Thursday, 13 November 2014

THƯ GÓP Ý VỀ BÀI “DÂN CHỦ HÓA VIỆT NAM CỦA GIÁO SƯ STEPHEN YOUNG” (Dương Thu Hương)



Dương Thu Hương
4-11-2014

Tri Nhan Media - Trong lá thư " Nhắc Lại Một Đề Nghị "Dân Chủ Hóa Việt Nam", giáo sư Stephen Young ghi lại những sự việc đã xảy ra khi ông tiếp xúc với nhà cầm quyền Việt Nam vào những năm đầu thập niên 1990 với những ước mơ thay đổi Việt Nam qua chương trình " 6 điểm ". 

Nhà văn Dương Thu Hương đã phản hồi lại lá thư của GS Stephen Young với những lý luận, kinh nghiệm của một người đã từng sống trong cái nôi Cộng Sản.

Chương trình "6 điểm" tự nó đã không phù hợp với bản chất của các nước đi theo chủ nghĩa CS ngay cả khi kỹ nghệ tin học rộng mở như ngày hôm nay huống chi vào thời điểm của thập niên 1990, trong khi lãnh đạo CSVN lại là công cụ, cung cúc trung thành thi hành chỉ thị từ đàn anh Trung Cộng.

Thật tiếc cho những tấm lòng vàng.


Rất tâm đắc với đoạn: "tôi xin nhắc lại với anh, chỉ có một con đường có thể đưa đến thay đổi ở Việt nam. Con đường ấy không có hoa hồng, hoa nhài và các thứ hoa khác. Còn muốn bước chân đến vườn hoa thì phải chờ kết cục ở một ngày nào đó, khi con Rồng phương Bắc bị đâm nát. Nếu Bắc Kinh còn phẳng lặng, ắt các Kinh đô nước khác phải tan tành, bởi vì Trung hoa đã được tạo dựng trên xác chết của các dân tộc khác, biên giới của họ hiện nay rộng gấp năm lần đất đai gốc là vì nó thâu gộp các xứ sở bị họ tàn sát và đồng hóa."


************

Anh Stephen thân mến,
            
Tôi vừa nhận được bài báo của anh, đã đọc ngay và bây giờ, viết thư này.
Trước hết, chân thành cảm ơn anh về tất cả những gì anh đã làm cho công cuộc chung. Tôi nhắc lại một lần nữa rằng nếu như trước đây, cuộc chiến tranh Mỹ- Việt để lại cho hai dân tộc nhiều mất mát và hối tiếc thì ngày nay, tôi hy vọng chúng ta có một cuộc hợp tác lâu dài, cần thiết, căn để và tốt đẹp. Vì lẽ giản dị, giờ đây, quyền lợi của chúng ta đồng nhất và những nghiệm sinh trong quá khứ đã bảo đảm cho chúng ta hiểu nhau hơn, có thể đi đến những thỏa thuận một cách dễ dàng hơn.
        
Bài viết của anh công phu, nhiều điểm đánh trúng vào tâm lý cộng đồng người Việt trong nước, trước hết là các điều khoản bảo đảm cho tài sản của họ. Đây là một hiện thực vô cùng phức tạp mà nếu không giải quyết một cách khéo léo, chúng ta sẽ không lôi kéo được dân chúng. Muốn hay không, phải hiểu rằng một số đông cán bộ, sĩ quan cấp trung của quân đội cũng như công an được hưởng lợi từ sau tháng 10 năm 1954 và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nói cụ thể, họ được phân phối nhà ở, mà số nhà này giành giật từ những gia đình làm việc cho các chính quyền cũ.  Nếu bây giờ đòi hỏi tất cả phải trả lại thì họ sẽ co cụm lại với bọn cầm quyền cho dù chúng thối nát và bán nước. Đây là lý do đầu tiên tôi phản ứng với chính sách của đảng Việt tân. Các bài viết của họ nhan nhản khẩu hiệu : “ Giả nhà cho chúng ông! ” . Cũng vì chính lý do này mà tôi đã tuyệt giao với toàn bộ gia đình nhà tôi ở Mỹ. Ông bác tôi là nhà thầu lớn. Tài sản của ông mất cho cộng sản không thể kể hết, ngoài tiền vàng và kim cương ở ngân hàng còn có bốn ngôi nhà nhiều tầng và các loại máy giá hàng triệu đô-la dùng trong việc xây đập chắn nước. Tôi không thể làm hả lòng mọi người nếu không đòi lại được số gia sản đó. Nhưng tôi biết chắc chắn ấy là điều bất khả. Anh và tôi, những người tranh đấu cho dân tộc của mình, vì lợi ích của dân tộc, chúng ta phải hy sinh tình riêng. Như thế, tôi nhắc lại, chúng ta phải tạo ra sự an toàn về mặt tâm lý cho đám đông và bài viết của anh đã đạt được mục đích ấy. Phổ biến một cách rộng rãi và công khai là hợp lý.
      
Tuy nhiên, song song với bài viết này, chúng ta cần chuẩn bị một chính sách cụ thể để tóm bắt bọn cầm quyền, không chỉ trên phương diện con người mà còn phải thu hồi ráo riết tài sản mà chúng đã cướp của dân chúng. Như thế, cần phải phân chia đám đông thành nhiều lớp và phải có chính sách thích hợp với từng lớp người đó. Ví dụ, không thu hồi nhà của những người bình thường và giá trị tài sản trung bình nhưng phải có chính sách thuế đặc biệt với những kẻ chiếm đoạt những ngôi nhà gía 2000 ( hai nghìn ) cây vàng như loại nhà của Trần bạch Đằng hoặc Lê nguyên Hãn, con trai vợ cả Lê Duẩn. Tóm lại, phải làm một sự Lọc lựa chính xác và phải có các Biện pháp hiệu lực. Những kẻ biển thủ tài sản quốc gia phải được xử một cách công khai và tuyên truyền rộng rãi, càng rộng rãi càng tốt. Thế kỉ 20 là thế kỉ tiêu biểu cho các cuộc cướp giật khổng lồ. Ở tất cả các nước chậm tiến, đặc biệt là châu Phi, bọn vua chúa, bọn tướng lĩnh, bọn độc tài đội lốt dân chủ...đều thả sức vơ vét tài nguyên lẫn tài sản quốc gia rồi sau rốt chạy trốn khỏi biên thùy, sống vương giả với tiền ăn cắp. Lũ cầm quyền cộng sản cũng không nằm ngoài mưu tính ấy. Chúng đã chuẩn bị cho cuộc tháo chạy từ lâu. Thế nên, sự vô hiệu lực một cách triệt để các hành vi cướp bóc này là hành động đầu tiên lấy lại lòng tin cho dân chúng. Đồng thời đó cũng chính là lời cảnh cáo cho những người cầm quyền tiếp theo.

Về mặt chính trị, việc anh nêu rõ tên Hoàng Trung Hải trong số bè lũ thân Tầu của chính phủ cũng có nghĩa như một sự mở cả : Hoặc là chúng phải gạt bọn này khỏi hệ thống cầm quyền, hoặc là lực lượng đối lập sẽ hành động. Tôi nghĩ đây là một biện pháp khá thẳng thắn. Nhưng chúng ta không thể ngồi chờ câu trả lời của chính quyền Hà nội. Theo tôi biết, hai vụ thủ tiêu nhân sự vừa rồi chứng tỏ đám thân Tầu đang chuẩn bị quyết liệt để bảo vệ miếng ăn của chúng. Chúng hiểu rõ rằng, nếu có sự thay đổi, tất thảy bọn Ngụy Hán, những kẻ kí kết hội nghị Thành Đô, những kẻ kí việc bán mỏ Bô-xít...đều phải xử công khai trước nhân dân. Đương nhiên với những chánh án và thẩm phán có năng lực và uy tín chứ không phải bọn quan tòa chuyên ăn cướp và ăn của đút lâu nay làm lâu la cho chúng. Chớ quên rằng kẻ cầm quyền Hà nội có thể ngu dốt trên phương diện quản lý kinh tế, nhưng trong việc đàn áp nhân dân và bảo vệ quyền lợi của bản thân thì trái lại, chúng cực kì nhạy cảm và đầy thủ đoạn. Anh đừng hy vọng tìm thấy ở lũ này thứ tướng lãnh cao bồi dở như Nguyễn cao Kì hoặc gã chơi gái om sòm kiểu Nguyễn văn Thiệu. Để đánh gục bọn này, không thể chơi trò múa gươm của  Công tử con nhà giàu mà phải dùng võ Lục lâm. Sự thích ứng với hoàn cảnh cụ thể, biện pháp hiệu lực với thời điểm cụ thể là hai điều kiện mấu chốt trong chính trị. Xưa thế, mà nay cũng thế.
   
Điều tối quan trọng giờ đây là phải tìm được các biện pháp thực thi tối ưu để có được một sự đổi thay.
Sự đổi thay này, tôi xin nhắc lại, là vô cùng khẩn cấp, cho cả các anh và cho cả chúng tôi.
Việc anh nêu tên 61 đảng viên ký kiến nghị là việc nên làm, sự khích lệ đáng kể với cộng đồng người Việt trong nước. Nhưng không có sự khích lệ nào đủ làm cho một đám đông đứng dậy, phất cờ khởi nghĩa. Con số 61 là con số quá bé nhỏ so với trên 90 triệu dân. Nó là con số Khởi đầu ( Initial), không phải con số Phát triển ( Développé) và Hiệu Ứng (Efficacité). Nó đòi hỏi phải có sự Hỗ trợ mạnh, thậm chí bạo liệt. Tuy nhiên, số người này có thể coi là Hạt nhân cho một sự Vận hành ( Déclencher) thuộc về Lực lượng bề mặt ( Apparence ). Đặc  biệt là các nhân vật có tư cách kêu gọi và huy động binh lính như tướng Nguyễn trọng Vĩnh, tướng Lê duy Mật. 

Thứ nữa, các nhân vật có thể có ảnh hưởng rộng rãi đối với tầng lớp trung gian vì họ đã từng tham gia vào bộ máy cầm quyền, có thể nêu vài tên như Đào xuân Sâm, Trần đức Nguyên, Vũ quốc Tuấn, Tô Hòa, Lữ Phương, Hồ Uy Liêm, Huỳnh tấn Mẫm, Đỗ gia Khoa, Đào công Tiến, Nguyễn hữu Côn...


Hoan nghênh, cổ võ tinh thần phản kháng của họ nhưng chớ nên quá tin vào năng lực cũng như phạm vi tác động của họ. Dù chỉ là Lực lượng bề mặt, họ cũng chưa thể trở thành một lực lượng cần và đủ. Theo tôi biết, khởi sự, họ định cổ võ 2000 người ra đảng. Họ cũng đã thu thập được lời cam kết của 100 người quyết định kí kiến nghị. Nhưng đến phút chót, 39 người rút lại chữ kí, nên chỉ còn 61. Và hai nghìn người hứa ra đảng cũng rút lại với lý do : “ Làm thế cũng chẳng được tích sự gì”. Tôi không ngạc nhiên. 


Từ ba chục năm nay, tôi chưa từng nghĩ đến khả năng cách mạng hoa hồng, hoa nhài hay bất cứ thứ hoa gì gì đó ở Việt nam. Bởi vì, ở những xứ mà bóng ma Khổng tử đã ngự trị, không có trí thức, chỉ có quan lại. Quan lại, nói nôm na là lũ chó quanh quẩn trong sân của kẻ cầm quyền. Con số 61 người kể trên là những người yêu nước mãnh liệt và tinh thần quốc gia đã khiến họ thắng lướt được sự tòng phục cố hữu đối với kẻ cầm quyền chính thống. 


Nói cách khác, họ là những người đang tập sự làm Trí thức, cho dù họ có kiến thức (Lettré). Châu Á chưa bao giờ có một đội ngũ trí thức ( L’intelligentsia) theo quan niệm của châu Âu. Cũng vì thế, người phương Tây thường có sự Hiểu nhầm, hoặc Những quan niệm lệch lạc khi đánh giá xã hội châu Á.  Người Mỹ cũng như dân châu Âu tin rằng một khi giai cấp trung lưu hình thành thì cùng với họ, tư tưởng dân chủ cũng hình thành và phát triển theo. 


Suy nghĩ của các anh dựa trên mô hình cuộc cách mạng tư sản phương Tây. Giai cấp tư sản nảy sinh trong lòng chế độ phong kiến và trở thành kẻ đào mồ cho giai cấp quý tộc cũ. Theo lô-gic ấy, các anh tin rằng giai cấp trung lưu hình thành trong các xã hội chậm phát triển sẽ trở thành lực lượng đối nghịch, sẽ đào thải dần dần bọn cầm quyền cũ và thay thế họ. Các anh nhầm lẫn một cách trầm trọng. Bởi, có những quy luật chung cho nhân loại và có những điều KHÁC BIỆT THẬM CHÍ ĐỐI NGHỊCH phân cách họ. Không hẳn cái gì đúng với phương Tây cũng đúng với phương Đông. 

Ông Peter Navarro, tác giả cuốn “
Chết dưới tay Trung quốc” đã nhận định một cách chính xác rằng giai tầng trung lưu Trung quốc có thể ăn Big-Mac và đi xe hơi Mercedes nhưng không hề có một chút khái niệm nào về dân chủ. Để làm sáng tỏ hơn ý kiến của ông Peter Navarro, tôi phải nói rằng giai cấp trung lưu ở các nước cộng sản là đám nha lại may mắn trong nghề con buôn, hoặc liên kết với con buôn. Hoặc là, vế thứ hai, đám con buôn may mắn trong cuộc kết hôn với bọn cầm quyền. Muốn trở thành kẻ có tài sản, cuộc “ Làm tình” này là không thể tránh được. Giai cấp mới giàu phải chia chác lợi nhuận và được tận hưởng sự bảo trợ của những kẻ trong tay có súng. Vả chăng, đa số bọn mới giầu cũng là bọn nằm trong Thái ấp ( Fief), Lãnh địa của cường quyền. 

Thế nên, hy vọng giai tầng này đứng lên chống lại “ Liên minh vàng ngọc” của họ là điều khờ khạo. Giai cấp tư sản phương Tây chống lại tầng lớp quý tộc vì họ là con đẻ của một nền văn minh mà mấy ngàn năm trước đã từng có Nền dân chủ thành A-ten. Giai cấp ấy được hình thành trong một quá trình thông thường, tiệm tiến và hoàn toàn phù hợp với quy luật kinh tế. Quá trình này hoàn toàn khác quá trình tạo dựng lớp trung lưu trong các xã hội ở giai đoạn cuối của chủ nghĩa cộng sản bao gồm ba đặc tính sau đây :
      1 – Về mặt danh nghĩa chính thức là cộng sản độc quyền. Nhà nước cụ thể là nhà nước cảnh sát.
      2 -  Trên thực tế các chính phủ này ngoài tính cực quyền còn mang tính Mafia đột khởi, khi mà hệ thống cộng sản chủ nghĩa trên toàn cầu đã tan rã, lý thuyết cộng sản Utopie đã sụp đổ. Và đặc biệt : Đạo đức Utopie cũng sụp đổ theo. Điều này vô cùng hệ trọng vì các chính thể này từng thống trị dân chúng trong một thời gian dài với thứ Đạo đức Utopie ( nối tiếp thuyết Đức trị, Lễ trị của Khổng tử ), cho dù thực chất đó chỉ là thứ đạo đức giả, nhưng với hệ thống tuyên truyền theo kiểu Hitler, với chính sách ngu dân kèm theo một  cách ráo riết, thứ Đạo đức Utopie này đã từng có thời hiệu nghiệm. ( Tôi xin phép được giải thích thêm về nhóm từ Đạo đức Utopie. Phải thừa nhận rằng không thiếu những trí thức cánh tả ở phương Tây bị quyến rũ bởi Tính chất tuẫn đạo của chủ nghĩa cộng sản nên đã tình nguyện đi theo nó. Chỉ đến khi thực tế đập vào mắt họ, họ mới thức tỉnh. Có thể đơn cử nhà văn Pháp Andrei Gide làm ví dụ. Hoặc như gián điệp Phạm xuân Ẩn ở Việt nam. Đó là những người giữ một tư cách cá nhân trong sạch , không tham tiền, không tham gái, thậm chí có thể hiến dâng toàn bộ tài sản cá nhân cho cách mạng. Ông Phạm xuân Ẩn, chỉ đến khi ra Hà nội, tiếp xúc trực tiếp với bộ máy cầm quyền cộng sản mới vỡ mộng mà thôi.)
    3- Các thuộc tính của Phong kiến phương đông chưa bao giờ hết hiệu lực trong các xã hội này.
Thế nên, áp dụng những quy luật lịch sử thuộc về ba thế kỉ trước ở phương Tây với các xứ chậm tiến ở phương Đông giờ đây là hoàn toàn lầm lạc.
     
        Nói như vậy, phải chăng không hề có lực lượng đấu tranh cho dân chủ ở Trung quốc ?
        Có !
Thiên an môn là ví dụ điển hình.
        
Nhưng tỉ lệ vài ngàn người trên một tỉ rưỡi dân Trung hoa là một thứ muối bỏ biển. Cũng như giờ đây ở Việt nam, con số 61 người kí kiến nghị yêu cầu nhà cầm quyền thay đổi chính trị trên 90 triệu dân Việt nam là một thực tế đáng nhục và đáng buồn. Các cuộc biểu tình chống Tầu ở Việt nam được thực hiện do sinh viên và một số ít những người có hiểu biết nhưng chưa kịp, hoặc chưa có điều kiện để trở thành giai cấp trung lưu, có tài sản. Nói tóm lại, họ là thứ quả quá hiếm hoi và họ chưa thể trở thành một lực lượng đáng tin cậy.
         Vì sao ?
         Vì tư tưởng dân chủ chỉ có thể hình thành khi có con người dân chủ, mà loại người đó chưa là cư dân chính thức trên các vùng đất này.

Bây giờ, để hiểu rõ Tinh thần Trung quốc, làm con tính đơn giản sau :
          1- Hãy so sánh con số những người tham gia biểu tình đòi dân chủ ở Bắc Kinh với con số những sinh viên Trung hoa, được ăn học ngay trên đất Mỹ nhưng hoàn toàn bị điều khiển bởi tinh thần quốc gia và chủ nghĩa Đại Hán. Đám người “ trẻ trung”này đã phản ứng ra sao để bày tỏ lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc vĩ đại của họ ?
        2 -  Hãy so sánh con số những người Trung hoa quyết tâm đi theo nền dân chủ với đám Tin tặc mũ đỏ, Hắc khách đến từ lục địa của Mao trạch Đông. Theo tư liệu của ông Peter Navarro thì Tin tặc Mũ đỏ của Trung quốc đã thâm nhập vào NASA, lầu Năm góc và Ngân hàng thế giới, đã tấn công Phòng công nghiệp và An ninh của bộ thương mại Mỹ dữ dội đến mức Bộ phải vứt bỏ hàng trăm máy tính bị hỏng, đã copy sạch ổ cứng của dự án Chiến đấu cơ kiêm Oanh tạc cơ F-35 của hãng Lokheel Martin...Hiện nay Trung quốc có hàng trăm trường đào tạo tin tặc để dạy ma thuật cho những phù thủy trẻ tuổi, một lực lượng khổng lồ đã, đang và sẽ tấn công toàn thế giới.
      3 -  Hãy điều tra xem trong đám dân Tầu tị nạn chính trị trên đất Mỹ, có bao nhiêu phần trăm dissident thật sự và bao nhiêu phần trăm Lính Nằm vùng ? Đừng quên rằng Khổ nhục kế là sáng tạo của người Trung hoa chứ không phải của người Mỹ. Từ nhiều thế kỉ nay, chiến thuật đó đã được sử dụng đi sử dụng lại một cách linh hoạt và vô cùng hiệu quả.
  
Vậy thì,  với sự thực không thể bác bỏ như đã nêu, có thể kết luận rằng tư tưởng dân chủ đủ sức mạnh chinh phục hay chính chủ nghĩa Đại Hán mới là Tư tưởng Lớn ( Noble idéal), Tư tưởng Chính thống ( Idée orthodoxe de vieille souche ), tư tưởng thống trị ( La pensée écrasante) trên tuyệt đại đa số gần một tỷ rưỡi dân Trung quốc hiện nay ?

Thêm một ví dụ nữa, trong cuốn sách của ông Peter Navarro có nhiều đoạn nói về cảnh những công nhân Trung quốc bị bóc lột thậm tệ, sẵn sàng ngủ gục bất cứ nơi đâu sau giờ làm việc. Phía sau những nhận xét này là mối thương tâm. Tôi hiểu cảm xúc ấy vì nó là điều hiển nhiên trước những cảnh đau lòng. Thế nhưng, cũng chính những người công nhân khốn khổ ấy sẽ sẵn sàng trở thành đội quân tàn bạo nhất khi được điều động đi xâm chiếm các lãnh thổ khác. Đó là một thực tế không thể chối bỏ. Đó cũng là MỘT HIỂN NHIÊN. Họ là hậu duệ của những tên lính Trung hoa thời xưa, chỉ vì húp thêm một bát cháo đã bị Tào Tháo hạ lệnh chém ngang lưng nhưng cũng chính họ là bọn côn đồ khát máu và bọn vơ vét tham tàn nhất một khi vượt khỏi biên thùy. Hãy nhìn lại những chùa chiền bị cướp bóc và phá hủy ở Tây Tạng. Đâu phải bọn vua chúa Bắc Kinh thực hiện các hành vi man rợ ấy, đó là dân con của  chúng, những người Trung hoa không dám chống cường quyền nhưng phóng chiếu toàn bộ bản năng hiếu sát lẫn sự tham tàn, độc ác của họ lên đầu “Thiên hạ”. Ngoài biên thùy, Vua chúa và Dân đen Trung hoa trở thành khắng khít vì hai bên có một mục tiêu chung. Chiến lược  ĐỔ LỬA RA NGOÀI là chiến lược có từ ngàn năm, một thứ Màn thầu đặc biệt của dân Tầu. Điều này, chắc chắn người Việt chúng tôi biết rõ hơn người Mỹ. Cần phải đưa thêm một con số : Trong cuộc thăm dò ý kiến của bộ trưởng bộ quốc phòng Trung quốc cách đây không lâu, trên 95 phần trăm dân Trung quốc nhất trí : “Đánh lũ chó Việt nam để thu hồi lãnh thổ!” Chỉ có trên 4 phần trăm người không trả lời hoặc không đồng ý. Như thế đủ hiểu, sức mạnh Truyền thống lớn đến đâu.
  
Thế nên, Stephen thân mến, tôi nói điều này mà không sợ làm anh phật ý, nếu anh có nghĩ đến Cách mạng Hoa nhài, Hoa hồng, Hoa tuy-líp...như một cách vui chơi, hoặc làm đẹp ngôn từ thì tôi đồng ý. Nếu là một ý nghĩ nghiêm chỉnh ( như niềm sung sướng nghiêm chỉnh và chân thành của dân Pháp, những người từng nhảy cỡn lên vào Mùa xuân Arabe ) thì xin anh bỏ ý nghĩ ấy đi. Bởi vì, đó chính thực là một thứ Utopie. Ngày xảy ra cuộc cách mạng Hoa nhài, khi nghe đám dân Pháp hò hét, tôi có nói với họ : “ Chớ nên cười quá sớm! Đó là kinh nghiệm của tôi”. Đến khi thành quả cuộc cách mạng rơi vào tay đảng Islam, họ đã phải thú nhận : “ Chúng ta mừng hụt” . Tôi lại xin cung cấp cho anh thêm một tư liệu của năm vừa rồi, theo điều tra thì trên 70 phần trăm những người Tunisi làm việc trên đất Pháp từ vài thập kỉ nay bỏ phiếu cho đảng của Islam. Điều đó có nghĩa gì ? Hố thẳm trong óc não con người là nơi sâu nhất, khôn dò. Tunisi là nước có đường biển thông thoáng, là đất nước cởi mở nhất với phương Tây trong toàn khối Arabe, hàng nghìn năm có quan hệ thương mại với châu Âu, vậy mà phản ứng của họ còn bảo thủ đến như thế, huống hồ Việt nam, mảnh đất bị kẹp dưới nách của Trung hoa, hàng nghìn năm sống trong thứ ao tù nước đọng ? Với một thực tiễn đáng buồn như vậy, làm sao có thể tin được một sự chuyển hóa “ nhung lụa, hòa bình” ở Việt nam?
Vì cái thực tiễn ấy, tôi xin nhắc lại với anh, chỉ có một con đường có thể đưa đến thay đổi ở Việt nam. Con đường ấy không có hoa hồng, hoa nhài và các thứ hoa khác. Còn muốn bước chân đến vườn hoa thì phải chờ kết cục ở một ngày nào đó, khi con Rồng phương Bắc bị đâm nát. Nếu Bắc Kinh còn phẳng lặng, ắt các Kinh đô nước khác phải tan tành, bởi vì Trung hoa đã được tạo dựng trên xác chết của các dân tộc khác, biên giới của họ hiện nay rộng gấp năm lần đất đai gốc là vì nó thâu gộp các xứ sở bị họ tàn sát và đồng hóa. Cái phương cách sinh tồn này đã thấm đẫm trong nếp nghĩ, nếp sống của người Hán và trở thành sức mạnh tinh thần to lớn của họ. Chủ nghĩa Đại Hán không thể ra đời ở một xứ như Thụy sĩ hoặc Nay-uy. Chủ nghĩa Đại Hán phải ra đời ở một miền đất mà các cư dân sống trên đó phải được vũ trang bằng những thứ vũ khí đặc biệt về mặt tinh thần. Tính cách đặc thù này là một HẰNG SỐ, nhưng trong một thời gian khá dài, nó đã được ngụy trang, chôn cất tạm, hoặc giấu diếm, bởi vì trong thời gian này, người Trung hoa cùng khốn, họ rơi vào cảnh nô lệ, bần hàn. Hiện nay, Trung hoa đã trở thành cường quốc trên toàn cầu, do đó tính cách Trung hoa đang được khai triển với một ý chí mãnh liệt, thậm chí điên rồ.
      
          Tôi xin dẫn vài ví dụ :
     I – Ông Trần ngọc Vượng, từng có thời gian giảng dạy tại đại học Bắc kinh  và đang tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu và tìm hiểu văn hóa Trung quốc cho biết : Trong cuốn tiểu thuyết viết theo lối khảo cứu, đề xuất luận điểm, có tên Lang Đồ Đằng ( Tô tem sói), tác giả Khương Nhung của Trung quốc xác định thuộc tính có tính chất căn tính của người Trung quốc là sói tính. Sói là con vật ranh mãnh, thủ đoạn, độc ác, thâm hiểm nhất của thảo nguyên, bình nguyên và cao nguyên. Người Trung quốc đặt căn cước của mình khởi đi từ đó. Mấy năm liền, người Trung quốc in đi in lại cuốn tiểu thuyết này, cổ vũ Tính chiến đấu, tinh thần Quật cường của đồng bào họ.
       2 - Theo lời kể của một phóng viên Pháp vừa đi New York về thì hiện nay, tại New York, có Restaurant Trung quốc treo tấm biển : Không có nĩa ! Anh hãy nhờ cảnh sát ở New York tìm xem địa chỉ chính xác của Restaurant này ở đâu ?. Một thông báo như vậy đồng nghĩa với lời tuyên bố rằng ở đây, nền văn hóa cầm đũa là kẻ thống trị. Ba mươi năm trước, chắc chắn những người Trung hoa nhập cư phải là những chủ nhân lịch sự tuyệt vời, họ sẽ ân cần mang dao, nĩa đến tận bàn một ông khách da trắng khi ông này lóng ngóng chưa quen dùng đũa. Nhưng bây giờ, gió đã xoay chiều, và họ tuyên bố thẳng thừng : kẻ nào không biết cầm đũa thì cút đi chỗ khác.
       3-Những thập kỉ trước đây, người nhập cư Trung hoa ở Paris được tiếng là cần cù, nhũn nhặn. Nhưng vào thập kỉ cuối cùng, từ năm 2000 trở lại đây, thái độ của họ đã đổi thay. Khi tiền của người Tầu đủ mua các công ty, các hãng lớn thì họ cũng mua luôn từng khu phố để làm nơi cư ngụ. Cuộc mua bán này diễn ra với quy mô rộng lớn và rầm rộ khiến dân Pháp lo ngại. Dù chính phủ không có chỉ thị chính thức, nhiều chính quyền quận có phản ứng. Theo tôi biết, vào những năm đầu thế kỉ mới, chính quyền quận 3 ( khu Marrais) ở Paris cố gắng hạn chế cuộc mua nhà đất của người Tầu nhưng không có hiệu quả. Ngược lại, giờ đây khi ông Tầu nào muốn mua một cửa hàng, mà chủ nhà không muốn bán, họ thuê du côn đến gây sự, đập phá, quấy rối dưới các hình thức khác nhau và sau rốt, chủ nhà đành phải đóng cửa hàng, bán lại. Nước Pháp suy đồi đến mức khi một sinh viên Việt nam viết bài tố cáo chính sách xâm lấn biển của Trung hoa thì liền bị giáo sư phụ trách gọi lên yêu cầu chấm dứt ngay  hành vi phản kháng, nếu không sẽ bị buộc thôi học. Tôi có nói chuyện này với một bà giáo sư đại học Paris 7, bà ấy đáp lại : “ Chúng tôi có một nước Pháp của De Gaule và một nước Pháp của Pétain. Tôi ngờ rằng nước Pháp thời hiện tại là nước Pháp của Pétain !”
   
Chủ nghĩa quốc gia là thứ khát vọng mãnh liệt nhất, kinh hoàng nhất trong lịch sử loài người. Nếu như trước đây hơn nửa thế kỉ, thanh niên Đức bị cuốn vào chủ nghĩa phát-xít của Hitler như bông bồ công anh cuốn theo chiều gió, thì giờ đây các thế hệ Trung quốc sẽ còn bị cuốn vào chủ nghĩa Đại Hán với một sức mạnh điên rồ trăm lần hơn nữa. Bởi vì, chủ nghĩa phát-xít Đức là khát vọng quốc gia mới tạo lập, còn chủ nghĩa Đại Hán là thứ cây cổ thụ, sau những năm tàn úa giờ đây xanh tươi trở lại, nguồn sống của nó được dung dưỡng thâm sâu gấp bội phần. Thêm nữa, Trung quốc là phương Đông, phương Đông muôn vàn bí hiểm với phương Tây. Chúng tôi đây, những người Việt nam khốn khổ hàng nghìn năm chiến đấu chống lại họ, ăn uống, phong tục cận kề mà còn không hiểu được họ, huống hồ các anh, những người Mỹ ? Vì thế, mới có câu : “ Thâm như Tầu”. Hoặc là “ Bụng người Tầu, còn lâu mới biết”. Nhớ lại thời cách đây vài thập kỉ, khi mỗi tuần, người ta giết hàng nghìn con trâu rồi mang móng sang bán bên kia biên giới, không ai hiểu vì sao. Dân chúng còn thì thào :” Người Tầu mua móng trâu làm thuốc chống ung thư” . Rồi sau đó vài tháng, lại có chiến dịch đào rễ hồi, rễ quế bán cho “ các thầy thuốc Tầu”. Ba năm sau, dân các vùng biên giới đói vàng mắt, miền xuôi phải đem gạo và ngô cứu tế, lúc ấy mới rõ người Tầu không chế thuốc men nào hết, họ chỉ có một mục đích là phá sạch kinh tế các tỉnh phía bắc Việt nam mà thôi.
       
Người Mỹ các anh, bắt một ông tổng thống ra trước tòa xin lỗi dân chúng, chỉ vì ông ta trót nhảy lên bụng một cô thư kí Nhà trắng rồi nói dối, nghĩa là các anh coi Sự trung thực là phẩm tính cốt yếu mà bắt buộc mọi người, trước hết là các nhà lãnh đạo phải có. Với tâm thế ấy, các anh làm sao hiểu được người Tầu, một dân tộc đã viết ra cuốn Phản kinh ?...
   
Để anh rõ chi tiết, tôi xin trích vài dòng của người đang dịch cuốn Phản kinh ra tiếng Việt, giáo sư Trần ngọc Vượng :
  ... “ Cuốn thứ hai tôi cũng đang dịch mang tiêu đề Phản kinh, tức là Cẩm nang, bí kíp của những thủ đoạn chính trị và người ta quảng cáo cuốn sách là : Lịch đại thống trị giả - Mật như bất ngôn- Dụng như bất tuyên kì ( Tạm dịch : Bộ kì thư mà kẻ thống trị ở tất cả các nơi phải giữ bí mật- Làm theo nhưng không nói ra, không công bố ). Bộ sách này được một nhân vật đỗ tiến sĩ đời Đường viết ra, sau đó tìm cách dâng cho vua rồi trốn biệt, về sau không ai biết ra làm sao. Ngay đến cái tên của tác giả cũng là điều kì bí. Tôi mua bộ sách này lần đầu vào năm 1998, lúc tôi dạy ở đại học Bắc kinh. Đọc tên tác giả, tôi hơi ngỡ ngàng vì chưa biết chữ ấy bao giờ. Nghĩ mình là người nước ngoài, học tiếng Hán có hạn chế, ai dè hỏi các giáo sư Trung quốc cũng không ai biết. Hai ba hôm sau, kỉ niệm 100 năm đại học Bắc kinh, gần 10 xe chở các chuyên gia đại học Bắc Kinh ra Đại lễ đường Nhân dân, giáo sư Phó thành Cật cầm chữ trên tay đi hỏi cũng không ai biết. Cuối cùng, ông về tra Trung quốc đại từ điển, ra tên này nằm ở phần đuôi của chữ ghép. Phiên âm Hán-Việt phải đọc là Nhuy. Cái tên này còn chưa có trong thư tịch Việt nam, chỉ đọc theo nguyên lý thôi. Thật lạ !
       Bộ sách được cất trong kho chứa sách của triều đình, nhưng thi thoảng lại lọt một phần nào đó ra ngoài nên đời Minh, Thanh đều có chỉ dụ cấm tàng trữ, đọc cuốn sách đó. Mãi tới năm 1998, lần đầu tiên nó được in ra, mà lại in ở nhà xuất bản Nội Mông cổ, theo kiểu in để thăm dò. Nói vậy để biết đó cũng là loại bí kíp kì thư. Kiểu bí kíp ấy, Trung quốc rất có truyền thống nên tôi muốn giới thiệu để chúng ta, nhất là giới chính trị, hiểu họ hơn....
       ( Trích cuộc phỏng vấn của báo Người Đô thị với giáo sư Trần ngọc Vượng)

Ông Trần ngọc Vượng đã gõ cửa một loạt các cơ quan nhà nước có chức năng và trách nhiệm nghiên cứu chính trị và văn hóa. Không nơi nào trợ cấp cho ông dịch cuốn cẩm nang quý báu này. Vì giới cầm quyền cộng sản Việt nam muốn giữ lòng trung với Mẫu quốc. Dịch Cẩm nang, tức phơi bầy bộ mặt Lang sói của kẻ cầm quyền phương bắc, cũng có nghĩa gián tiếp tố cáo thân phận nô bộc và phản bội tổ quốc của chính họ. May thay, hiện nay cuốn sách vẫn đang được dịch, nhờ tài trợ của một doanh nhân.

Cuốn Phản kinh là bằng chứng đầy thuyết phục cho tính cách độc đáo Trung hoa. Một hiện tượng cũng độc đáo tính Trung Hoa không kém là  nhân vật Dịch Nha. Dịch Nha là đầy tớ của Tề Hoàn Công, một ông vua thời Đông Chu.

            Một ngày, Tề Hoàn Công đùa bỡn Dịch Nha, nói rằng :

           Ta đây, món ngon vật lạ trên rừng, dưới biển đều đã nếm đủ. Chỉ có mỗi thịt người là chưa                  biết đến mà thôi.

           Ngay hôm sau, Dịch Nha dâng cho vua một mâm thịt ngào ngạt hương thơm. Tề Hoàn Công              thưởng thức một cách khoái trá, sau đó hỏi :
           Thịt gì mà ngon vậy ?
           
           Dịch Nha đáp :
           Thịt người.
           
            Tề Hoàn Công hốt hoảng :
            Lấy đâu ra ?
           
            Dịch Nha đáp :
           Bẩm chúa công, đó là thịt đứa con trai cả của thần, nó vừa đầy ba tuổi. Vì chúa công chưa bao             giờ được dùng thịt người nên thần thịt nó cho chúa công xơi.
        
           Quả nhiên, Dịch Nha trở thành sủng thần, cùng với Thụ Điêu và Khai Phương, khuynh loát                  triều đình sau khi Quản Trọng chết. Đây là lời của Tề Hoàn Công nói với Quản Trọng khi ông             tể tướng này can vua chớ nên gần gũi bọn nịnh thần :

            Dịch Nha làm thịt con cho tôi ăn, thế là yêu tôi hơn yêu con, còn nghi ngờ gì nữa ?
       
Một kẻ, vì cuộc đầu cơ chính trị, tự tay giết con đẻ của mình, lại tự tay xào nấu thành món ngon tuyệt vời để dâng vua nếm, kẻ đó là sản phẩm độc nhất vô nhị trên toàn cõi đất. Ngoài Trung quốc, không một dân tộc thứ hai nào trên hành tinh này có được. Thời xưa, các bộ tộc man di có tục ăn thịt người, và ngày nay, cũng có những Kẻ ăn thịt người do Hiện tượng Lại giống, hoặc bọn ăn thịt người do kích thích của ma túy, những kẻ còn duy trì bản năng dã thú ở mức độ quá cao. Nhưng đám người man dã này không thể so được với Dịch Nha vì Dịch Nha Chống lại Tính người không phải do bản năng dã thú mà do sự tính toán kĩ lưỡng. Vì Mưu lợi mà có thể Hủy diệt tính người, đó là đặc sản Trung quốc. Cũng như vì muốn tăng cường thể lực, họ có món óc khỉ sống của bà Thái hậu Từ hy. Cái đặc tính này bộc lộ trên nhiều phương diện. Ngay trên các địa bàn thuần túy tình cảm và đạo đức, người Trung hoa cũng có lối thể hiện độc đáo của họ. Ví dụ, có thể bàn về tình hiếu đễ. Dân Tầu vẫn tự hào được dạy dỗ bởi đức thánh Khổng và thường khoa trương các món hàng Truyền thống của họ. Tuy nhiên, chính ngay trên cái địa hạt đầy tinh thần đạo đức này, cũng có thứ gì đó khiến ta Dựng lông tóc, sởn da gà. Xin anh hãy đọc lại chuyện “Vì mẹ nguyện chôn con”, in trong cuốn Thái Ất tử vi năm Quý Tỵ 2003 do Vương Dung Cơ luận giải ( P.O Box 9585 – Fountain Valley. CA 92728-9585 ). Nội dung được ca ngợi : Muốn có đủ thực phẩm nuôi mẹ, chồng yêu cầu vợ đào huyệt để chôn sống đứa con sáu tuổi để bớt đi một miệng ăn ! Hình mẫu này, được tuyên truyền, phổ biến như món Dầu cháo quẩy trong các quán bình dân.
        
Thế giới của các anh được định vị bằng các luật. Trung hoa chưa bao giờ sống theo luật, cho dù có cả một trường phái mang tên Hàn phi tử. Luật chỉ làm cho vua và vì thế, đổi thay theo một cái gật đầu hay vẫy tay của vua. Vả lại, từ hàng nghìn năm nay, nền văn hóa vĩ đại của Trung hoa vốn được nuôi dưỡng bằng nhân cách đúp : Người ta có những tư tưởng đẹp đẽ và cao siêu của Lão và Trang để mơ mộng và ngâm ngợi (để nhìn lên cung trăng) và giờ đây, để làm lóa mắt đám trí thức ngoài biên giới. Họ có một hệ thống đạo đức dưới nhãn hiệu Khổng Khâu lẫn Mạnh tử để rao giảng, dậy dỗ ( để rọi sáng đường đi dưới ánh mặt trời), và giờ đây, để chiêu dụ tâm lý những cư dân thuộc các nền văn minh khác. Nhưng cuộc sống thường hằng diễn ra cả ban ngày lẫn ban đêm lại được nuôi dưỡng bằng món Bánh bao chấm máu người, và vì là cuộc sống thường hằng nên con người cứ việc tuân theo mà không ai nói năng gì hết. Nhà văn Lỗ Tấn, một cách vô thức đã phản ánh trung thành tính cách dân tộc của ông. Lịch sử Trung hoa đã được nuôi dưỡng với món BÁNH BAO CHẤM MÁU đặc biệt  ấy, và nó sẽ tiếp tục phát triển với cùng nguồn dinh dưỡng đậm đà bản tính dân tộc, cho dù hình thức biến  thái đi.
     
Với tất cả những gì đang diễn ra hiện nay, tôi nghĩ các anh không còn nhiều thời gian nữa. Tôi không tin rằng các anh chần chừ cho đến lúc tất cả đám dân Trung hoa buôn đồ cổ ở New York tuyên bố thẳng thừng là thành phố này từ nay thuộc về họ, và rằng đội quân thứ năm của Hoàng đế Trung hoa nhất tề đứng lên, khẳng định các anh, những người mang dòng máu bình thường của nhân loại, còn họ, những kẻ mang Máu Rồng, nên họ có quyền thu hồi lại lãnh thổ vốn thuộc về người da đỏ, những tổ tiên có cùng sắc da vàng như họ ( Tôi nhắc lại ý chính trong một bài báo của người Trung quốc trên Internet cách đây gần một thập kỉ). Không có sự điên rồ nào được coi là điên rồ hoặc là đáng kinh ngạc với người Trung hoa, một thứ người đã thịt con đẻ của mình như thịt gà hay thỏ, hạng người ấy không gì không làm được.
    
Tôi tin rằng các anh sẽ tìm được biện pháp hiệu lực trong thời gian ngắn nhất, trước khi mọi sự trở nên quá muộn màng. Dân tộc các anh là dân tộc tiêu biểu cho khát vọng tự do của nhân loại, các anh có đủ phẩm chất và tư cách để Hành động.
       
Hành động, để cứu chính nước Mỹ trước hết, và sau đó, cứu cả các dân tộc có nguy cơ bị nghiền nát dưới bánh xe của bọn Tần thủy Hoàng thời hiện đại. Đó chính là Lý tưởng cho người Mỹ ngày hôm nay.
      
Chúc anh chị vui và khỏe.
Khi nào có dịp ghé Pháp thì nhớ báo cho tôi.
   
Dương thu Hương.
Paris, ngày 30 tháng 10 năm 2014






No comments:

Post a Comment

View My Stats