Nguyễn
Cơ Thạch: "Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy
hiểm đã bắt đầu!".
Giang
Trạch Dân cần một bản văn kiện đàm phán bí mật, đề
nghị Nguyễn Văn Linh cùng ký vào "Kỷ yếu",
Trung Cộng đã có chủ ý bày ra một âm mưu sâu xa, Nguyễn
Văn Linh không nề hà việc bán nước này, ông rất vui vẻ
xắn tay áo đóng ký, từ đó Thành Đô Tứ Xuyên chính
thức chào đời bản lịch sử "Kỷ yếu Thành Đô
1990", nội dung chuyên chở toàn bộ lộ trình Việt
Nam đi về hướng bành trướng Đại lục.
Buổi
chiều trước khi đoàn Việt Nam rời Thành Đô, Giang Trạch
Dân, Lý Bằng, Hoài Nam Tử (Qi), Chu Sơn Thanh (Chu Shanqing),
Tằng (Zeng)... hát bài ly ca, tạm biệt Nguyễn Văn Linh, Đỗ
Mười, Phạm Văn Đồng và đoàn tùy tùng về đất dung
thân chư hầu. Máy bay cất cánh từ phi trường quốc tế
Song Lưu Thành Đô Tứ Xuyên, trở lại phi trường chuyên
dụng Nam Ninh Quảng Tây, và sau đó về phi trường Nội
Bài Hà Nội. Lúc này bầu không khí bên trong lòng cabin
của máy bay, mọi người hãnh diện, lòng trào hưng khởi,
vui nhộn rộn rã hơn trước. Các nhà lãnh đạo Việt Nam
trao đổi liên tục quan điểm. Chánh Văn phòng Trung ương
Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Hồng Hà hào
hứng nói: "Hội nghị đã thành công, rất tốt",
Nguyễn Văn Linh nói: Trong hội nghị tôi đã tuyên bố
3 quyết tâm đem đến lòng tin cho Bắc Kinh. Đỗ Mười
bày tỏ sự hài lòng kết quả đàm phán, lòng hân hoan
dâng trào hạnh phúc. Phạm Văn Đồng gật gù mấy lần
với nụ cười đắc ý. Quan điểm của Đinh Nho Liêm: Từ
nay chúng ta yên tâm một khi đã có quan hệ song phương
với Trung Quốc! Những bí danh Bích Sơn (Bishan) và Hoàng
Trung cũng phụ họa quan điểm: Chúng tôi thấy rất vui vẻ
việc làm của quý đồng chí thực hiện nguyện vọng của
nhân dân!
Sau
khi về đến Hà Nội, Đại sứ quán Trung Quốc mở một
buổi liên hoan, giải trí lành mạnh, thiết đãi phái đoàn
tham dự hội nghị bí mật Thành Đô. Thưởng thức những
thực đơn "hương nhục" (Xiangrou) nổi tiếng của
Tứ Xuyên, còn ấm áp "Kim Ngưu tân quán" trong
lòng, nó vẫn mãi mãi quanh quẩn với mọi người. Trong
buổi chiêu đãi đang vui bỗng Đỗ Mười há hốc đọc
lại bài thơ của Nguyễn Văn Linh, tiếp theo Trương Đức
Duy cũng đọc lại bài thơ của Giang Vĩnh mà hôm trước
Giang Trạch Dân mượn nó làm môi giới kết thúc hội
nghị bí mật Thành Đô, hôm nay cả hai ông cùng nhại lại
để đáp lễ buổi liên hoan nội bộ bí mật Thành Đô.
Tất cả đồng ca tụng cho nhau hết lời bởi thành quả
lịch sử quan hệ song phương Việt Nam-Trung Quốc có một
không hai.
Sau
những ngày chén thề, ly bôi hẹn cụng nhau tưng bừng,
tiếng cười hỉ hả cũng đã bay vào không gian, cửa
phòng hội nghị Kim Ngưu sang tay khách, bí mật vẫn còn
đó muôn đời sử sách ghi, những chữ ký cam kết của
Giang Trạch Dân và Nguyễn Văn Linh, cũng phải đúng lúc
vùng lên thực hiện những thỏa thuận đàm phán Thành
Đô. Tiếp theo "Kỷ yếu" thúc giục Đỗ Mười
đã hai lần liên tục gặp Thứ trưởng Ngoại giao Đinh
Nho Liêm, hối thúc tăng cường sức mạnh cho ông Hun Sen
buộc chấp nhận thỏa thuận giữa các bên, tìm giải
pháp chính trị cho vấn đề Campuchia càng sớm càng tốt.
Tuy nhiên, quá trình giải quyết chính trị của Campuchia
vẫn trì hoãn kéo dài thời gian, thực hiện "Kỷ yếu"
không được như ý, dẫn đến một số tác động Bắc
Kinh phiền muộn, Trung Quốc muốn Việt Nam sớm tiến hành
phân định lại biên giới lãnh thổ và lãnh hải như mưu
đồ đã định trước.
Những
cán bộ đắc lực nhất phụ họa bán nước như Hồng
Hà, đầy quyền lực đứng trên Chánh Văn phòng Trung ương
Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương chịu ảnh hưởng
bởi tên gián điệp Hoàng Đích (黄的-Lê
Đức Anh), Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam. Thứ
trưởng Ngoại giao Đinh Nho Liêm người thừa lệnh của
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chính phủ Đỗ Mười.
Hiệp
ước biên giới đất liền Việt-Trung 1991
(条约土地越南接壤,中国)
.
1
- Tiến hành phân định biên giới Trung-Việt
.
"Kỷ
yếu Thành Đô 1990", như thế nào?
Tháng
11 năm 1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ
Văn Kiệt ch.iếu theo trát lệnh triều đình của Giang
Trạch Dân, đến Bắc Kinh báo cáo tình hình giải quyết
biên giới giữa hai nước. Đồng lúc, công bố bình
thường hóa "Quan hệ song phương Việt-Trung". Thỏa
thuận tạm thời về việc xử lý các vấn đề biên
giới. Còn gọi là "Hiệp định tạm thời". Hai
bên quyết định thực hiện phân định biên giới mới.
Theo nội dung Hiệp định chung Trung Quốc và Việt Nam có
chung đường biên giới đất liền dài 1300 km!
Trung
Quốc đưa ra một mặc cả, giá được xem rất thỏa
đáng, và công nhận Việt Nam phát triển quan hệ láng
giềng tốt, đối mặt và giải quyết vấn đề biên giới
tốt. Hai nhà lãnh đạo TQ-VN đồng hiểu nhau tránh những
từ ngữ nhạy cảm "xâm lược vào lãnh thổ biên
giới Việt Nam".
Tháng
3 năm 1993, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao,
phụ trách Trung Quốc với các nước láng giềng Châu Á
Tiền Kỳ Tham (钱其琛).
Xúc tiến mối quan hệ song phương vào trọng điểm Đông
Dương, cho phép Trung Quốc chiếu cố nhiều hơn vào đất
nước Việt Nam. Trung Quốc dùng quan hệ song phương Việt
Nam làm vùng đất nhạy cảm cho công cuộc bành trướng,
đặc biệt mở biên giới tràn vào Việt Nam. Quá trình
này gây ra khó khăn cho Việt Nam. Lần này Trung Cộng báo
cáo thi hành công tác theo từng chi tiết trong "Kỷ yếu
của hội nghị bí mật Thành Đô 1990". Qui định lịch
trình tiến hành kế hoạch cắm cột mốc biến giới
Việt-Trung. Khởi đầu hoạt động của hiệp ước, Trung
Cộng đã có những thành quả đáng kể và tiến hành
những thỏa thuận đang xác định đất liền biên giới
và Biển Đông.
Trước
đó Nguyễn Văn Linh cho rằng lần này đồng thuận là một
"bước ngoặt của lịch sử trong mối quan hệ song
phương Trung-Việt". Còn ông Giang Trạch Dân chơi
chữ "kết thúc của quá khứ, tạo ra tương lai".
Người Cộng sản Việt Nam không thể nào đo lường được
sự tài tình sử dụng "mỹ từ pháp" đẹp nhất
để che khuất những âm mưu đang chờ thực hiện. Trung
Quốc đưa ra đề nghị với "đảng bác": Cung cấp
phương tiện cho Việt Cộng vung tay đàn áp nhân dân và
hướng dẫn dư luận đến mục đích "người dân
không muốn biết" (nhân môn bất tưởng tri đạo) và
làm mềm mại xã hội không còn ý chí đấu tranh, đẩy
người dân Việt Nam đến suy nghĩ khác không phản đối
những việc làm bất chính của người Cộng sản. Người
dân Việt không có thời gian suy nghĩ, tìm hiểu hành động
của chúng ta, nếu họ không phân biệt được "kết
thúc của quá khứ, tạo ra tương lai", chỉ cần 20
năm sao mọi việc đã theo ý "Bác" chúng ta đã có
kết quả khả quan "đổi non dời biển và cả lịch
sử của Việt Nam". Khi đó người dân Việt Nam muốn
đấu tranh lấy lại chủ quyền đã quá muộn màng. [1]
Chu
Ân Lai đã từng giảng giải kinh cướp lân bang cho hậu
duệ: "Đối phó với các vấn đề biên giới, cần
nghiên cứu lịch sử và hiểu toàn bộ vấn đề của
Việt Nam, phân biệt lịch sử và làm sai lịch sử của
đối phương, sau đó tìm một giải pháp đối phó".
Tiền Kỳ Tham một trong những đệ tử của Chu cho rằng:
Tôi đã đọc rất nhiều tài liệu cho vấn đề hiểu
biết xử lý "êm thắm" quan hệ Việt Nam, chủ
yếu liên quan đến ba (3) khía cạnh rất cụ thể của
những vấn đề phân định lãnh thổ và lãnh hải.
1
- Đất liền lãnh thổ biên giới Trung-Việt Nam.
2
- Vịnh Bắc Bộ vùng đảo Bạch Long Vĩ.
3
- Biển Đông quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
.
2
- Trung Quốc tự thay đổi lịch sử và địa lý của Việt
Nam
.
Đất
biên giới Việt Nam kể từ mười lớp núi ở ngã ba của
ba nước cũ (Trung Quốc, Việt Nam, Lào) từ phía Tây Bắc
gió Đông Nam, Vân Nam, Quảng Tây và dòng sông Ka Long chảy
vào Việt Nam có chiều dài 48,73 km, nối vào sông Bắc
Luân 11,77 km. Từ đó chảy ra vịnh Bắc Bộ Việt Nam.
Đối
với cách phân định biên giới này đã thông qua các điều
ước riêng của Trung Quốc và Việt Nam (ngoài qui định
quốc tế), sau đó được công nhận bởi những chính phủ
kế tiếp. Trên cơ sở căn bản biên giới của Việt Nam
đã quá rõ ràng. Thế nhưng Trung Quốc viện dẫn nhiều
lý do để làm sai vị trí phân định đường biên giới
và do đó liên tục tranh chấp một số điểm nóng trong
khu vực. Trung Quốc thúc giục Việt Nam thực hiện những
thỏa thuận qua tiêu chuẩn "Kỷ yếu", và phân
định lại Vịnh Bắc Bộ, thi hành đúng pháp luật hiện
đại của biển? chủ quyền mở rộng ven biển Trung Quốc
và Việt Nam ra các đại dương, quyền và lợi ích hàng
hải phát sinh từ các yêu sách chồng lấn lên nhau của
Ngoại giao.
Vịnh
Bắc Bộ thiên nhiên nửa kín, nằm về phía Tây Bắc
của Biển Đông, phía Đông Bắc và phía Tây của hai bên
được bao quanh bởi lãnh thổ của Trung Quốc và Việt
Nam, điểm rộng nhất của nó có 184 hải lý, điểm hẹp
nhất là 112 hải lý. Trước những năm 1970, Trung Quốc và
Việt Nam không có tranh chấp tại Vịnh Bắc Bộ. Mỗi bên
tham gia vào vận chuyển, thủy sản và các hoạt động
nghiên cứu khoa học biển, không bao giờ có một cuộc
xung đột?
.
3
- "Kỷ yếu 1990" công nhận chủ quyền Biển Đông
của Trung Quốc
.
Hồ
Chí Minh đã ký ba lần liên tục thỏa thuận "Hiệp
ước Vạn Lịch nhượng hải và Vịnh Bắc Bộ"
của những năm 1957, năm 1961 và 1963. Liên quan đến khai
thác thủy sản, tương ứng thẩm quyền 3-12 dặm lãnh hải
của Việt Nam, cũng như các bên thực hiện quy định về
hợp tác nghề cá. 3-12 hải lý cho vùng biển bên ngoài
khoảng cách đường cơ sở lãnh hải giữa hai nước, ba
"Hiệp ước" trên, ngư dân giữa hai nước tại
khu vực được hành nghề đánh cá chung "Tự do ra
biển", tôn trọng sinh hoạt thói quen của ngư dân đã
sống hai thế hệ, có thể liên hiệp tự do hoạt động
khai thác biển, do đó tạo thành hai cộng đồng ngư dân
ở phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ và ngư trường truyền
thống quyền đánh bắt cá.
Nhưng
đến năm 1970, luật pháp về biển của Trung Quốc phát
triển hiện đại, quan trọng mở rộng chủ quyền quốc
gia tại ven bờ biển của lãnh thổ ra đến lãnh hải,
dần dần thiết lập một chế độ pháp lý của thềm
lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Theo đó, Trung
Quốc và Việt Nam đã nêu lên chủ quyền của đất nước
mình theo chiều dài ven Vịnh Bắc Bộ, vì quyền và lợi
ích khai thác mỗi bên không nhận khiếu nại hàng hải
của nước ngoài, tránh cho cả hai bên chồng chéo và xung
đột để phù hợp cho vị trí của Trung Quốc tại Vịnh
Bắc Bộ, hai bên nên tham khảo luật thực tiễn quốc tế,
và được giải quyết thông qua đàm phán.
Quần
đảo Nam Sa (Hoàng Sa) là lãnh hải của Trung Quốc từ
thời cổ đại, một phần không thể thiếu? và những
vùng biển lân cận có chủ quyền không thể chối cãi.
Người Trung Quốc đầu tiên phát hiện ra quần đảo Nam
Sa, sau khi chính phủ Trung Quốc đã thực hiện thẩm quyền
đối với quần đảo Nam Sa và quần đảo Trường Sa được
xem một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Trong lịch sử,
quần đảo Trường Sa đã từng bị Nhật Bản chiếm
đóng. Vào cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, sau
đó, chính phủ Trung Quốc phục hồi quần đảo Nam Sa. Do
đó, đến những năm 1970, Trung Quốc không còn tranh chấp
chủ quyền tại quần đảo Trường Sa, không còn nhắc
đến sự tồn tại trên trường quốc tế. Năm 1983, trên
cơ sở của chính phủ Trung Quốc việc đặt lại tên cho
189 hòn đảo, bãi cát và rạn nhóm san hô, mà trước đây
cá nhân đã đổi tên đảo, một lần nữa tuyên bố rằng
quần đảo Trường Sa chủ quyền của Trung Quốc.
Vế
vùng đảo Trường Sa theo phân định quốc tế giữa 3 độ
37 phút vĩ độ Bắc và 12 độ 40 phút kinh độ Đông 108
độ 10 phút đến 119 độ, là nhóm lớn nhất của những
rạn san hô ở Biển Đông, bao gồm khoảng hơn 230 đảo,
đá ngầm, bãi cát ngầm, bãi cát thành phần, bao gồm 25
hòn đảo, 128 đảo nhỏ ẩn dưới nước theo dạng đá,
và 77 đảo nhỏ trên mặt nước ẩn trong cát biển.
.
4
- Đàm phán biên giới Trung-Việt
.
Từ
năm 1975, Việt Nam muốn đặt vấn đề chủ quyền lãnh
hải trên Biển Đông, chủ yếu hai vùng đảo Nam Sa
(Nansha) và Hoàng Sa (Xisha Islands).
Đối
với vấn đề này, vị trí của chính phủ Trung Quốc đã
rõ ràng, rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với quần
đảo Nam Sa, chủ quyền không thể tranh cãi không thể
thương lượng. Đồng thời, chúng ta có thể khám phá
những ý tưởng để đạt được "gác tranh chấp và
tìm kiếm phát triển chung", để tạo điều kiện và
cùng nhau bảo vệ hòa bình, ổn định tại vùng biển Nam
Trung Quốc và không cần thiết tranh chấp Biển Đông.
Bộ
Trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham (钱其参)
phát biểu: Xu hướng cơ bản của các vấn đề biên giới
Trung-Việt, không cần thiết Việt Nam đặt lại các vấn
đề này trên bàn đàm phán Châu Á.
.
Những
cuộc đàm phán giải quyết lãnh thổ và lãnh hải
.
Năm
1970, Việt Nam đã hai lần tổ chức các cuộc đàm phán
biên giới, chủ yếu thảo luận về vấn đề biên giới
đất liền và phân định lãnh hải phía Bắc của Vịnh
Bắc Bộ, vấn đề này không liên quan đến quần
đảo Trường Sa?
Trung
Quốc cho rằng, vào thời điểm đó, vì nhiều lý do, cho
nên đàm phán theo từng phần giữa hai quốc gia, chưa ý
định đặt ra đàm phán toàn diện, trên thực tế khi
tranh luận, Việt Nam nói lý do của bạn, Trung Quốc nói
sự thật của tôi. Thời đại đó, hai bên giải quyết
thông qua thương lượng đất liền biên giới và Vịnh
Bắc Bộ, bởi thời gian đó chưa phải đúng lúc đưa ra
điều kiện phân định biên giới, vì vậy Việt Nam-Trung
Quốc đã có hai cuộc đàm phán không đưa ra kết quả.
Kể
từ đó, Trung Quốc và Việt Nam tranh chấp đất liền
vùng biên giới và Vịnh Bắc Bộ, đã có các cuộc tranh
chấp và tranh cãi quần đảo Trường Sa, kết quả đã có
4 lần chiến tranh 1974, 1979, 1984, 1988, đưa đến tổng thể
suy giảm quan hệ song phương. Vấn đề biên giới, Trung
Quốc và Việt Nam vì vậy đã có những bài học đẫm
máu trong chiến tranh. Trong thực tế, việc thực hiện
bình thường quan hệ Trung-Việt, còn trở ngại suy nghĩ
thù địch giữ cán bộ và hai cộng đồng Việt-Hoa, nói
chung không vì điều đó làm biến mất hoàn toàn quan hệ
song phương, tranh chấp phát sinh giữa hai vùng biên giới,
Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông rất khó duy trì bình tĩnh
và ổn định.
Trung
Quốc đã nắm được then chốt của từng đảng viên
Cộng sản Việt Nam; như trước năm 1962, Hồ Chí Minh đã
từng dâng cho Trung Quốc 459,561 km biên giới và vùng đảo
Bạch Long Vĩ để đổi lấy vũ khí, ngày nay Nguyễn Văn
Linh nối gót theo lời "Bác" để "đảng tồn
tại". Việt Nam lại thêm một lẫn nữa mất máu phần
đất liền biên giới từ Việt Bắc đến Đông Bắc,
Vịnh Bắc Bộ và những mâu thuẫn Biển Đông vẫn duy
trì sẽ còn hứa hẹn xung đột, chắc chắn sẽ tác động
tiêu cực đến quan hệ song phương. Trung Quốc muốn phục
hồi hoàn toàn quan hệ giữa hai nước trong khía cạnh
Việt Nam tự trị. Nhân dịp bình thường hóa quan hệ
song phương các nhà lãnh đạo Việt Nam cần phải thực
hiện sự đồng thuận, thông qua đàm phán để giải
quyết những vấn đề biên giới, và đưa vào chương
trình nghị sự ngoại giao.
Tháng
12 năm 1992 Thủ tướng Lý Bằng đã đến thăm Việt Nam,
hội đàm với các nhà lãnh đạo Việt Nam, hai bên giải
quyết vấn đề biên giới đã trao đổi sâu sắc quan
điểm và đạt đến một sự đồng thuận trong các cuộc
đàm phán song phương, nhất trí tiếp tục tổ chức các
cuộc đàm phán cấp chính phủ hay cấp chuyên viên Ngoại
giao càng sớm càng tốt; cho phù hợp với luật pháp quốc
tế, chấp nhận một nguyên tắc cơ bản theo hướng dẫn
"Kỷ yếu" để giải quyết vấn đề biên giới
là tranh chấp lãnh thổ cho phù hợp, thúc đẩy tiến
trình đàm phán với những nguyên tắc chung, phù hợp cho
những giải quyết hàng hải và vấn đề tranh chấp đất
liền lãnh thổ. Ở phía trước đang thương thuyết hòa
giải, hai bên không được hành động phức tạp hay tranh
chấp thực hiện cắm mốc biên giới v.v...
Cho
đến nay, Trung Quốc và Việt Nam đã thành lập kịp thời
cơ chế hoạt động song phương đàm phán biên giới theo
cấp Chính phủ đã đạt được nhiều đồng thuận. Trên
thực tế, chuyến thăm của Lý bằng đến Việt Nam vào
tháng 10 năm 1992, để thôi thúc những chuyên gia Trung Quốc
và Việt Nam đến Bắc Kinh để đàm phán, trực tiếp
chương trình nghị sự biên giới trong vòng đầu, sau đó
hai nhà lãnh đạo Việt Nam-Trung Quốc ký vào văn kiện
thỏa thuận hiệp ước biên giới.
Vào
tháng 2 năm 1993, tại Hà Nội hai bên đã tổ chức một
vòng đàm phán mới về biên giới. Hai bên chuyên gia điều
khiển chương trình thảo luận về song phương đất liền
biên giới phía Bắc và vấn đề phân định biển Vịnh
Bắc Bộ, cùng đề nghị việc duy trì các khu vực biên
giới và Vịnh Bắc Bộ nhằm ổn định trong khu vực,
thông qua liên lạc của hai bên có một số hiểu biết về
giá trị của nhau. Theo hai nhà lãnh đạo cấp chính phủ
cho biết: Còn tùy thuộc thời điểm thích hợp tổ chức
đàm phán "thống nhất" biên giới, cùng kết hợp
tiếp xúc danh sách chuyên gia điều khiển từng vòng họp.
Bộ
Trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham (钱其参)
phát biểu và nhấn mạnh: Tôi được bổ nhiệm làm người
đứng đầu thành lập Bộ Ngoại giao của chính phủ
Trung Quốc, và các cơ quan khác có liên quan đến chính
phủ. Tôi đã tổ chức một số cơ quan cấp tỉnh, khu tự
trị, và Bộ Ngoại giao, mời các chuyên gia kinh nghiệm về
quan hệ song phương Trung-Việt đánh giá lại khả năng và
nghiên cứu mọi giải pháp, thương lượng các vấn đề
biên giới. Trên cơ sở phân tích sâu sắc của Trung Quốc
sau khi được phê duyệt.
.
5
- Thiết lập các cơ chế theo nguyên tắc
.
Tiền
Kỳ Tham bước vào công việc chuẩn bị cho cuộc đàm
phán. Trên cơ sở đã nghiên cứu đầy đủ về vị trí
trước đây của Việt Nam. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
và Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã soạn thảo
nghị sự giải quyết đất liền ranh giới và sự phân
chia phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ theo nguyên tắc cơ bản
của vấn đề giao thức, gọi tắt là "nguyên tắc cơ
bản Hiệp định". Dự thảo nội dung, Trung Quốc tham
gia vào các cơ chế đàm phán, cũng như thúc đẩy chính
trị, ngoại giao và các nguyên tắc trên cơ sở luật pháp
quốc tế.
Với
dự thảo này, Tiền Kỳ Tham hy vọng sẽ chuyển tải một
thông điệp quan trọng đến phía Việt Nam, thái độ của
Trung Quốc đối với các cuộc đàm phán là tích cực,
thiết thực và mang tính xây dựng, hai bên có thể đặt
một nền tảng tốt cho việc giải quyết cuối cùng của
vụ tranh chấp. Để thúc đẩy thỏa thuận ngay khi Tiền
Kỳ Tham đưa ra dự thảo "Hiệp định nguyên tắc cơ
bản". Việt Nam phải thực hiện theo giao thức trước
thời hạn, để cung cấp cho các bên có đủ thời gian
tiến hành nghiên cứu và thông tin phản hồi.
Vòng
đầu tiên, các cấp cao chính phủ tổ chức đàm phán
biên giới trước khi chính thức, Việt Nam và Trung Quốc
thực hiện các dự thảo gồm có phản ứng tích cực.
Ngày 22 tháng 7 năm 1993, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Ngoại giao Tiền Kỳ Tham gặp Bộ trưởng Ngoại giao Việt
Nam Nguyễn Mạnh Cầm tại Singapore. Tiền Kỳ Tham bày tỏ
hy vọng rằng các nỗ lực chung của hai bên để đạt
tiến bộ trong các cuộc đàm phán cấp chính phủ, để
đạt được sự đồng thuận về một số vấn đề, như
là kết quả ban đầu của cuộc đàm phán, hai bên có thể
ký một văn bản nguyên tắc về việc giải quyết vấn
đề biên giới, được gọi là "Các nguyên tắc cơ
bản của thỏa thuận."
.
Tiền
Kỳ Tham (钱其琛)
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, phụ trách
Trung Quốc với các nước láng giềng Châu Á. Nguyễn Mạnh
Cầm (阮孟琴)
Phó Thủ tướng Việt Nam. Vũ Khoan (武宽),
nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam.
.
6
- Nguyễn Mạnh Cầm chưa thấy chuyển động cơ bản mất
nước
.
Ngày
24 đến 29 tháng 8 năm 1993, trong vòng đầu tiên đàm phán
cấp chính phủ về biên giới được tổ chức tại Bắc
Kinh. Tiền Kỳ Tham đứng đầu phái đoàn Trung Quốc, Thứ
trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Vũ Khoan là người đứng
đầu phái đoàn chính phủ Việt Nam.
Trong
5 ngày đàm phán, hai bên đã tổ chức ba phiên họp chung
toàn diện và hai cuộc họp riêng biệt, các chuyên gia của
cả hai bên báo cáo, trình bày tham luận, hội thảo trong
cuộc họp.
Tiền
Kỳ Tham chủ trì phiên họp chung toàn diện, đầu tiên đề
nghị phía Việt Nam đưa ra những cụ thể và cho phù hợp
sự thay đổi tình hình quốc tế. Trung Quốc và Việt Nam
đã đạt được bình thường hóa quan hệ theo tình hình
mới, hai bên đã tổ chức cấp chính phủ đàm phán biên
giới được đánh giá quan trọng nhất.
Sau
đó, Tiền Kỳ Tham giải thích chi tiết toàn diện tầm
nhìn của Trung Quốc để các cuộc đàm phán dễ chấp
nhận. Đôi lúc Tiền Kỳ Tham thẳng thắn đưa ra các giải
pháp của vấn đề biên giới dựa trên nguyên tắc dễ
dàng thỏa hiệp. Hai bên tập trung vào giải quyết theo
Pháp luật đã ấn định trong "Kỷ yếu" ? và
công bố cơ bản biên giới đất liền theo luật pháp
quốc tế, phù hợp với các nguyên tắc công bằng phân
định Vịnh Bắc Bộ. Tiền Kỳ Tham thực hiện các khuyến
nghị cụ thể, bao gồm nguyên tắc và thủ tục cơ bản
để sau đó lập lại đàm phán tương tự. Và ông đã
kết nối nhiều sự kiện, gộp vào một qui tắc ứng xử
quá ngoạn mục làm cho người ta liên tưởng đến biên
giới Việt Nam đã xử lý từ lâu.
Về
vấn đề quần đảo Trường Sa, Tiền Kỳ Tham đã nói
trong bài phát biểu của ông, đưa ra một công thức có
quá nhiều phức tạp, cuối cùng đúc kết chỉ là một
yếu tố Trung Quốc muốn hai bên thảo luận không tranh
chấp ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) tuy nhiên phía Việt
Nam phải "gác bỏ tranh chấp và tìm kiếm phát
triển chung", cùng nhau bảo vệ hòa bình, an ninh và
ổn định ở Biển Đông.
Ngoài
ra, Tiền Kỳ Tham phát biểu một số ý kiến, giảm bớt
tranh chấp của các bên trong đó nỗ lực chung để ổn
định Biển Đông, tạm thời tránh không thể giải quyết
các quần đảo Trường Sa đang tranh chấp có ảnh hưởng
đến sự phát triển của quan hệ song phương.
Tiền
Kỳ Tham có ý khuyên Vũ Khoan, nên đóng vai tuồng phản
ứng tích cực và sau đó hướng phía Việt Nam đồng ý
ngồi vào bàn tròn của Trung Quốc, chấp thuận dự thảo
"nguyên tắc cơ bản thỏa thuận", về đất
liền biên giới và Vịnh Bắc Bộ phân định đúng nội
dung "Kỷ yếu" đã định, hai bên giải quyết qua
cơ sở của pháp luật đất liền với mức độ cao của
sự đồng thuận biên giới. Vũ Khoan cho rằng, phía Việt
Nam đồng ý làm mọi việc với Trung Quốc để đàm phán
phân chia Vịnh Bắc Bộ, mà tự nó phản ánh mức độ
cao nhất có tính linh hoạt của Việt Nam.
Bắc
Kinh giới thiệu Vũ Khoan, như là một nhà ngoại giao
chuyên nghiệp, khuôn mặt trí thức hàng đầu của Việt
Nam, có cá tính tốt, lịch sự, cách cư xử tinh tế. Thuở
trẻ học tại Quế Lâm, Quảng Tây Trung Quốc (khóa 45
gián điệp Quảng Tây), hiểu biết nhiều về lịch sử
Trung Quốc. Sau năm 1955, ông vào Bộ Ngoại giao Việt Nam,
ông đã có nhiều chuyến thăm Liên Xô với các nhà lãnh
đạo Việt Nam, kinh nghiệm ngoại giao khá phong phú.
Vũ
Khoan tính kín đáo thường không tiết lộ, nhưng ở vòng
đàm phán đầu tiên, ông phát biếu sôi nổi về biên
giới phía Bắc và Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, ông cho
rằng nó có tầm quan trọng quốc phòng. Ông nói tiếp:
Việt Nam và Vịnh Bắc Bộ giống như mẹ và đứa con
trai, nay tại Vịnh Bắc Bộ dân số tăng lên 150 ngàn
người, tương đương một trong 10 tỉnh ở Việt Nam. Việt
Nam khó chấp nhận nguyên tắc phân chia theo cổ phần tại
Bắc Việt và Vịnh Bắc Bộ nếu không phù hợp của phía
Trung Quốc.
Tiếp
theo, Vũ Khoan đề nghị "Quần đảo Trường Sa"
và "vấn đề đảo cát", đòi hỏi cả hai bên
viết văn bản của dự thảo "các nguyên tắc cơ bản
của thỏa thuận", "Trường Sa- Hoàng Sa" và
"hòn đảo cát" phổ biến qua truyền thông. Vũ
Khoan nói tỏ vẻ chống lại ý của Trung Quốc.
Tiền
Kỳ Tham dựa trên sự đồng thuận, tóm tắt thảo luận
đất liền biên giới, ông khẳng định và giải thích
chi tiết phía Bắc Vịnh Bắc Bộ của Trung Quốc để
thuyết phục mọi người chấp nhận hoàn toàn.
Lúc
này Tiền Kỳ Tham cũng hơi vui mừng để nói rằng Vịnh
Bắc Bộ được chia sẻ bởi Trung Quốc và Việt Nam, nó
rất quan trọng không chỉ đối với Việt Nam, cũng là
điều cần thiết đối với Trung Quốc, đó là khu tự
trị tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam 450.000 km vuông
đất bao quanh, nâng cao các tỉnh 110 triệu người, và nó
cũng là một vùng quan trọng biển Quảng Tây, Hải Nam.
Vịnh Bắc Bộ không chỉ là địa lý chặt chẽ với Việt
Nam, nó là phần mở rộng của cảnh quan Trung Quốc. Vì
vậy, theo nguyên tắc phân chia cổ phần của Vịnh Bắc
Bộ cho nhân dân hai nước.
Sau
đó, Tiền Kỳ Tham trình bày quan điểm của Trung Quốc
trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa cho nó
rõ ràng trong đàm phán về Biển Đông, riêng biên giới
Việt Nam không liên quan đến vấn đề quần đảo Tây
Sa, quần đảo Nam Sa, lập trường của Trung Quốc về vấn
đề chủ quyền lãnh thổ không thể thay đổi, điều này
là thực tế.
Tiền
Kỳ Tham nói rằng, sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt
Nam tại quần đảo Trường Sa là vấn đề Việt Nam muốn
hoàn toàn chủ quyền, chống lại chủ quyền của Trung
Quốc. Về vấn đề quần đảo Trường Sa, cho thấy Trung
Quốc đã hạn chế tranh chấp, tuy nhiên, Trung Quốc sẽ
không đồng ý văn bản dự thảo Nam Sa và "các nguyên
tắc cơ bản của thỏa thuận".
.
Cộng
sản mật nghị âm mưu bán nước
.
Trung
Quốc đã đơn phương trả giá với Việt Cộng, định
lại lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam, tất nhiên Trung
Cộng và Việt Cộng phủ nhận (Hòa ước Thiên Tân 1885
Pháp-Thanh).
Ít
nhất trong lúc này công pháp quốc tế đã công nhận biên
giới Việt Nam trên cơ sở giá trị của (Hòa ước Thiên
Tân 1885 Pháp-Thanh), biên giới Việt Nam đã có chiều dài
1850,637 km. Giữa hai chính phủ Pháp-Thanh đã thỏa thuận
ký kết Hòa ước ngày
9 tháng 6 năm 1885 và công bố biên giới hiện thời
của Pháp-Thanh nhằm tranh giành ảnh hưởng ở Việt Nam.
Hòa ước này chấm dứt chiến tranh Pháp-Thanh, buộc quân
Thanh phải rút khỏi Bắc
Kỳ, và công nhận nền bảo hộ của Pháp tại Việt
Nam.
Công
ước Pháp-Thanh 1887, còn có tên là "Công ước
Constans 1887", được thực hiện giữa Pháp và nhà
Thanh nhằm thi hành Điều khoản 3 của Hòa
ước Thiên Tân 1885, hai bên đã ký năm 1885. Nội dung
của công ước này nhằm phân chia lại đường biên giới
giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc. Trong quá trình hai bên tiến
hành phân chia đường biên giới; đô đốc Pháp Rieunier
đã nhân nhượng cắt một số đất đai ở Hà Giang và
Quảng Yên của Việt Nam giao cho Lý Hồng Chương đại
diện nhà Thanh.
.
Vào
năm 1888, trên bản đồ Vịnh Bắc Bộ có vùng đảo Bạch
Long Vĩ thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam, Pháp
chỉ cắt Mũi Bạch Long cho nhà Thanh. (Cap Paklung có dấu
chấm đỏ).
.
Hòa
ước Pháp-Thanh 1895 hay còn có tên gọi "Công ước
Gérard 1895", nội dung của bản Hòa ước được ký
giữa Pháp và Trung Hoa năm 1895 nhằm phân chia lại đường
biên giới giữa Bắc Kỳ và Vân Nam, nhằm bổ túc cho
Công
ước Pháp-Thanh 1887. Việc ký kết này được thực
hiện vào ngày 20
tháng 06 năm 1895 tại Bắc Kinh bởi đại diện của
Pháp ở Trung Hoa là Đại sứ Gérard và đại diện Trung
Hoa là Khánh Thân Vương (Dịch Khuông), Đại thần Tổng
lý nha môn nhà Thanh.
Bản
đồ địa giới Bắc Kỳ năm 1879, tức tám năm trước
Hòa ước Pháp-Thanh lấy sông Dương Hà (sông An Nam Giang)
làm biên giới giữa tỉnh
Quảng Yên và tỉnh
Quảng Đông. Sau năm 1887, biên giới chuyển xuống phía
nam, lấy cửa sông Bắc Luân ở Hải Ninh (Móng Cái) làm
địa giới, dó đó huyện Đông Hưng của Việt Nam không
cùng ở với đất Mẹ.
.
Sau
khi phân định ranh giới giữa Trung Quốc và Pháp có khoản
1850,637 km phân đoạn dài từ Quảng Tây đến núi cao Lĩnh
Thạch, và phần đất Vân Nam đã được thành lập điểm
cắm cột mốc đánh dấu ranh giới, chủ yếu lấy sườn
núi đá vôi Ni (貎)
và trên 34 sông, rạch, suối thiên nhiên làm ranh phân định
biên giới. Pháp đã thiết lập một ranh giới cắm 240
cột mốc và 24 huyện dọc theo đường đánh dấu phân
định biên giới Trung-Việt.
.
Biên
giới đã định luật thiên nhiên sông, suối, rạch, theo
cơ sở "tục truyền thống". Phân định "ranh
giới nước" có 383,914 km, giữa hai quốc gia Trung
Quốc-Việt Nam.
-
Tỉnh Điện Biên, có 3 con sông: Nậm Náp chiều dài 13,212
km, Sông Đà chiều dài 3,601 km và Nậm Là chiều dài 14,97
km.
-
Tỉnh Lai Châu, có 7 con sông, Sông Nậm Lè 10, 01 km, suối
Nậm Na 0,138 km, sông Nậm Cúm 14,403 km, suối Phin Ho 4,074
km, sông Lũng Pô 39,65 km, Sông Hồng 29,65 km và sông Nậm
Thi 9,184 km.
-
Tỉnh Lào Cai, có 6 sông ngòi, sông Bát Kết 14,10 km, Sông
Xanh 10,94 km, Sông Chảy 9,075 km, suối Hồ Phả 0,633 km,
Suối Đỏ 7,991 km và Nậm Cư 6,062 km.
-
Tỉnh Hà Giang có 3 sông-suối, suối Nà La, 2,11 km, sông
Nho Quê 13,601 km và suối Cửa Sóc Giang 0,239 km.
-
Tỉnh Cao Bằng có 7 sông-suối, sông Quây Sơn 14,99 km, Suối
Bản Kiềng 0,25 km, sông Bắc Vọng 18,03, Suối Mo 0,49 km,
Suối Thâm Coỏng 0,86, Suối Bản Có 0,834 km và Suối Khuổi
Lạn 1,451 km.
-
Tỉnh Lạng Sơn có 7 sông-suối, sông Kỳ Cùng 3,752 km,
suối Tài Văn 2,459 km, sông Nà Sa 5,053 km, sông Đồng Mô
7,023 km, sông Bí Lao 7,638 km, sông Ka Long 48,73 km và sông
Bắc Luôn 11,77 km, (33 con sông-suối), sông Dương Hà (An
Nam Giang) 74, 524 km.
Chiếu
theo biên giới giữa lịch sử hình thành thời nhà Thanh
Trung Quốc và Chính phủ Pháp tại Việt Nam cuối thế kỷ
19. Pháp đã thông qua "vòng tròn thảo luận biên
giới Việt Nam" và tiếp tục thảo luận "ranh
giới theo diễn giải" đã phân định và phân giới
cắm cột mốc trên cơ sở 15 tập tư liệu gọi là mô tả
"Hòa ước Thiên Tân 1885". Trong qui định đó, chủ
yếu đường biên giới thiên nhiên từ núi cao Lĩnh Thạch,
và lưu vực sông ngòi, suối làm phân giới. Trong Hiệp
ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1885)
Thế
nhưng, trước năm 1940, theo Hòa ước Pháp-Thanh, Việt Nam
có chiều dài cùng biên giới với Trung Quốc là 1850,637
km. Từ khi Hồ Chí Minh xuất hiện 1945-1969. Việt Nam liên
tục mất 149,566 km lãnh thổ và lãnh hải, chưa kể Phạm
Văn Đồng và Chu Ân Lai đã ký 3 lần Hiệp ước "Vạn
Lịch White Dragon Tail Island" (Loan lí đích bạch
long vĩ đảo) dâng hiến cho Trung Quốc.[2]
Sau
thời "Bác", Việt Nam còn lại 1701.071 km chiều
dài đường biên giới chung với Trung Quốc, Việt Nam bị
thu hẹp trên đất liền chỉ còn 1465,650 km, và phân định
biên giới theo thiên nhiên sông, rạch, suối có 385,914km.
Phần thứ hai trong Hòa ước 1885: Đường biên giới ven
Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam có chiều dài 70.623 km, giáp
với Quảng Tây Trung Quốc.
Thế
nhưng tại "mật nghị Thành Đô" phía Trung Quốc
cho rằng Việt Nam chỉ có 1300 km chiều dài theo biên giới
tuyến thống.
.
Trung
Cộng-Việt Cộng chung đường cùng cướp lịch sử và
địa lý Việt Nam. Đường biên giới đất liền màu xanh
dài 1850,637 km đã mất từ năm 1945 đến 1965, và mất
70.623 km đường ven Vịnh Bắc Bộ. Đường biên giới đất
liền hiện tại màu vàng dài 1300 km. Trung Quốc hứa hẹn
tiếp tục lấy tất chia phần. Nguồn: Bộ Trưởng Bộ
Ngoại Giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham (钱其参).
.
Trong
"Hiệp định nguyên tắc cơ bản 1993" giữa
Trung Cộng-Việt Cộng đã cưỡng cướp của Việt Nam
trên 480.014 km biên giới đất liền, 383,714 km đường
biên giới sông, suối và chuẩn bị tranh chấp 227 km² đất
khai thác. Việt Cộng tổ chức một chuyến cướp lớn
nhất lịch sử Việt Nam, chưa từng có là tự ý phủ
nhận đường biên giới đất liền lãnh thổ của Hiệp
ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1885). Như vậy trước sau cuộc
chiến và đàm phán với Trung Quốc đang ở giai đoạn đầu
mất nước theo chiến thuật Việt Nam từ từ teo lại,
chưa kể sau khi hết chiến tranh năm 1990, Việt Nam đã mất
968 km² đất sinh cư tại biên giới.
Trong
hội nghị của BCT/TW đảng Cộng sản VN với Trung Cộng
chưa có súng tiếng đã để mất từng ấy Km tại biên
giới. Chưa kể trong hai cuộc chiến ngày 17/2/1979 tháng
4/1984, và vùng đảo Gạc Ma 1988. Việt Nam đã để mất
đất liền tài nguyên và rừng núi bạt ngàn. Ngày nay
Việt Nam đã chính thức mất thêm chiều dài đường biên
giới 863,728 km.
Cho
thấy Việt Nam và Trung Quốc đã phân định lại địa lý
biên giới của hai Quốc gia theo đơn giản không thông qua
đàm phán Ngoại giao hay Công Pháp Quốc tế. Đồng nghĩa
Việt Nam tự âm thầm chết dưới tay Trung Quốc, không
thể tưởng tượng cả dân tộc Việt Nam "không thấy
không biết" hành động của Việt Cộng sau 74 cầm
quyền độc trị.
Nguyễn
Văn Linh và Giang Trạch Dân trước khi ký chung vào bản
"Kỷ yếu 1990" đã thỏa thuận trước công thức
bán tháo tài sản quốc gia Việt Nam, đàm phán chỉ là
cách chơi chính trị của người Cộng sản. Chứng tỏ
Cộng sản đã quá xem thường dân tộc Việt Nam. 74 năm
độc trị chưa bao giờ Cộng sản nghiêm chỉnh, quản trị
đất nước vô nguyên tắc, sĩ nhục cho dân tộc Việt
Nam nhận phải "Kỷ yếu đàm phán ngày 3-4/9/1990".
Tiếp theo "Hiệp ước biên giới đất liền Việt-Trung
vào ngày 30 tháng 12 năm 1999". Xử lý quá đáng, họ
hành động theo lối giày đinh của kẻ chiến thắng đạp
lên xác dân tộc Việt Nam.
Cho
đến nay đã gần 1/4 thế kỷ 21, Việt Nam vẫn còn ngẩn
ngơ trước sự tình đất nước quá bi đát thế này? Hởi
loài "Câm như miệng hến", hãy đối thoại trước
nhân dân về Hội nghị bí mật Thành Đô 1990 để tìm
lối thoát nghèo hèn, bằng không bỏ hến vào nồi luộc,
luật sống thiên nhiên đã bày ra sinh tồn như thế.
.
Bài
đã đăng:
.
.
.
_________________________________________
Tham
khảo:
[1]
软化社会,
没有奋斗的意愿,
推人有不同的想法越不反对共产党的邪恶工作.
越南人民没有时间去思考,
从我们的行动来学习,
如果他们不区分“过去的结束,
开创未来".
短短20年前这一切都是在“大叔”我们已经取得了积极成果“巨变和越南的感动早期历史".
同时越南人民要争取重新获得主权,
为时已晚).
[2]
(白龙尾岛永恒"条约
"年度白龙尾范",
范文同和周恩来)
.
No comments:
Post a Comment