Nam): [6]
-
Tháng 11 năm 1957. Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam và Ban Thư ký đã ký, vấn đề biên giới lãnh thổ
và lãnh hải Vịnh Bắc Bộ quan trọng nhượng cho Trung
Quốc, được dựa trên cơ sở chủ quyền 1000 năm. (1957
niên 11 nguyệt Việt Nam cộng sản đảng hòa bí thư xử
đích trung ương ủy viên hội dĩ kinh thiêm thự, biên
giới vấn đề, bắc bộ loan trọng yếu đích nhượng
bộ, trung quốc đích lĩnh hải, thị cơ vu chủ quyền
thiên niên). [7]
-
Năm 1961, Phạm Văn Đồng thay mặt Hồ Chí Minh cùng với
Chu Ân Lai xác định lại một số nguyên tắc về pháp
luật chủ quyền Vịnh Bắc Bộ, hai Chính phủ quyết định
giải quyết lãnh hải. (1961 niên, Phạm Văn Đồng, Hồ
Chí Minh đại biểu Chu Ân Lai trọng tân bắc bộ đích
chủ quyền loan đích nhất ta pháp luật nguyên tắc, lưỡng
quốc chánh phủ quyết định tương giải quyết lĩnh
thổ). [8]
-
Năm 1963, Phạm Văn Đồng thay mặt Hồ Chí Minh cùng với
Chu Ân Lai ký "Hiệp ước Vịnh Bắc Bộ". Trung
Quốc-Việt Nam thiết lập tư vấn ranh giới và tôn trọng
lẫn nhau hoặc nhượng lãnh hải. Cấm tuyệt đối chính
quyền địa phương hay cộng đồng xâm lấn lãnh hải.
(1963 niên, Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh đại biểu chu
ân lai thiêm thự liễu "Bắc Bộ loan đích điều
ước". Trung Quốc-Việt Nam biên cảnh kiến lập liễu
tư tuân hòa tương hỗ tôn trọng hòa lĩnh thổ nhượng
bộ. cấm chỉ địa phương chánh phủ hoặc xã khu lĩnh
thổ đích xâm phạm). [9]
Tất
cả những hiệp ước trên đều liên quan đến khai thác
thủy sản, tương ứng thẩm quyền 3-12 dặm lãnh hải của
Việt Nam, cũng như các bên thực hiện quy định về hợp
tác nghề cá. 3-12 hải lý cho vùng biển bên ngoài khoảng
cách đường cơ sở lãnh hải giữa hai nước, ba "Hiệp
ước" trên, ngư dân giữa hai nước tại khu vực được
thành lập tổ hợp tác hành nghề đánh cá chung "Tự
do ra biển", tôn trọng sinh hoạt thói quen của ngư
dân đã sống hai thế hệ, có thể liên hiệp tự do hoạt
động khai thác biển, dầu khí, môi trường, du lịch
v.v... tạo thành hai cộng đồng ngư dân ở phía Bắc của
Vịnh Bắc Bộ và ngư trường truyền thống quyền đánh
bắt cá của Trung Quốc.
.
Ngày
07 tháng 7 1955, Cộng hòa Nhân dân Chính phủ Trung Quốc.
Kỷ niệm ngày "Bác" dâng Vịnh Bắc Bộ. Và sau
này cũng chính nơi đây Hồ Chí Minh đã ký 3 lần hiệp
ước, gọi tắt là "Hiệp ước Vạn Lịch" (1000
Năm). Nguồn ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
.
Sau
khi ký kết Hiệp ước nguyên tắc cơ bản"; Tiền Kỳ
Tham hào hứng khoe với BCT/TW Việt Công về tập thơ Trung
Quốc "Ngục thất trong tù" của Hồ Chí Minh, cho
rằng "Bác" rất yêu văn hóa truyền thống quê
hương (chính Tiền Kỳ Thân tiết lộ "Bác" là
người Hán). Trong những năm đầu của "Bác" tham
gia vào các hoạt động cách mạng tại quê hương cùng
với Mao Chủ tịch (毛泽东),
Chu Ân Lai (周恩来)
và các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc ngày nay họ
đều là thế hệ cũ đã từng giả mạo trên chính trường
Trung Quốc-Việt Nam tình bạn sâu sắc. Vì vậy chuyến
thăm lần này Tiền Kỳ Tham là người hiểu rõ về Hồ
Chí Minh nhờ đọc nhiều tư liệu lưu trữ tại CPC và
MSS.
Tiền
Kỳ Tham nói tiếp: Tôi có đã ý thức sâu sắc rằng tình
hữu nghị Trung-Việt phát nguồn gốc từ văn hóa "Bác"
nhập lậu vào Việt Nam, nhân dân Việt Nam tự tin vào Hồ
Chí Minh đó là điều hạnh phúc nhất của đất nước
này. Mao Trạch Đông (毛泽东),
Chu Ân Lai (周恩来)
và Hồ Chí Minh (胡志明)
cẩn thận canh tác và chăm bón phân người trồng tình
hữu nghị bắt rễ sâu trong trái tim của nhân dân Việt
Nam. Đây là sự phát triển tài sản giá trị nhất mà
Trung Quốc mong đợi. Mối quan hệ từ trước đến nay đã
được thiết lập trên cơ chế đảng trị không thương
lượng với người dân Việt Nam, nay đàm phán một trò
chơi nhất trí của những lãnh đạo Trung Quốc và Việt
Nam như đã ký "Hiệp ước nguyên tắc cơ bản".
.
.
Bài
đã đăng:
-
Kỳ
3
.
.
_______________________________________
Chú
thích:
[1]
(关于解决中华人民共和国和越南社会主义共和国边界领土问题的基本原则协议).
[2] ("1990年论文集",
它是这样一个结构材料,
边界地图将按照界碑的法律制定,
因为所有的边界都被批准为依据中国-越南).
[3]
(双方应按照公平原则并考虑北部湾的所有有关情况,
以取得一项公平的解决办法).
[4] (在和平共处五项原则的基础上,
建立和平, 稳定,
公正, 合理的国际新秩序).
[5] (长期稳定,
面向未来, 睦邻友好,
全面合作).
[6] (万历条约的领土让步和北部湾,
中国 - 越南)
[7]
(1957年11月越南共产党和秘书处的中央委员会已经签署,
边界问题, 北部湾重要的让步,
中国的领海, 是基于主权千年)
[8] (1961年,
范文同,
胡志明代表周恩来重新北部的主权湾的一些法律原则,两国政府决定将解决领土).
[9] (1963年,
范文同, 胡志明代表周恩来签署了
"北部湾的条约".
中国-越南边境建立了咨询和相互尊重和领土让步。禁止地方政府或社区领土的侵犯).
No comments:
Post a Comment