Lê
Xuân Khoa
Cập
nhật lần cuối 13/11/2014
LTS.
Bài Đọc
sách VIỆT NAM 1945-1995 của Lê Xuân Khoa
của Chu Sơn đã đăng làm 4 kỳ trên Diễn Đàn từ ngày
31.10 đến ngày 8.11.2014. Chúng tôi xin đăng dưới đây lá
thư của tác giả Lê Xuân Khoa đề ngày 11.11.2014.
--------------------------
.
Tất
nhiên là cuốn sách của tôi, cũng như sách của bất cứ
tác giả nào, cũng có những điểm bất toàn và những
điểm cần được thảo luận. Tuy nhiên, tôi thấy không
cần phải trả lời loạt bài này vì mấy lý do chính sau
đây :
1.
Cuộc tranh cãi sẽ kéo dài không biết đến bao giờ vì
tôi giữ vững quan điểm của tôi về nhũng vấn đề
chính, như nội chiến và chiến tranh ủy nhiệm. Trong 10
năm qua, tôi đã nhận được nhiêu ý kiến của thân hữu
và độc giả khắp nơi, trong và ngoài nước, hầu hết
đều đồng ý với quan điểm của tôi. Có một số hiệu
đính và nhận xét hữu ích mà tôi trân trọng ghi nhận
và sẽ sửa đổi và bổ sung khi sách được tái bản lần
sau.
2.
Cuộc tranh cãi về chiến tranh Việt Nam, dù có đáng được
tiếp tục, cần được gác qua một bên trước nhiều vấn
đề cấp bách liên quan đến sự tồn vong của đất
nước. Quan trọng nhất là làm thế nào để đối phó
với hiểm họa Trung Quốc và thay thế chế độ độc tài
toàn trị. Chu Sơn có thể đã nhận ra những lỗi lầm
tai hại của lãnh đạo cộng sản, nhưng những nỗ lực
của ông biện minh cho "chính nghĩa" cộng sản
trong cuộc chiến "chống Mỹ cứu nước" vào
lúc này trở nên lạc lõng, vô duyên trong khi hiện tượng
"tự diễn biến" hay "tự giác" đang
lan rộng trong hàng ngũ đảng viên các cấp. Không phải
là ngẫu nhiên khi cuốn sách của tôi có nhiều độc giả
trong nước tìm đọc khiến trang blog AnhBaSàm đã
xin phép tôi cho đăng dần từng chương để cho độc giả
đọc không mất tiền từ đầu năm 2013. Tạp chí lịch
sử Xưa và Nay của anh Dương Trung Quốc cũng đã
trích đăng những trang tôi viết về chính phủ Trần
Trọng Kim, chắc chắn là Ban Văn hóa Tư tưởng (và ông
Chu Sơn) bực mình không ít.
3.
Sau bài Việt
Nam: Cơ hội cuối cùng và những Đột phá cần thiết
(tháng Sáu 2014), tôi đã thông báo trên các diễn đàn
thân hữu là tôi sẽ không viết gì thêm về tình hình
Việt Nam. Tôi cũng đã từ bỏ mọi hoạt động tinh
nguyện bên ngoài, trừ một dự án NGO mà tôi cũng đã
thật sự chấm dứt vai trò cố vấn cuối tuần qua. Ngoài
vấn đề tuổi tác và sức khỏe, tôi còn phải lo hết
công việc gia đình vì nhà tôi phải ngồi xe lăn không
làm gì được. Thêm vào đó là tôi phải cố hoàn tất
cuốn sách về lịch sử tị nạn và cộng đồng đã bỏ
dở quá lâu. "Giã từ vũ khí" (mượn tên cuốn
Farewell to Arms của Hemingway) bây giờ là đúng lúc, nếu
không muốn nói là đã trễ.
Dù
không trả lời ông Chu Sơn, tôi thấy cần phải đính
chính một sai lầm quan trọng của tác giả này trong mục
số VII: "Vấn đề hòa giải hòa hợp dân tộc".
Sai lầm này có thể do ông Chu Sơn hiểu lầm hay cố ý
xuyên tạc quan niệm của tôi về vấn đề này.
Chu
Sơn viết : "Vậy
thì đặt vấn đề hòa giải với 'chính quyền trong nước'
như chủ trương của Lê Xuân Khoa là một việc làm, khó
lí giải được, và vô cùng nguy hiểm đối vơi đại đa
số nhân dân là đối tượng chuyên chính ngày càng siết
chặt của 'chính quyền trong nước'".
Nếu Chu Sơn đã đọc những bài tôi viết về hòa giải
dân tộc thì ông đã phải thấy rõ là tôi đáp lại lời
kêu gọi của các lãnh đạo "chính quyền trong nước"
với điều kiện là họ phải nhìn nhận những chính sách
sai lầm trong quá khứ và phải thực thi dân chủ, nhân
quyền. Để minh xác quan điểm của tôi về "vấn đề
hòa giải hòa hợp dân tộc", không gì bằng cách đăng
lại bài viết ngắn gọn của tôi trên tờ Diễn
Đàn
của anh để trả lời bài Chúng
ta cần hòa hợp, không cần hòa giải
của ông Bát Thạch Kiều ngày 3 tháng 5 năm 2013.
Nguyên văn bài của tôi (đăng
ngày 7.5.2013, chú thích của Diễn Đàn)
như sau :
.
Hoà Hợp Và Hoà Giải
Trong
bài, "Chúng ta cần hoà hợp, không cần hoà giải"
của ông Bát Thạch Kiều (Diễn Đàn, 3.5.2013), tác giả
nêu lên hai điểm then chốt :
- Đại đa số người Việt hiện nay dù ở đâu cũng không còn chịu trách nhiệm gì về cuộc chiến đã qua, thế thì còn cần gì nói đến hoà giải.
- Đất nước đang cần hoà hợp hơn bao giờ hết để mọi người đồng lòng phát triển kinh tế và giữ gìn lãnh thổ, (nhưng) không thể có hoà hợp nếu không có dân chủ.
Tôi
chia sẻ ưu tư của tác giả nhưng có ý kiến khác như
sau:
1.
Đúng
là đại đa số người Việt hiện nay không chịu trách
nhiệm gì về cuộc chiến đã qua nhưng họ đang phải
chịu nhiều hậu quả tai hại, trực tiếp hay gián tiếp,
do phe chiến thắng gây ra cho đất nước và dân tộc. Phe
thắng trận, cụ thể là giới lãnh đạo và hậu duệ
của họ, qua bộ máy cai trị độc tài và tham nhũng, đang
áp dụng chính sách nô lệ hoá toàn dân và kết tội
những người yêu nước là kẻ thù.
Thế hệ người Việt sau 1975, dù không có trách nhiệm về cuộc chiến, vẫn có trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của tổ quốc và quyền tự do, hạnh phúc của người dân. Thế hệ trẻ ở hải ngoại lại không thể quên những đau khổ, nhục nhằn mà gia đình họ phải chịu sau ngày thống nhất, hay những thảm họa trên đường vượt thoát tìm tự do mà ít nhiều gì họ cũng là nạn nhân. Nhớ đến quá khứ đau thương ấy không phải để nuôi dưỡng thù hận mà chính vì cần có "sự công chính của lịch sử" để đem lại sự hoà hợp dân tộc, nhờ vậy Việt Nam mới có thể trở thành một quốc gia giàu, mạnh và dân chủ.
Tuy
nhiên, mục đích ấy chỉ có thể đạt được khi chính
quyền thật tâm nhìn nhận những sai lầm đã qua và hoà
giải với những người yêu nước bất đồng chính kiến
và những nạn nhân của chính sách bất công, tham nhũng.
Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, chính quyền
cũng phải "hoá giải hận thù" bằng lới nói và
hành động hoà giải cụ thể, thay vì chỉ kêu gọi "hoà
hợp một chiều" có tính cách chiêu hồi và khai thác
"khúc ruột ngàn dặm." Chỉ riêng chuyện "hoà
giải với những người đã nằm xuống" qua việc cho
phép hội Vietnamese American Foundation (VAF) tu sửa Nghĩa
trang quân đội miền nam ở Biên Hoà và cải táng hài cốt
những người đã chết trong các trại tù cải tạo, đã
phải mất 38 năm sau thống nhất mới thấy có kết quả
sơ khởi (ở đây phải ghi nhận công lao của cố thủ
tướng Võ Văn Kiệt đã mạnh mẽ can thiệp với chính
quyền trung ương và địa phương mấy năm trước.)
Bởi
vậy, không thể đặt vấn đề hoà hợp mà không đề
cập đến vấn đề hoà giải: hoà giải giữa chính quyền
với trí thức và nhân dân trong nước, giữa chính quyền
và cộng đồng hải ngoại. Chính quyền phải đi bước
trước, và kết quả của hoà giải là "win-win"
chứ không phải "zero sum". Nói cách khác, hoà giải
phải có trước hoà hợp vì hoà hợp là kết quả đương
nhiên của hoà giải.
2.
Vấn
đề hoà hợp dân tộc không nhất thiết phải đặt ra vì
người Việt Nam trong và ngoài nước không chống nhau. Chỉ
có chính quyền là gây chia rẽ, mâu thuẫn trong các thành
phần dân tộc. Các thành phần dân tộc phải ý thức rõ
được điều ấy và tìm cách liên kết với nhau thì mới
tạo được sức mạnh đối thoại hay đối kháng với
chính quyền. Chỉ khi đó, chính quyền độc tài mới có
thể thật lòng nói chuyện hoà giải và thực hiện tiến
trình dân chủ hoá. Mẫu hình Myanmar sẽ có thể được
dùng làm cơ sở thảo luận và áp dụng thích hợp ở
Việt Nam.
Nếu
chẳng may, chính quyền chọn quyết định dùng bạo lực
để đàn áp nhân dân thì đó chính là hành động tự
sát.
Lê
Xuân Khoa
.
Một ý kiến chót
của tôi trước khi dừng bút là : ngay cả vấn đề hòa
giải hòa hợp quan trong này cũng cần được gác lại vì
tình thế hiện thời đòi hỏi toàn thể người Việt Nam
ở trong và ngoài nước phải liên kết chặt chẽ với
nhau để thực hiện hai nhiệm vụ cấp bách là đánh bại
Bắc Kinh trong âm mưu đô hộ và Hán hóa dân tộc Việt,
và thay đổi chế độ độc tài cộng sản bằng chế độ
dân chủ tự do thật sự. Lê Xuân Khoa
.
--------------------------
.
.
.
.
No comments:
Post a Comment